Luận Anh Hùng - Phần II - Chương 11
VI. Gian hùng đáng yêu
Tào Tháo không chỉ có tình, mà còn đáng yêu.
Điểm đáng yêu nhất của Tào Tháo là thích nói thật. Trong đấu tranh chính
trị, bươn chải nơi quan trường, tránh sao khỏi phải giả dối, ít ra cũng là lời
nói trong chốn quan trường, huống chi Tháo lại là “gian hùng”. Nhưng chỉ cần có
điều kiện là Tháo nói thật hoặc gần như thật, không có vẻ gì là quan cách.
“Nhượng huyện tự minh bản chí lệnh” vốn là bài chính trị cực kỳ quan trọng,
xứng đáng với bốn chữ “cương lĩnh chính trị”, nhưng lại viết rất thật, rất rõ
ràng, không hề quan cách. Mở đầu Tháo nói, cá nhân tôi vốn chẳng có hùng tâm
tráng chí gì, cũng không phải là nhân sĩ nổi tiếng. Lúc đầu chỉ muốn là một
quận thú tốt, về sau chỉ muốn là một tướng quân tốt, không dám có nhiều quân.
Chỉ vì thời thế biến đổi, nên tôi mới có vị trí như bây giờ, đúng là “ý nguyện
được thực hiện, là nhân thần cao quý nhất”. Lúc này đã có thể nói mạnh: Một khi
đất nước không có Tào mỗ này, liệu sẽ có mấy người xưng đế, mấy người xưng
vương. Số người đàm tiếu về Tào mỗ cũng nhiều hơn. Tôi có thể nói thẳng với mọi
người: Tôi chỉ muốn là Tề Hoàn công, Tấn Văn công, phụng thiên tử để lệnh các
chư hầu. Điều này, tôi không chỉ nói với các vị, mà còn nói cả với vợ, con. Tôi
còn muốn trăm năm sau, mọi cơ thiếp đã được cải giá, sẽ lan truyền nguyện vọng
của tôi ra khắp bốn phương. Cũng vậy, tôi muốn nói rõ với mọi người, tôi sẽ
không bao giờ rời bỏ binh quyền, về quê dưỡng già. Vì sao vậy? Vì sợ, một khi
mất hết binh quyền, tôi sẽ bị hãm hại, đất nước sẽ không yên bình. Tôi có thể
nhường một ít đất mà hoàng thượng ban thưởng, còn quyền lực thì không nhường.
Tóm lại, “đất nước chưa yên, không thể nhường quyền; còn như đất đai, tôi có
thể nhường”. Đó là thái độ của tôi!
Những lời nói trên là hết sức rõ ràng chân thực, rõ ràng chân thực đến mức
không còn gì để nói. Bảo Tháo khuếch khoác chăng, Tháo không bốc phét, thưở
thiếu thời Tháo không có địa vị, danh vọng gì, bảo Tháo dối trá chăng, Tháo
không dối trá, Tháo nói, Tháo muốn làm quan, muốn là Tề Hoàn công, Tấn Văn công
dã tâm rất lớn; bảo Tháo giả khiêm tốn chăng, không, khẩu khí của Tháo rất lớn,
từng nói không có Tào mỗ, thiên hạ sẽ loạn ngay; bảo Tháo không thật chăng,
Tháo rất thật, nói, không một giây phút nào rời khỏi quyền lực, một chút cũng
không nhường. Nói đến vậy thì liệu còn ai có thể nói gì thêm? Không còn ai.
Rõ ràng Tào Tháo là người thông minh. Trong thời đại người người đều dối
trá thì nói thật là vũ khí tốt nhất. Đó không chỉ vì bản thân lời nói thật có
sức mạnh hùng biện, còn vì lời nói thật làm cho kẻ nói dối không còn đường rút,
vở diễn của họ cũng phải khép lại, buổi diễn phải hạ màn. Vì vậy để đối phó với
loại người thường ra vẻ quan cách, luôn khuếch khoác, dối trá, thì biện pháp
tốt nhất là luôn nói thật. Giống như đứa trẻ reo lên: Ôi! Hoàng đế không mặc quần
áo. Lúc này, những kẻ chuyên dối trá sẽ phát hiện ra mình cũng không mặc quần,
thực đáng hổ thẹn, thực vô tích sự.
Tào Tháo nói như vậy, không hoàn toàn vì sách lược đấu tranh, mà vì bản
tính của Tào Tháo là ưa nói đúng, nói thật. Vì vậy Tào Tháo nói rất tự nhiên,
rất lưu loát và mạnh mẽ. Tuy đằng sau lời nói đúng đó, còn có chút chưa sát,
đằng sau lời nói thật đó còn có chút giả dối, thậm chí còn có việc chưa cho
người ta biểu, nhưng tất cả đều được giấu kín, không để lộ chân tướng. Tào Tháo
cũng rất thực tế. Bữa ăn không cần cầu kỳ, quần áo không cần cầu kỳ, chỗ ở cũng
đơn giản, chỉ cần no bụng, đủ chất, quần áo vừa vặn, chăn đắp thật ấm là được.
“Nhu yếu phẩm xa xỉ” duy nhất của Tào Tháo có thể là các nghệ nhân ca múa và
những người thiếp. Tào Tháo có phần háo sắc, nhưng cũng rất thực tế, không hề
lấy cớ là “đường con cái khó khăn”. Tào Tháo đón nhận nhân tài cũng rất đơn
giản, Tháo nói, bất kể là ai, trên triều cũng được, ngoài dã cũng được, nhã hay
tục đều được, chỉ cần biết trị quốc dụng binh là được, còn mang tiếng chưa hay,
hành vi buồn cười, thậm chí là “bất nhân bất hiếu” cũng chẳng sao, miễn là chú
mèo tốt biết bắt chuột già.
Cũng chính vì đơn giản như vậy, nên Tào Tháo vừa gian trá lại vừa rất đáng
yêu. Lúc tây chinh Mã Siêu, Hàn Toại, Tào Tháo và Hàn Toại gặp nhau trên trận
địa, binh sĩ của Hàn Toại nghe tin Tào Tháo xuất hiện đã ùa lên và rướn cổ lên
nhìn. Tào Tháo nói to: “Các ngươi muốn nhìn Tháo ta chăng? Nói để mọi người
hay, ta là người như mọi người, không hề có bốn mắt hai miệng, chỉ có một chút
trí tuệ là hơn mọi người!”. Lời nói rất đơn giản, cũng rất đáng yêu.
Trong sinh hoạt hàng ngày, Tháo rất thoải mái, rất tùy tiện. Tháo thường
mặc áo lụa mỏng, lưng thắt đai da, tay cầm mấy thứ lặt vặt như khăn lau mặt, có
lúc còn đội mũ thường bằng lụa để tiếp khách. Lúc nói chuyện với mọi người luôn
thoải mái, nghĩ gì nói nấy, muốn nói gì thì nói luôn. Nói đến chỗ vui thì cười
ngặt nghẽo, đầu gục xuống khay trà, mũ tóc ướt hết. Tháo rất thích nói đùa,
ngay cả khi có việc nghiêm chỉnh.
Năm Kiến An thứ mười bảy, lúc cải cách cơ cấu, có người yêu cầu phân chia
Đông Tào, có ý trách Tào Tháo chuyện Đông Tào, chuyện Mao Giới nặng về lý nhẹ
về tình. Tào Tháo trả lời sâu sắc và rất vui: “Mặt trời mọc đàng đông, trăng
sáng từ hướng đông. Đông tây, đông tây, người ta luôn nói đông trước rồi mới
đến tây, vì sao phải phân chia Đông Tào?”. Lại như Diêm Hành đầu hàng Hàn Toại,
có cha đang là con tin trong tay Tào Tháo. Tháo liền có thư cho Diêm Hành: “Lúc
này lệnh tôn đại nhân đang bình yên vô sự. Có điều, lao ngục không phải là nơi
dưỡng lão, hơn nữa, nhà nước cũng không thể nuôi dưỡng cha già cho người
khác!”.
Tào Tháo thích nói đùa và cũng rất thích những người bạn biết nói đùa. Thái
úy Kiều Huyền là người từ lâu đã thích Tào Tháo, được coi là “bạn vong niên”
của Tào Tháo. Trong văn tế Kiều Huyền, Tào Tháo có câu: “Năm đó Kiều lão cùng
ta “ung dung thề bồi”, “Sau khi ta qua đời, lúc ngang qua mộ ta, nếu không có
một con gà, một bình rượu vào lễ, thì lúc xe qua được ba bước, nếu có đau bụng
thì đừng trách”. So với lời điếu của các quan thì bài văn tế này rất đáng yêu
và tình cảm, chân thực hơn nhiều. Tào Tháo còn một người bạn cùng quê là Đinh
Bùi, là kẻ tham lam vụn vặt, từng dùng chức quyền đổi con bò gầy của nhà lấy
con bò béo, kết quả bị bãi quan. Tào Tháo gặp họ Đinh có ý hỏi: “Văn hầu à,
quan ấn của ngươi vứt đi đâu rồi?”. Đinh Bùi vui vẻ cười, nói: “Đổi lấy bánh
nướng ăn rồi. Tào Tháo cười khà khà, quay lại nói với mấy người hầu: “Nhiều lần
Mao Giới bảo ta phạt Đinh Bùi thật nặng. Ta nói, hắn giống như con mèo thích ăn
vụng và biết bắt chuột, lưu lại vẫn có ích”.
Với tính cách đó, Tào Tháo có thêm nhiều thuận lợi trong sự nghiệp của
mình. Người làm chính trị nếu nghiêm chỉnh quá cũng không hay, mọi người cảm
thấy quá sâu sắc nên không tin hoặc cảm thấy không hiểu tình người nên khó gần.
Tốt nhất là, lúc làm việc thì nghiêm túc chăm chỉ, lúc thường thì thoải mái dễ
dãi; điều gì thuộc nguyên tắc thì không buông, còn những thứ vụn vặt thì qua
loa đại khái, như vậy chỉ có đủ uy nghiêm uy vọng của lãnh tụ, còn được coi là
người tình cảm, hài hước. Người như vậy luôn được người khác quý mến, ủng hộ và
trung thành. Tào Tháo chính là người như vậy.
Đúng, Tào Tháo tuy thoải mái tùy tiện, nhưng không hề nông cạn. Thực ra,
Tào Tháo là người thâm trầm.
Dường như mọi người đều cho Tào Tháo là xảo trá, nhưng không ít người lại
cho Tào Tháo là nông nổi, như vậy là sai lầm trong lúc bình phẩm người khác.
Xảo trá và nông nổi là hai tính cách không thể dung hòa. Người nông nổi tất
không xảo trá, còn người xảo trá thì nhất định là thâm trầm. Vì thâm trầm nên
tâm địa mới sâu sắc, tâm địa sâu sắc mới có quyền mưu. Người nông nổi thì chẳng
giấu được ai, người nông nổi lại muốn có âm mưu quỷ kế sao? Chuyện đùa.
Thực tế thì Tào Tháo không nông nổi và cũng không thích người nông nổi.
Trong mắt Tào Tháo thì Khổng Dung, Nễ Hành thuộc loại người nông nổi, chính vì
coi họ là loại người nông nổi, nên mới trục xuất Nễ Hành, mới không vội vàng ra
tay với Khổng Dung. Tận khi Khổng Dung dâng thư đề xuất chủ trương “không phong
hầu trong phạm vi ngàn dặm”, gần như là đuổi Tào Tháo ra vùng hẻo lánh xa xôi
(lúc này Tào Tháo được phong Vũ Bình hầu, phong ấp cách Hứa Đô chừng ba trăm
dặm), Tào Tháo hết cách nhẫn nhịn. Tuy vậy, trước mắt Tào Tháo vẫn cảnh cáo
Khổng Dung với danh nghĩa người điều hòa mâu thuẫn giữa Khổng Dung và Si Lự,
Tào Tháo có thư gửi Khổng Dung, nói: “Tuy ta tiến không thể thực hiện giáo hóa
di phong di tục, lui không thể xây dựng nhân đức đoàn kết đồng liêu, nhưng ta
nuôi dưỡng chiến sĩ, xả thân vì nước, còn có nhiều biện pháp đánh vào lũ tiểu
nhân nông nổi hư vinh, thích kéo bè kết đảng”. Rõ ràng Tào Tháo căm ghét lũ
nông nổi và đương nhiên, không hề nông nổi.
Không sai, lúc nhỏ Tào Tháo không thực “nghiêm chỉnh”. Tào Tháo thích bay
nhảy vui đùa, làm những việc không đâu, thậm chí là những việc có phần ác ý
nhưng cũng thích đọc sách, đây chính là điểm khác với Lưu Bang, Hạng Vũ và
những người khác. Về sau, trong cuộc đấu tranh chính trị gay gắt và phức tạp,
Tào Tháo mới trở nên trầm tĩnh, lòng dạ sâu xa. Sử sách còn ghi, Tào Tháo “cầm
quân hơn ba mươi năm, tay không rời sách, ngày bàn về võ nghệ, đêm nghĩ đến
kinh truyện”. Đó là người nông nổi sao? Tào Tháo mặc áo thường, nói chuyện vui,
làm văn thơ, nghe âm nhạc, tiếc rằng đó chỉ là giây phút nghỉ ngơi sau lúc làm
việc căng thẳng và đó cũng là biểu hiện thế giới nội tâm phong phú của Tào
Tháo. Rõ ràng đó còn là viên đạn bọc đường nhằm làm tê liệt kẻ thù. Tào Tháo
làm văn, làm việc, dùng người không hề câu nệ, càng không nông nổi, mà rất mạnh
mẽ. Đại pháp vô pháp. Đối với ngòi bút cứng cỏi của Tào Tháo thì không cần phải
nhiều cách thức, luật lệ như vậy.
Tào Tháo thâm trầm, biểu hiện ở chỗ hiểu đúng người, ý nghĩ sâu xa. Tào
Tháo mưu sâu kế xa. Bề ngoài, Tào Tháo có thể nắm tay bạn, nói chuyện vui, cùng
nhau hi hi ha ha, nhưng Tào Tháo đang quan sát bạn và quan sát rất kỹ. Viên
Thuật hung hăng càn rỡ, Viên Thiệu ngông cuồng, tự cao tự đại hết mức, Tào Tháo
đều không coi ra gì. Nhưng lại nhìn Lưu Bị bằng con mắt khác. Lưu Bị trước kia
bán dép cỏ, hiện đang ăn đậu ở nhờ người ta. Dù Lưu Bị đang giấu tài, giả ngây
giả dại, Tào Tháo thoạt nhìn đã nhận ra: “Nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ
quân và Tháo này”, Lưu Bị sợ đến rơi cả đũa. Có lẽ Tào Tháo không nên nói câu
này trước mặt Lưu Bị, nhưng có thể giải thích là thiếu thận trọng, là bắn pháo
để trinh sát, hoặc giết gà dọa khỉ. Ý muốn nói: Trong hai ta, đừng ai vờ là Tôn
Tử. Trong hai ta, đừng tưởng ai ngốc hơn ai, hoặc ai thông minh hơn ai. Quả
nhiên, Lưu Bị không dám vờ nữa, tìm cớ để xa chạy cao bay.
Nếu nói, để Lưu Bị thoát là một sơ sẩy mà chính Tào Tháo phải tự trách
mình, thì việc Tào Tháo loại bỏ người khác, từng bước từng bước thắng lợi, lại
tương đối kín kẽ. Để giết Tuân Úc, trước hết, Tào Tháo mời Tuân Úc ra tiền
phương úy lạo quân sĩ, điều Tuân Úc ra khỏi triều đình. Tiếp đến, bãi miễn chức
thượng thư lệnh, giáng làm tham thừa tướng quân, Tuân Úc trở thành cấp dưới
trực tiếp của Tào Tháo. Cuối cùng mới sai người đưa hộp bánh cho Tuân Úc. Tuân
Úc mở ra xem thấy bên trong rỗng không, nên phải tự sát. Liệu một người nông
nổi có được thủ đoạn như vậy không? Những ai dưới quyền Tào Tháo, cho rằng Tháo
là người nông nổi thì e thủ cấp người đó sắp sửa phải dọn ra chỗ khác.
Và Tào Tháo còn là người biết quý trọng cuộc sống, quý trọng sinh mạng,
thích đọc sách, thích suy nghĩ. Điều đó khiến Tào Tháo thâm trầm, thông hiểu vũ
trụ, nhân sinh, khác hẳn những kẻ bụng dạ sâu sắc nhưng mưu mô và dã tâm. Bài
“Quy tuy thọ” và “Đoản ca hành” của Tào Tháo, viết: “Rùa thần tuy thọ, còn có
lúc chết. Rắn bay lên mây, cũng sẽ thành tro”. Đời người có thể được bao lâu?
Khác gì giọt sương mai, tan biến nhanh chóng. “Trước rượu nên ca, đời người
được mấy. Như hạt sương mai, ngày tháng khổ bấy?”. Đời người ngắn ngủi là vậy,
lẽ nào không tiếc nhớ? Sinh mệnh mềm yếu là vậy, lẽ nào không gìn giữ. Ngày
tháng ngắn ngủi như vậy, lẽ nào lại để mất?
Đó có thể được coi là suy tư triết học về vũ trụ nhân sinh. Đương nhiên,
Tào Tháo đứng trên lập trường chính trị mà suy nghĩ. Vì vậy Tào Tháo mới kết
luận “Ngựa già gục đầu, chí ở ngàn dặm. Liệt sĩ cuối đời, hùng tâm chưa hết”,
đúng “núi không ngại cao, nước không ngại sâu, Chu công thổ lộ, thiên hạ theo
về”. Ý muốn nói, hãy nắm bắt thời gian ngắn ngủi kia để làm nên sự nghiệp vang
trời dậy đất, thực hiện nhiệm vụ chính trị trong cuộc đời ngắn ngủi của mình.
Do có ý tưởng “để sinh mệnh ngắn ngủi biến thành vĩnh hằng”, nên “đế vương
khanh tướng có nòi chăng” hoặc “đại trượng phu phải nên như vậy” càng có phong
độ, có ý nghĩa, càng thêm khí thế.
Đúng là Tào Tháo rất có khí thế. Đọc thơ văn của Tào Tháo, luôn cảm thấy
khí phách anh hùng trong đó. Dù là đoạn văn ngắn, từ vui buồn giận dữ thốt ra,
từ phấn chấn thích thú viết nên, vì có khí phách nên không hề thô thiển, nhất
là bài “Quan thương hải” của Tào Tháo, khí thế biết chừng nào: “Đông đến Kiệt
Thạch, nhìn ra biển khơi. Nước lững lờ trôi, sơn đảo sừng sững. Cây cối xanh
tươi, hoa cỏ rậm rạp, gió thu lạnh lùng, sóng hồng cuồn cuộn. Ngày tháng trôi
qua, như ra từ đó, sao Hán xán lạn, từ đó mà ra”. Những bài thơ như thế này,
phải là tay bút giỏi mới làm được. Chung Vanh nói: “Tào công xưa nay vẫn có
những câu thực bi thương”. Ngoài lời của Lưu Hiệp “do loạn ly chồng chất quá
nhiều, phong tục suy đồi, có tâm cao nét bút khỏe, nên mới cảm khái và đầy khí
thế”, những tình cảm bi thương đó, còn liên quan đến tư duy triết học về nhân sinh
vũ trụ của Tào Tháo. Cuối cùng, Tào Tháo là anh hùng thời loạn, Tháo đã nhìn
thấy, nghĩ tới nhiều hơn ai hết về những sinh mệnh bị hủy diệt. Ít nhiều Tào
Tháo đã quan tâm thương cảm, nên mới xúc động như vậy. Đó chính là Tào Tháo.
Tào Tháo đại khí thâm trầm, phóng khoáng, hào sảng, siêu thoát, nhạy bén, hòa
hợp, quỷ quyệt, xảo trá, lạnh lùng, tàn nhẫn, đúng là một nhân vật cực kỳ phong
phú, nhiều mặt, rất có cá tính, rất biến hóa. Tào Tháo là người sống hẳn hoi,
không phải là phù hiệu chính trị hoặc xác chết chính trị, càng không phải bộ
mặt suốt ngày u ám, một kẻ côn đồ có tâm sự, chỉ muốn chỉnh trị người khác.
Nhưng Tào Tháo lại được coi là gian hùng, suốt đời mang tiếng xấu.
Đương nhiên, Tào Tháo cũng có chỗ đáng mắng. Tháo giết nhiều người và nhiều
người bị oan. Tháo làm nhiều việc mất lòng người, nhiều việc thất đức. Nhưng
Lưu Bị, Tôn Quyền, họ không giết người sao? Không làm việc thất đức sao? Lưu Bị
bán rẻ cố nhân Lã Bố thật trái đạo, Tôn Quyền phế truất thái tử Tôn Hòa, thật
oan uổng. Tôn Hòa là con được Tôn Quyền sủng ái nhất, bản thân biểu hiện không
tồi, vừa thông minh, vừa hiếu học, luôn vui vẻ với mọi người. Tôn Hòa bị người
khác hãm hại nên thất sủng. Kết quả, số đại thần thấy bất bình, đứng ra nói lý,
nhưng đều bị trừng trị, người bị diệt tộc, người bị phạt roi, người bị đầy,
“mọi người đều oan uổng”, tất cả đều cho đó là án oan. Lã Bố thì chết không
oan, vì Lã Bố là kẻ xấu. Lã Bố vốn là bộ tướng của Tinh châu thứ sử Đinh
Nguyên, Đinh Nguyên coi Lã Bố như người thân, nhưng Lã Bố đã giết Đinh Nguyên
để theo Đổng Trác, Đổng Trác coi hắn như con, hắn lại giết Đổng Trác, sang hàng
Vương Doãn. Về sau rơi vào tay Tào Tháo, lại định vẫy đuôi với Tháo. Lúc đó,
Lưu Bị đang ở bên Tào Tháo, Lã Bố liền cầu cứu Lưu Bị, vì trước đây Lã Bố từng
giúp Lưu Bị. Lã Bố nói: “Huyền Đức công, nay ngài đang là khách, còn tôi, tội
phạm dưới thềm, tôi bị trói chặt quá, ngài không thể nói giúp tôi một lời hay
ho sao?”. Lúc này Tào Tháo đang định hạ lệnh nới dây trói cho Lã Bố, thì bất
ngờ nghe Lưu Bị nói một câu lạnh tanh: “Minh công không thấy Lã Bố từng đối xử
với Đinh Nguyên, Đổng Trác như thế nào sao?”. Một câu nói làm Lã Bố mất đầu, Lã
Bố giận quá chửi ầm lên: “Thằng nhóc tai to kia (Lưu Bị tai to quá khổ) thực
không thể tin được!”.
Thực tế, Lã Bố tuy là kẻ vong ân bội nghĩa, nhưng việc Lã Bố đối xử với Lưu
Bị, đáng để phải suy nghĩ. Năm đó, Viên Thuật vây khốn Lưu Bị ở huyện Bái, Lưu
Bị cầu cứu Lã Bố. Lã Bố tuy có mâu thuẫn với Lưu Bị, muốn giết Lưu Bị, nhưng
lại tự xông vào chiến trường, đọ kích ở Viên môn, cứu mạng Lưu Bị. Hơn nữa, Lã
Bố còn nói rõ với bộ tướng của Thuật: “Lưu Bị là anh em của ta, nay ta đến
cứu”. Vì vậy, lần này Lã Bố thấy mình có đủ tư cách cầu cứu Lưu Bị. Rõ ràng,
lần trước Lã Bố cứu Lưu Bị là có tính toán riêng (sợ Viên Thiệu được thể sẽ đến
đánh mình); Lưu Bị không cứu Lã Bố là nghĩ giúp cho Tào Tháo (giữ thằng nhóc
này lại là có hại). Nhưng lấy oán để báo ân là có phần khuyết đức. Trên thực
tế, Lưu Bị, Tôn Quyền hay Lã Bố đều giống như Tào Tháo, đặt “lợi ích” lên trên
hết, “nghĩa” là thứ hai. Là kiêu hùng thời loạn, trình độ đạo đức, quan điểm
đạo đức của họ không khác nhau mấy, kẻ tám lạng người nửa cân, chí ít Tôn Quyền
“tính tình đa nghi, quả quyết giết chóc”, cũng là người thích tạo án oan, tàn
ác độc địa. Tào Tháo không biết sợ, dám công khai cầm gậy, còn Lưu Bị biết vờ,
Tôn Quyền biết nhịn, nên không bị mắng chửi nhiều như Tào Tháo.
Đúng là Lưu Bị và Tôn Quyền giảo hoạt hơn Tào Tháo nhiều (thế lực của họ
tương đối yếu, nên không thể không giảo hoạt). Đặc biệt là Lưu Bị giỏi vờ nhất.
Trước mặt Tào Tháo, Lưu Bị vờ nhát gan, trước mặt Gia Cát Lượng lại vờ đuối
trí, trước mặt bộ hạ vờ là nhân từ, bác ái, trăm họ đều rõ “Lưu Bị ném con để
lấy lòng người”. Đương nhiên, nói là thông minh hoặc giảo hoạt, còn thể hiện ở
mặt chính trị. Họ luôn thận trọng, giấu kín sự sắc sảo, để khỏi trở thành đích
ngắm của vô vàn mũi tên. Tôn Quyền thậm chí còn nhẫn tâm thao túng để Tào Tháo
xuất đầu lộ diện, may sao Tào Tháo đã nhìn thấu, nên không bị lừa. Nhưng Tào
Phi thì bực bội, nên khi Tào Tháo vừa qua đời, Tào Phi đã hạ bệ Hán Hiến đế,
lên làm hoàng đế. Lưu Bị, Tôn Quyền vô cùng phấn khởi: Đã có người dẫn đầu,
không làm cũng phí. Thế là họ đều là người làm theo, đường hoàng lên làm hoàng
đế. Kết quả, Tào Tháo không làm hoàng đế bị chửi là “gian” và không có ai chỉ
trích là “thoán” khi Lưu Bị, Tôn Quyền lên làm hoàng đế.
Thực tình thì Tào Tháo bị hố là ở chỗ này: Tào Tháo ở trong triều, Lưu Bị,
Tôn Quyền ở ngoài; Tào Tháo xưng đế trước, Lưu Bị, Tôn Quyền sau. Tào Tháo “ép
thiên tử để lệnh chư hầu”, lúc đó là hời, đến khi viết sử lại là điều phiền
phức: Bất luận thế nào, Tào Tháo cũng không thoát được tội danh “thoán Hán”,
không bỏ được cái mũ là “gian thần”, trở thành nhân vật mà mọi vương triều cần
phải đề phòng, bị coi là kẻ thù nguy hiểm nhất. Nghĩ xem, nếu bên cạnh có một
nhân vật kiểu Tào Tháo thì đố có hoàng đế nào ngủ được? Kết quả, thời bình phải
đề phòng Tào Tháo, thời loạn cũng phải đề phòng. Thời bình coi chừng Tào Tháo
âm mưu phản loạn, thời loạn đề phòng Tào Tháo nổi sóng nổi gió, không bao giờ
yên.
Hoàng đế phải đề phòng Tào Tháo, các quan cũng phải đề phòng Tào Tháo. Liệu
có ai muốn đội trên đầu một thượng cấp trực tiếp như Tào Tháo không? Tào Tháo
xem thường những ai thiếu bản lĩnh. Chấp pháp nghiêm minh, làm việc chăm chỉ,
nói năng thoải mái, hoàn toàn không theo cách thức nơi quan trường, khiến mọi
người khó chịu. Nhất là mấy điều của Tào Tháo, “có tài là dùng”, dùng người
không kể xuất thân, không nói tới học thức, không xét bối cảnh, chỉ cần công
việc có hiệu quả, không chuộng hình thức... Khiến cho số người theo chủ nghĩa
quan liêu, chỉ biết “nghe để theo”, hành lễ thêm nghĩa, ưa thói đùn đẩy dựa
dẫm, cảm thấy bị uy hiếp. Xưa nay, chủ nghĩa quan liêu luôn chung sống với chế
độ quan liêu. Và càng về cuối thời đại phong kiến thì chế độ quan liêu càng thành
thục, càng hoàn thiện, chủ nghĩa quan liêu cũng càng nghiêm trọng. Tào Tháo vừa
là kẻ thù của chủ nghĩa quan liêu, vừa là kẻ thù của bọn quan lại. Thời đại
cũng vậy, người làm việc luôn bị số quan viên không làm việc công kích. Tào
Tháo cũng không phải ngoại lệ.
Văn nhân và trăm họ cũng không thích Tào Tháo. Vì Tào Tháo đã giết không ít
văn nhân. Văn nhân thích những người cùng cảnh biết thương nhau, trăm họ càng
không để ý Tào Tháo có cống hiến gì cho lịch sử. Lục Cơ từng nói: “Họ Tào công
nhiều, tội lắm, khiến dân oán!”. Trong số ba lãnh tụ dựng nước thời Tam Quốc
Ngụy, Thục, Ngô, Tào Tháo có nhiều nợ máu nhất, số vụ giết người tàn nhẫn được
ghi chép lại cũng nhiều nhất. Nợ máu thì luôn phải trả. Không giết được Tào
Tháo thì chỉ trích công khai không được sao? Trong lúc lòng đầy bi thương phẫn
nộ, tránh sao khỏi quá lời hoặc miệt thị không đúng sự thực. Chưa hẳn Tào Tháo
đã giết cả nhà Lã Bá Sa, cũng chưa hẳn Tháo đã nói: “Thà ta phụ người, không để
người phụ ta”. Có điều, Tào Tháo đã từng vu khống người khác, nên lần này Tào
Tháo có oan cũng chẳng sao, chỉ là một nợ trả một nợ. Huống chi, đem những việc
đó lên đầu Tào Tháo, cũng “rất giống”. Thế là, hoàng đế, quan viên, văn nhân,
trăm họ gần như đồng thanh nói Tháo là “gian”, dù những nội dung cụ thể mà họ
chỉ ra là khác nhau.
Quan trọng hơn nữa là Tào Tháo đã đắc tội với nền văn hóa Trung Quốc. Hoặc
nói, đã đắc tội với hệ thống đánh giá về con người của nền văn hóa Trung Quốc.
Quan điểm của Tào Tháo: Điều quan trọng nhất ở một con người là có tài, có năng
lực, “bất nhân bất nghĩa” cũng chẳng sao. Quan niệm truyền thống của văn hóa
Trung Quốc là: Điều quan trọng nhất ở một con người là nhân nghĩa trung hiếu,
có tài hay không, có năng lực hay không, có thành tích hay không, không quan
trọng, thậm chí bình thường một chút càng tốt, dễ thực thà, trung hậu, đáng
tin. Vì vậy, người Trung Quốc theo truyền thống xã hội Trung Quốc, sẽ chọn Lưu
Bị không chọn Tào Tháo. Một người tài đức như Gia Cát Lượng lại càng được tôn
sùng hết sức, một người đã mấy lần phạm sai lầm về quân sự, chôn vùi cơ đồ Thục
Hán, nhưng lại hết mực trung thành như Quan Vũ, cũng được tôn sùng hết mức. Tô
Đông Pha đã nói câu công tâm, đúng đạo: Gia Cát Lượng “nói về việc quân không
bằng Tào Tháo, hiểu biết không rộng bằng Tào Tháo, tranh luận cũng không bằng
Tào Tháo, không có điều gì hơn Tào Tháo, ngoài trung tín ra”. Tức là nói, chỉ
cần một ít trung tín là có thể áp đảo những người tài năng vượt trội, công luận
cái thế.
Đây là bi kịch của Tào Tháo, của lịch sử, của thời đại và cũng là bi kịch
của nền văn hóa Trung Quốc. Vì thứ logic “chỉ cần người có đức, không cần người
tài nhưng vô đức” phát triển, sau này thành “thà tặng cho nước láng giềng,
không cho gia nô” của vương triều Đại Thanh”(1). Tạm dịch ra như sau: “Thà nhận
một bầy chó và dê, không nhận một chú hổ và báo”, nếu như chú hổ và báo đó từng
trộm lợn của nông trường.
(1) Hệ thống đánh giá chính xác là đức tài
gồm đủ. Và đức không là thái độ chính trị, tài cũng không phải là kiến thức
khoa học. Liên quan tới rất nhiều vấn đề, tạm thời không bàn tới. Hãy xem
chương “Ung chính” ở phần sau (Tác giả).
May sao Tào Tháo không hề để ý tới việc người khác tô vẽ mình ra sao, càng
không chú ý tới lời nói lung tung của người khác. Những việc định làm, Tào Tháo
đã làm xong, đã có thể mỉm cười nơi chín suối.
Nhưng theo tôi, Tào Tháo “chí ít cũng là anh hùng” (lời Lỗ Tấn). Hơn nữa,
còn là anh hùng vừa có phần đáng yêu vừa có phần gian trá.
Tào Tháo sinh năm 155, chết năm 200, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi. Sau khi
Tào Tháo mất được chín tháng, Hiến đế nhường ngôi cho Tào Phi, Đông Hán diệt
vong, một tháng sau, Tào Phi truy tôn Tào Tháo là thái tổ Vũ hoàng đế. Năm thứ
hai, Lưu Bị lên ngôi đế ở Thành Đô. Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương (nay
là thị trấn Ngạc Châu, Hồ Bắc). Đến đây, ba nước ở thế chân vạc được hình
thành, lịch sử Trung Quốc bước vào thời kỳ mới.
Trong đời Tào Tháo, điều đắc ý nhất về mặt chính trị là “ép thiên tử để
lệnh chư hầu”, điều thành công nhất về mặt quân sự là trận chiến Quan Độ, để
lại hậu quả nghiêm trọng nhất là do sơ suất để Lưu Bị thoát, trận chiến Xích
Bích là trận thất bại thê thảm nhất, tài lược là điều được khẳng định nhất,
nhân phẩm bị chỉ trích nhất, công, tội trong lịch sử của Tào Tháo là điều được
tranh luận nhiều nhất. Thành tựu văn học không phải tranh luận nhiều.
Thơ từ hậu thế ngâm vịnh nhắc đến Tào Tháo không nhiều Cổ đại nổi tiếng
nhất là thơ Đỗ Mục: “Cát vùi lưỡi kích còn trơ, giũa mài nhận dấu triều xưa rõ
ràng. Gió đông ví phụ Chu lang, một nền Đồng Tước khóa xuân hai kiều”(2). Đương đại nổi tiếng nhất là từ của Mao Trạch Đông: “Chuyện cũ ngàn năm
rồi, Ngụy Vũ vung roi. Về đông Kiệt Thạch vẫn còn bài. Hiu hắt gió thu nay lại
vậy, đã đổi thay đời”(3).
(2)
Tương Như dịch (ND).
(3) Phan Văn Các dịch (ND).