Luận Anh Hùng - Phần IV - Chương 18 - phần 2
Từ Giai luôn ủng hộ Hải Thụy, thậm chí còn là ân nhân cứu mạng Hải Thụy. Hải Thụy vì mắng chửi hoàng đế nên bị giam vào ngục, chiểu theo điều khoản con cái mắng chửi cha mẹ, bộ Hình chủ trương phải xử giảo Hải Thụy, nhưng Từ Giai đã ngăn lại. Bản thân hoàng đế Gia Tĩnh vẫn lưỡng lự nên giết Hải Thụy hay không? Gia Tĩnh lúc thừa nhận Hải Thụy nói đúng, lúc lại nghĩ không thể không giết tên súc sinh không coi vua cha ra gì. Từ Giai liền tìm cơ hội, nói nhỏ với Gia Tĩnh: “Không đáng để phải nổi giận với một thằng điên, nhà quê như Hải Thụy. Không phải hắn không biết hoàng thượng là thánh minh, nhưng lại cố ý tìm ra vài sơ hở, để được hư danh là trong sạch. Hoàng thượng giết hắn là làm hắn thêm hoàn mỹ. Chi bằng không xét tội, để hắn không có hư danh và mọi người càng thêm ca tụng hoàng thượng đức trùm bốn biển”. Lời nói tuy bình thường, nhưng đã giúp Hải Thụy rất nhiều, Hải Thụy không còn là kẻ mắng chửi thậm tệ, và nếu không như thế thì có thể cứu được một người từ trong miệng hổ của tên bạo chúa không? Lúc đó, nếu Từ Giai to nhỏ, thêm mắm thêm muối bên tai Gia Tĩnh thì chắc chắn Hải Thụy đã thịt nát xương tan.
Sau khi Hải Thụy ra tù, Từ Giai càng thêm tín nhiệm, gia tăng quan tước. Trong giai đoạn này nhờ có Từ Giai, con đường làm quan của Hải Thụy thênh thang rộng mở. Hải Thụy tuy là viển vông, nhưng cũng chưa đến đoạn không nhận ra đúng sai. Nhìn vị thủ phụ có ân cứu mạng, có ân cất nhắc, Hải Thụy vô cùng cảm kích. Sau khi Từ Giai chủ chính, đã làm được một số việc tốt, như thanh trừ bè đảng của Nghiêm Tung, loại bỏ mấy tên thầy cúng dùng pháp thuật hại dân, miễn giảm hơn bốn mươi vạn lạng bạc thuế muối, được nhân dân ủng hộ, Hải Thụy cũng ủng hộ. Thế rồi, trong lòng Hải Thụy, Từ Giai trở thành chính nhân quân tử. Lúc Từ Giai bị bọn Cao Củng, Lý Phương công kích, Hải Thụy đã kiên quyết đứng về phía Từ Giai. Từ Giai bị công kích từ bốn phía, tuổi lại cao, nên có ý định lúc gặp nạn sẽ lui, cáo lão về quê, Hải Thụy đã khuyên can nói, “bọn tiểu nhân mưu cầu tư lợi, biện loạn đúng sai”, chính sách của Từ Giai không sai, chính tích cũng không phai mờ. Thời đó, Hải Thụy đối với Từ Giai có thể nói là cảm kích, kính trọng và sùng bái nữa.
Nhưng sau khi đến nhận chức tuần phủ Ứng Thiên, Hải Thụy đã nhìn Từ Giai bằng con mắt khác. Vì lúc đến nhận chức, Hải Thụy đã phát hiện ra vấn đề xã hội nghiêm trọng nhất ở địa phương này, như hương thân hào cường đã chiếm dụng phần lớn đất đai, người cày không có ruộng, thuế má nặng nề, đương nhiên nông dân muốn lấy lại số đất đai đó. Nghe nói có đại lão gia thanh liêm không sợ cả hoàng đế là Hải Thụy đến, những người nông dân khốn khổ không biết kêu ai, đã tấp nập kéo tới tố cáo với Hải Thụy, nghe nói chỉ riêng huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang (Thượng Hải ngày nay) đã có hơn vạn nông dân đến tố cáo. Huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang là quê hương của Từ Giai và Từ Giai cũng chính là tên đại địa chủ xâm chiếm đất đai của nông dân nhiều nhất, bị các hộ nông dân căm ghét nhất. Từ Giai sống trong một đại gia tộc, nhiều đời sống chung, nên bao gồm mấy ngàn thành viên. Số đất đai họ chiếm hữu vô số, nghe đã thấy kinh, có người nói là hai mươi tư vạn mẫu, có người khác nói là bốn mươi vạn mẫu(1). Đất đai nhiều như vậy, đương nhiên không phải là thành quả gia tộc họ lao động mà có, chỉ có thể là của cưỡng bức, cướp đoạt. Điều nghiêm trọng nhất là, sau khi đã cướp hết đất đai, họ còn ỷ thế bắt dân phải nộp thuế. Các quan địa phương vì sợ thân thích của quan lớn Từ Giai nên không dám từ chối, đành phải vơ vét nhiều thêm nữa từ các hộ nông dân đang canh tác, để hoàn thành nhiệm vụ thuế má. Những người nông dân khốn khổ đã cùng đường, đành phải mang ruộng đất đi cầm cố hoặc hiến dâng cho họ Từ, mong được bảo hộ. Sự độc ác đó cứ tuần hoàn, kết cục là: Trời oán, người oán, dân không còn đường sống.
(1) Nghe nói, con số thực là sáu vạn mẫu, đều bị tịch thu. Sự việc xảy ra sau khi Hải Thụy bị bãi quan (Tác giả).
Hành vi tổn công (đất nước), tổn người (nông dân) để lợi mình của gia tộc Từ Giai làm cho một người thanh liêm chính trực như Hải Thụy hết sức kinh ngạc, và hình tượng Từ Giai trong mắt Hải Thụy đã từ trên cao rơi xuống ngàn trượng. Hải Thụy có cảm giác Từ Giai không còn là chính nhân quân tử gì gì nữa, mà đơn giản chỉ là ngụy quân tử. Thực không hiểu nổi, Từ Giai là vị quan thanh liêm chính trực ở trong triều, vì sao ở quê lại trở thành ác độc đến nhường ấy? Con người thực là khó hiểu! Đương nhiên, những hành vi phạm pháp kể trên đều do em trai và cháu chắt của Từ Giai thực hiện. Từ Giai từng đã khuyên can, nhưng khuyên can không được, đành phải mắt nhắm mắt mở, nuông chiều để chúng sinh hư. Hải Thụy thấy khó chịu, như có gai trong mắt, hơn nữa việc đó còn va rất mạnh vào nguyên tắc của Hải Thụy: Tức là không phù hợp với lí tưởng - mong có một xã hội giàu nghèo không chênh lệch là bao, không phù hợp với tiêu chuẩn chính trị - liêm khiết vì công, giữ gìn kỷ cương, tôn trọng pháp luật của Hải Thụy, đương nhiên Hải Thụy không thể nhẫn nhịn và tha thứ.
Kết quả cuối cùng của sự việc là: Con cả, con thứ của Từ Giai và hơn chục hào nô bị xử sung quân, con thứ ba bị cách quan, có đến tám, chín phần trong số mấy ngàn gia nô cho đi chỗ khác, hơn một nửa số ruộng đất của nông dân từng bị cướp đoạt được hoàn trả.
Cuối cùng thì ai đã xử lý phần việc của Từ gia, các sử gia mỗi người nói theo một cách. Có người nói, người chủ trì là Cao Củng và Sái Quốc Hy, có người lại quy công cho Hải Thụy. Cao Củng là kẻ thù chính trị của Từ Giai, từng bị Từ Giai lật đổ. Từ Giai thoái lui, Cao Củng được phục chức, liền cử môn sinh của mình là Sái Quốc Hy là tri phủ Tô Châu, sau này lại điều nhiệm về Tùng Giang, lo đối phó với Từ Giai. Giờ đã nắm quyền trong tay, lý gì chúng lại không trả thù rửa hận. Còn như Hải Thụy, có thể trong lòng còn nhiều mâu thuẫn. Hải Thụy không muốn biết sự việc đầy căm phẫn đó lại do ân nhân làm, lại không thể không nhìn vào sự thực, kiên trì nguyên tắc. Hải Thụy còn một nguyên tắc khác: Đối việc không đối người. Việc Hải Thụy cần làm là chỉnh đốn kỷ cương, và không chỉnh người. Vì vậy, trọng tâm của công việc là hoàn trả lại đất và hy vọng Từ Giai có thể chủ động trả lại đất. Hải Thụy biết, ruộng đất của dân được trả lại thì lòng căm phẫn của dân cũng sẽ dịu đi. Lúc này cần giúp Từ Giai một tay và đó không phải là chuyện khó. Tiếc là Từ Giai không hề tự giác, lại hết sức hẹp hòi, chỉ hoàn trả lại một ít, gọi là tượng trưng. Từ Giai muốn phô diễn, muốn mơ mơ hồ hồ cho qua chuyện. Hải Thụy là người cả tin, chưa bao giờ làm việc đó, nên đã đến giục. Nhưng Từ Giai lại thoái thác, nói ruộng đất đó là của con trai, không tiện làm chủ. Như vậy là quá kém, một chút phong độ của tể tướng cũng không còn! Lần nữa Hải Thụy lại đến thúc, nói gần đây tra duyệt danh sách trả lại ruộng đất, được biết thịnh đức của các hạ lớn lao ngoài sức tưởng tượng của mọi người, đáng tiếc con số trả lại chưa nhiều, hi vọng được thanh lý nhiều hơn. Trước kia một số người con có thể sửa chữa sai lầm của cha mẹ, nay các hạ là cha, sửa chữa sai lầm của con cái, có gì là không được? Đồng thời, Hải Thụy còn có thư cho thủ phủ Lý Xuân Phương, nói: “Từ Giai bị lũ tiểu nhân bưng bít, nên tài sản quá lớn đến mức khiến người ta kinh hãi. Nay “dân phong hiểm ác”, nếu Từ Giai không hoàn trả hơn nửa ruộng đất, e sẽ bất lợi cho ông ấy”. Hải Thụy tuy không chịu hy sinh nguyên tắc của mình, nhưng vẫn muốn ủng hộ Từ Giai. Rõ ràng, Hải Thụy có công lớn trong việc hoàn trả ruộng đất, còn việc sung quân, bãi quan phần nhiều là công của hai vị Cao, Sái, và đều là những việc xảy ra sau khi Hải Thụy đã bị bãi quan.
Hải Thụy chỉ muốn sửa chữa những sai lầm của Từ Giai, không muốn đẩy Từ Giai vào chỗ chết. Hải Thụy đã lao tâm khổ tứ tìm cách bảo toàn Từ Giai trong trường hợp không phải hy sinh nguyên tắc, nhưng như vậy, khác gì đã trở mặt với Từ Giai. Theo Hải Thụy, chỉ cần tự vấn lương tâm thấy không hổ thẹn: Trên không hổ với cha với vua với đất nước, dưới không hổ với lê dân trăm họ, ở giữa không hổ thẹn với ân nhân đã cứu mạng. Nhưng Hải Thụy lại không biết, trong chốn quan trường chỉ có thân sơ, không có đúng sai. Với logic lấy người thân làm ranh giới, giới quan trường coi Hải Thụy là kẻ phản bội Từ Giai, và trở thành đồng bọn với Cao Củng. Lần này Hải Thụy đã đắc tội với toàn bộ tập đoàn Từ Giai.
Tập đoàn Cao Củng cũng không nể tình, vì Hải Thụy từ lâu đã đắc tội với Cao Củng. Vào năm Long Khánh thứ nhất (năm 1567), Từ và Cao đã đấu với nhau. Đồng đảng với Cao Củng - Tề Khang hạch tội Từ Giai, nói con cái và gia nhân Từ Giai hoành hành bá đạo, làm nhiều điều xấu ở thôn quê. Đó là sự thực, vì thế Từ Giai đành phải xin được nghỉ hưu. Lúc đó, quan viên phụ trách giám sát trong triều đều là thân tín của Từ Giai đã hợp lại phản công. Âu Dương Nhất Kính là người đầu tiên quả quyết Cao Củng, Tề Khang là gian đảng. Tề Khang cũng phản đối, nói Âu Dương Nhất Kính là gian đảng. Khi hai bên tranh cãi tới mức Hải Thụy lên tiếng. Hải Thụy dâng sớ trách cứ mạnh mẽ Tề Khang, nói mục đích Tề Khang hạch tội Từ Giai là để Cao Củng được nắm quyền, Tề Khang là loài “ưng khuyển”, tay sai của Cao Củng, là kẻ “chỉ biết đến tước lộc của mình, không lo cho sự an nguy của thiên hạ”, vì vậy Cao Củng đáng phải bãi quan, Tề Khang đáng phải xử hình(2). Lúc đó, tiếng tăm Hải Thụy đang nổi như cồn. Bản tấu của Hải Thụy đã giáng một đòn nặng nề vào Cao Củng. Kết cục, Cao Củng từ chức, Tề Khang bãi quan. Về sau, lúc Cao Củng xuất hiện trở lại, đương nhiên phải báo thù Hải Thụy. Cao Củng quyết không tha Hải Thụy dù Hải Thụy muốn Từ Giai trả lại ruộng đất.
(2) Thực ra, Cao Củng cũng không tệ lắm, về tài trí, khí phách đều hơn Từ Giai, sinh hoạt cũng giản dị chất phác. Môn sinh của Cao Củng là Sái Quốc Hy cũng xứng đáng với chức tri phủ Tô Châu, hợp tác rất tốt với Hải Thụy. Vì vậy, khi biên tập văn tập sau này, Hải Thụy đã phải nhìn nhận lại bản tấu sớ này (Tác giả).
Lần này, Hải Thụy còn đắc tội cả với Trương Cư Chính. Trương Cư Chính vốn cùng phe với Từ Giai. Nhờ được Từ Giai tiến cử, Cư Chính trở thành đại thần trong nội các. Sau khi vào nội các, Cư Chính luôn đứng về phía Từ Giai. Sau khi nghỉ chức, vì sợ Cao Củng báo thù, nên Từ Giai luôn phải giữ quan hệ với Cư Chính, còn mong Cư Chính làm trung gian hòa giải. Trương Cư Chính thấy việc đó rất đơn giản: Tri phủ Tô Châu tuy là Sái Quốc Hy, nhưng tuần phủ Ứng Thiên lại là Hải Thụy! Hải Thụy chịu ơn Từ Giai, lý gì lại không quan tâm? Nhiều lắm cũng chỉ là một cuộc làm quen. Thế là, Trương Cư Chính có thư gửi Hải Thụy, nói khéo, mong Hải Thụy lưu tâm một chút. “Tồn Lão chi thể diện, Huyền ông chi mỹ ý”. Tồn Lão là Từ Giai. Từ Giai tự là Tồn Trai, nên còn gọi là Tồn Lão. Huyền Ông là Cao Củng. Cao Củng tự là Trung Huyền, nên gọi là Huyền Ông. Lúc đó, Cao Củng là thủ phụ, Trương Cư Chính là thứ phụ. Trương Cư Chính muốn giúp Từ Giai, lại không muốn đắc tội với Cao Củng, nên mới nói như vậy. Cư Chính không ngờ, Hải Thụy là người rất nguyên tắc, Hải Thụy luôn muốn báo thù Cao Củng, Hải Thụy rất không hài lòng với cảnh đó, nên không những không giữ được thể diện của Từ Giai mà Cư Chính cũng mất luôn cả thể diện. Sau khi Hải Thụy bị bãi quan, đã có người muốn đề cử Hải Thụy, nhưng vì có Trương Cư Chính giở trò ở bên trong, nên Hải Thụy mới không được phục chức.
Trương Cư Chính không muốn Hải Thụy được phục chức, đương nhiên còn một nguyên nhân nữa, đó là ông ta cảm thấy, một người không dung hòa được với bất kỳ sự kiện nào như Hải Thụy, nếu giữ lại ở chốn quan trường thì có hại. Ngược lại, lúc này Hải Thụy đã đắc tội với Từ Giai, Cao Củng, ai vào thời đó thế lực của ba người này trong giới quan trường là rất mạnh. Đắc tội với họ ngang như đắc tội với toàn bộ giới quan trường.
Nhưng gần như Hải Thụy chưa đã nghiền. Sau khi bị lũ Thư Hóa, Đới Phượng Tường hạch tội, Hải Thụy có thư gửi Cao Củng, nói “nhân tình thế thái, việc thiên hạ chỉ có thế thôi ư! Liệu còn gì hay hơn không!”. Hải Thụy rất phẫn nộ, nói thêm, muốn Hải Thụy này vứt bỏ niềm vui thiên luân giữa mẹ con, vứt bỏ cái đẹp tự nhiên của núi rừng, để bàn bạc đúng sai với lũ tiểu nhân, để mất bao nhiêu sức lực mới thành công một sự việc, phỏng có ích gì! Xem ra đại sự trong thiên hạ, chỉ còn biết trông cậy ở các hạ! Nói điều này ngang như đã chỉ thẳng vào mặt Cao Củng mà chửi. Mắng Cao Củng còn là chuyện nhỏ, Hải Thụy còn có hai lần viết thư gửi hoàng đế, mắng chửi triều đình, lần thứ nhất nói “kẻ sĩ cả triều, giống như lũ đàn bà”, lần thứ hai nói “Nho sĩ nhu nhược ngang lũ đàn bà”. Chửi như vậy, ngang như cự tuyệt tập đoàn quan văn. Nghe nói, ngay như ngài Lý Xuân Phương - người nổi tiếng, cũng thấy rất khó có thể tiếp nhận. Lý Xuân Phương nói với mọi người, nếu cách nói của Hải Thụy được chấp nhận, thì chẳng phải ta cũng là một mụ già rồi sao?
Nhìn chung, lúc này Hải Thụy đã đắc tội với mọi người trong triều. Dù số người đó không xung đột trực tiếp với Hải Thụy, thì họ cũng không chấp nhận hành động và tư tưởng của Hải Thụy. Không nghi ngờ gì, Hải Thụy là người tốt, là vị quan tốt. Hải Thụy lương thiện, chính trực, cương nghị, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, thà gãy chứ không cong, quyết không thỏa hiệp, ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên trước. Nhưng chính vì những phẩm hạnh ưu tú đó, mà Hải Thụy luôn va vào tường, bước vào ngõ cụt, Hải Thụy như con hươu con, ngây thơ hiền lành, sơ ý đã rơi vào bầy hồ ly, lang sói, nhưng vẫn cứ tưởng mình là một chú sư tử dũng mãnh.
Thực lòng ủng hộ Hải Thụy lúc này, chỉ có thể là trăm họ và những người nông dân nghèo khổ. nhưng vào thời đó, sự ủng hộ của họ, liệu có tác dụng gì!

