Luận Anh Hùng - Phần I - Chương 04 - phần 2
Hạng Vũ không biết người và cũng không hiểu mình. Không biết đâu là sở trường, đâu là sở đoản của mình, đương nhiên cũng không bao giờ nhận sai. Tận lúc binh bại ở Cai Hạ, tự sát ở Ô Giang, vẫn còn nói trời muốn diệt ta, ta chẳng sai lầm gì, đúng là “chết cũng không nhận sai”. Lưu Bang thì khác, Lưu Bang cũng phạm sai lầm, sai lầm trong phán đoán, sai lầm trong chiến lược, nhưng Lưu Bang dám nhận sai, dám thay đổi. Năm 200 TCN, Lưu Bang đã phán đoán sai về hình thế và tình hình quân địch (kế dụ binh Hung Nô), không nghe lời khuyên gay gắt của Lâu Kính, tự mình dẫn quân vào trận địa mai phục của quân địch, kết quả bị quân Hung Nô vây khốn ở Bạch Đăng (một thành nhỏ gần Bình Thành, Bình Thành là thị trấn Đại Đồng, Sơn Tây ngày nay. Chiến dịch này được gọi là “vây ở Bạch Đăng” hoặc “vây ở Bình Thành”), may sao dùng mật kế của Trần Bình thoát khỏi nguy hiểm. Lưu Bang đưa quân về Quảng Vũ (thị trấn Dương Minh Bảo, phía tây nam huyện Đại, tỉnh Sơn Tây ngày nay), đến chỗ Lâu Kính, Lưu Bang đã cởi giáp, bái lạy Lâu Kính, thừa nhận sai lầm, ban cho Lâu Kính hai ngàn hộ, thăng quan Nội hầu.
Điều đó không có ở Hạng Vũ.
Xem ra, Lưu Bang đúng là anh hùng. Lưu Bang nhận sai, đó là biểu hiện tố chất anh hùng trong Lưu Bang. Trong lịch sử Trung Quốc, không có mấy vị đế vương, trưởng quan hoặc thủ lĩnh làm được điều đó. Chỉ cần làm được việc gì đó, họ liền cảm thấy tốt đẹp, rồi tự cho mình là “thiên tài”, “toàn tài”, hiểu hết, biết hết, cao kiến về mọi mặt, ra nhiều chỉ thị, câu nào cũng là chân lý, việc nào cũng chính xác; nếu có những ý kiến ngu xuẩn, thuộc hạ phê phán thì nổi giận đùng đùng hoặc ôm hận trong lòng. Nếu có ai phê phán quyết sách sai lầm, được thực tiễn chứng minh thì người đó sẽ càng đen đủi. Năm 200 SCN có chiến dịch Quan Độ, Viên Thiệu không nghe lời khuyên của Điền Phong, nên mới bại trận ở miền bắc. Để cứu vãn sĩ diện của mình, Viên Thiệu cho giết Điền Phong (chương sau sẽ nói rõ). Tóm lại, họ chỉ biết lấy những sai lầm mới để che giấu những sai lầm cũ, quyết không nhận sai cũng không công khai nhận sai lầm. Lưu Bang bị vây ở Bạch Đăng vào năm 200 TCN, Viên Thiện bại trận ở Quan Độ năm 200 SCN, hai sự kiện cách nhau tròn bốn trăm năm, kết cục hoàn toàn khác nhau, cũng không thể nói là do tinh thần cao hay thấp. Viên Thiệu là hào tộc, tư thế tam công, quý hết chỗ nói. Lưu Bang là lưu manh, không một xu dính túi, hèn hết chỗ nói, nhưng khí thế của Lưu Bang thì loại như Viên Thiệu không bao giờ sánh kịp.
Lưu Bang không chỉ rộng lượng mà còn tỉ mỉ.
Nhìn bề ngoài, Lưu Bang có phần đại khái, qua loa, kỳ thực lại tỉ mỉ, chi li. Buổi tối hôm trước Hồng Môn yến, Lưu Bang nghe nói, ngày hôm sau Hạng Vũ sẽ hội quân dưới thành, lại nghe nói Hạng Bá có thể đứng giữa hòa giải, lập tức quyết định quan hệ với Hạng Bá cho thêm gần gũi. Nhưng Lưu Bang không vội vàng đi gặp Hạng Bá ngay. Trước hết đi hỏi Trương Lương xem Trương Lương và Hạng Bá ai nhiều tuổi hơn. Nghe Trương Lương nói Hạng Bá nhiều tuổi hơn, lập tức Lưu Bang thay đổi cách xưng hô “em được anh tới thăm”. Như vậy, coi như đã nói mình là “anh em” với Trương Lương. Ngài là anh của Trương Lương, cũng tức là anh của Lưu Bang. Bình đẳng với Trương Lương, Trương Lương đẹp mặt, Hạng Bá càng đẹp mặt hơn. Hai bên đều vui vẻ, Lưu Bang thực thông minh.
Ngược lại, Hạng Vũ rất hồ đồ. Hạng Vũ chẳng khác gì người mẹ chồng, lúc đưa cơm lúc đưa thuốc, kì thực là thô kệch, là thằng ngốc, cẩu thả, hoặc nói như người Vũ Hán, “sĩ diện hão” (người thì đẹp đẽ, nhưng không có đầu óc). Lưu Bang đến quân doanh tạ tội với Hạng Vũ, nói thần và tướng quân đồng tâm hiệp lực, trừ diệt bạo tàn. Tướng quân đánh Hà Bắc, thần đánh Hà Nam, thần không ngờ mình lại vào Quan Trung sớm (thực ra đã có mưu đồ từ lâu, có giao dịch với Triệu Cao), nay mới được gặp lại tướng quân (khẩu khí của bè bạn thân mật). Thực bất hạnh đã có lời của kẻ tiểu nhân, đến đoạn tướng quân đã hiểu sai về thần (không hề hiểu sai). Nghe xong, Hạng Vũ nói luôn, chẳng phải người anh em thân thiết, bộ hạ của ngươi - Tào Vô Thương nói sao? Nếu không Hạng Tịch ta đâu có thế? Kết quả, trong lúc mụ mẫm Hạng Vũ đã bán đứng kẻ đưa tin đó.
Đúng là Hạng Vũ và Lưu Bang có nhiều điểm không giống nhau. Hạng Vũ bề ngoài tàn nhẫn, kì thực là mềm yếu, bề ngoài dũng mãnh, kì thực là yếu đuối. Lưu Bang bề ngoài ôn hoà, kì thực là ác độc, bề ngoài dễ dãi, kì thực là kiên cường. Hạng Vũ dễ bực dễ giận, hơi không vừa ý đã ầm lên như sấm dậy, lửa giận bốc lên hàng ba trượng, nhưng khi húp xong một vài bát canh, lại như người không có chuyện gì. Còn Lưu Bang, những ấm ức nhất thời có thể nhẫn nhịn, không xin lỗi, rồi đây sẽ tính sổ. Hãy xem Lưu Bang chỉnh trị Hàn Tín khác gì mèo vờn chuột.
Hiển nhiên, Hạng Vũ tính tình bình thường còn Lưu Bang là người theo chủ nghĩa thực dụng. Vì thực dụng, Lưu Bang không ngại dùng cả tiểu nhân, không ngại cho giết công thần. Vì thực dụng nên cũng chẳng sợ công khai nhận sai. Chỉ cần đạt được mục đích, Lưu Bang không bận tâm về hình tượng của mình. Không giống như Hạng Vũ, việc gì cũng quan trọng hóa, dù chết cũng giữ sĩ diện, dù chết cũng không nhận sai.
Có điều, người thực dụng như Lưu Bang cũng có chỗ giống Hạng Vũ, cả hai đều quý trọng anh hùng, tán thưởng người cao quý. Lưu Bang không coi ta và địch là chính nghĩa hay phi nghĩa một cách ngu xuẩn, nói phía địch đều là người xấu, bên ta đều là quân tử. Nếu nhìn thấy anh hùng, hảo hán chân chính, Lưu Bang luôn kính phục chân thành và tán thưởng, dù đối phương là địch hay là ta, là người tán thành hay phản đối mình. Sau khi giết Hàn Tín, Lưu Bang còn giết Bành Việt, tru di ba họ, tất cả bị hành quyết ở chợ ngoài thành Lạc Dương và bố cáo kẻ nào bạo gan đến lấy thi thể, đều giết không tha. Đúng lúc đó có đại phu Loan Bố người nước Lương đi sứ nước Tề về đến Lạc Dương, Loan Bố quỳ trước thi thể Bành Việt, báo cáo về quá trình đi sứ, còn phủ phục xuống đất, tế khóc Bành Việt. Lưu Bang thấy Loan Bố không coi cấm lệnh của mình ra gì, liền nổi giận hạ lệnh ném Loan Bố vào vạc dầu. Loan Bố thản nhiên bước tới chỗ đó, và quay đầu lại nói: “Xin nói một câu rồi sẽ chết”. Lưu Bang nói: “Cho phép nói!”. Loan Bố nói: “Năm đó, hoàng thượng bị vây ở Bành Thành, bại ở Huỳnh Dương, nguy ở Thành Cao, sở dĩ Hạng Vũ không thể tây tiến truy xét, vì Bành Việt đại vương đang trấn thủ Đại Lương, liên minh với Hán. Lúc đó chỉ cần Bành vương khẽ gật đầu, đã chẳng có ngày nay. Ngay như trận chiến Cai Hạ, nếu không có Bành vương, chắc Hạng vương cũng không thua. Nay thiên hạ đã định, lẽ nào Bành vương lại không được phong tước, an hưởng thái bình? Thực không ngờ, chỉ vì lâm bệnh phải nằm, một lần trưng binh không tới, hoàng thượng đã nghi ngờ Bành vương mưu phản. Chứng cứ mưu phản không có, hoàng thượng cho tìm mấy việc vụn vặt để xử Bành vương tội chết, còn giết cả ba họ, thần e công thần trong thiên hạ sẽ hết sức sợ hãi. Lúc này, Bành vương đã bị giết, thần sống phỏng có ích gì? Hãy để thần được nhảy vào vạc dầu!” Lưu Bang nghe xong, lấy làm kính nể, lập tức hạ lệnh phóng thích Loan Bố, còn phong làm đô úy.
Lưu Bang phóng thích Loan Bố vì tự thấy hổ thẹn (đúng là Bành Việt vô tội), cũng vì kính trọng nhân cách và nhân phẩm của Loan Bố. Những việc tương tự khá nhiều, ví như phóng thích Khoái Thông, xá miễn Quán Cao. Quán Cao là tể tướng nước Triệu, vì lập mưu ám sát Lưu Bang nên bị bắt. Ở trong ngục, tuy bị tra tấn khốc liệt, nhưng Quán Cao vẫn không chịu bán đứng Triệu vương Trương Ngao. Lưu Bang kính trọng hảo hán Quán Cao, sau khi xét rõ chân tướng, không chỉ phóng thích Trương Ngao còn xá miễn cho Quán Cao. Khoái Thông phản lại Hàn Tín, Quán Cao ám sát Lưu Bang, sự việc đã rõ, bản thân họ cũng đã thừa nhận, nhưng Lưu Bang không giết họ, Lưu Bang không phải là kẻ giết người điên cuồng. Lưu Bang giết công thần, hoàn toàn vì nhu cầu chính trị hoặc vì nhu cầu của nền chính trị chuyên chế. Vì vậy nói, chủ nghĩa chuyên chế đã giết Hàn Tín, Bành Việt, Tang Trà, Trần Hy, Lư Quản, Kình Bố và cũng suýt nữa đã giết Phàn Khoái. Lưu Bang đã giết hàng loạt, bởi “nền chính trị chuyên chế luôn đòi hỏi như vậy”. Tuy là vậy, nhưng đối với những người không quân không quyền, bản thân trơ trọi thì Lưu Bang không giết. Bởi vì giết họ là vô nghĩa, không giết là thể hiện sự khoan dung, cải thiện được hình tượng, có lợi về mặt chính trị. Hơn nữa, Lưu Bang đã có lòng kính trọng những trượng phu ngang bướng này!
Điều này có phần khác với Hạng Vũ.
Hạng Vũ cung kính những trượng phu ngang bướng. Ở Hồng Môn yến, dù Phạm Tăng đã mấy lần ra hiệu, Hạng Vũ vẫn yên lặng, nhưng khi “Hạng Trang múa kiếm, nhằm vào Bái công”, Hạng Vũ cũng không ngăn. Rõ ràng lúc đó vẫn còn hai khả năng giết hay không giết Lưu Bang, giống như để theo mệnh trời. Nhưng sau khi Phàn Khoái bước vào, tình hình liền thay đổi. Phàn Khoái xông qua cửa, bước thẳng vào trướng, hai mắt giận dữ nhìn thẳng vào Hạng Vũ. Phàn Khoái tóc dựng ngược, mắt hằn học, Hạng Vũ thất kinh trước hình tượng đó. Nghe Trương Lương nói, đó là tham thừa của Bái công (gần như thị vệ) liền tán thưởng là “tráng sĩ”, khi Phàn Khoái uống hết đấu rượu, ăn sống chân sau của lợn, Hạng Vũ liền thấy thích thú, quý mến Phàn Khoái. Vì vậy khi Phàn Khoái trả lời Hạng Vũ “thần chết còn chẳng trách, sao có thể từ chối một nậm rượu”, còn dõng dạc chỉ trích Hạng Vũ “muốn giết người có công”, rõ ràng là “kế thừa Tần đã mất”, Hạng Vũ không chỉ nổi nóng, còn ra quyết định không giết Lưu Bang. Rõ ràng lúc này Hạng Vũ đã quên việc tranh giành thiên hạ, quên sĩ diện, lúc này trong lòng chỉ còn lại sự sùng kính và tán thưởng khí tiết người anh hùng, hảo hán bướng bỉnh đó.
Đó chính là thái độ thẩm mỹ. Và đó cũng là phong thái thời đại của người anh hùng. Tôi cho rằng, trước Tần đến đầu Hán là thời đại vẻ vang nhất của dân tộc Trung Hoa, là thời đại anh hùng không thể quên trong lịch sử cổ đại dân tộc Trung Hoa, giống như Marx từng nói, cổ đại Hy Lạp là giai đoạn lịch sử đỉnh cao, không bao giờ lặp lại. Tán thưởng khí chất, khí khái người anh hùng cũng là một loại tinh thần của thời đại. Lúc Hàn Tín đến doanh trại Hán, mới chỉ là tên gác cửa hèn mọn. Vì xúc phạm quân pháp, theo luật là phải chém. Cùng phạm án có mười ba người nữa, họ đều đã bị giết. Đến lượt Hàn Tín thì vừa thấy thân tín của Lưu Bang là Đằng công Hạ Hầu Anh ngang qua, liền lớn tiếng gọi to: Chẳng phải Hán vương muốn thành thiên hạ đại nghiệp ư? Vì sao lại giết tráng sĩ? Kết quả “Đằng công nghe xong, nghiêm mặt, tha không giết, trò chuyện, thật thú vị”. “Nghiêm mặt” ở đây không phải là nghiêm mặt dọa người. Đó là trực giác thẩm mỹ đặc biệt của người anh hùng trong thời đại này, là vừa nhìn đã nhận ra những cái đáng quý. Nếu không thế thì sao lại có nhiều người giỏi chỉ qua một đêm, đã từ áo vải trở thành khanh tướng, được đề bạt đặc biệt và đề bạt chính xác đến như vậy?
Hạng Vũ, Lưu Bang đương nhiên đều là anh hùng. Khác nhau là, Lưu Bang là anh hùng lưu manh, Hạng Vũ là anh hùng bản sắc. Đúng như lời Tiễn Bá Tán bàn về Hạng Vũ “Hạng Vũ anh dũng, kiên cường, khẳng khái, thẳng thắn và giàu tình cảm, đó là anh hùng bản sắc(2). Đáng tiếc là, dũng tướng nhưng vô mưu, kiên cường mà thiếu nhẫn, khẳng khái nhưng không hào phóng, thẳng thắn lại có chút hẹp hòi. Giàu tình cảm nhưng làm việc theo cảm tính, nhìn không xa, nên mới thất bại bởi Lưu Bang - người thích dùng mưu trí, kiên mà nhẫn không thay đổi, hào phóng rộng rãi, bụng dạ sâu xa, lý trí thực dụng, mưu sâu kế hiểm, còn biết nhẫn nhịn kìm nén. Có thể nói, sự thành bại công tội của Hạng Vũ đều vì Hạng Vũ là anh hùng bản sắc. Là anh hùng có khí chất nên có giá trị thẩm mỹ, vì có bản sắc, nên không có khả năng thành công. Hạng Vũ đáng yêu và cũng đáng buồn.
(2) Tiễn Bá Tán, “Tần Hán thư”, trang 115, NXB Đại học Bắc Kinh, năm 1983, tái bản lần thứ hai (Tác giả).
Hàn Tín thì vừa đáng kính vừa đáng thương. Hàn Tín đáng kính ở chỗ, tuy xuất thân bần hàn, nhưng tâm hồn lại cao quý, thân nơi hạ tiện chí ở thượng lưu, đây là điểm không giống với Lưu Bang. Tuy Lưu Bang có nói câu: “Đại trượng phu phải được như vậy” lúc nhìn thấy Tần Thủy Hoàng, nhưng nói chỉ để mà nói, không hề có động tĩnh gì, cũng không hề có chuẩn bị gì. Sở trường của Lưu Bang là biết học hỏi, vì vậy mới có thể trưởng thành trong chiến đấu, nhờ vào thiên phận cao xa và khả năng tùy cơ ứng biến của mình, cuối cùng mới thành nghiệp đế. Ngược lại, Hàn Tín đã có chuẩn bị, lúc ăn đậu ở nhờ người khác, lúc đói bụng ở bên sông, lúc là lang trung cầm kích đứng gác dưới quyền Hạng Vũ hoặc lúc là liên ngao lo việc tiếp khách ở chỗ Lưu Bang, lúc nào Hàn Tín cũng có chuẩn bị. Hàn Tín luôn tin tưởng “Trời sinh ta tất có chỗ dùng”, không tin rằng suốt đời lại không có một ngày được mở mày mở mặt, chính nhờ vào lòng tin đó, Hàn Tín nhẫn nhục chịu đựng, chính nhờ vào sự phấn đấu, Hàn Tín đã thoát ra được.
Hàn Tín đáng buồn ở chỗ không triệt để. Bên trong tính cách của Hàn Tín có mâu thuẫn nên mới như vậy. Một kẻ ti tiện nếu có mưu đồ lớn (Lưu Bang lòng dạ không như vậy, chỉ biết theo thời thuận thế) sẽ không tránh khỏi ý muốn đầu cơ. Hàn Tín bị hớ, bị hớ vì tâm trí đầu cơ đó. Lúc có thể phản Hán, Hàn Tín cảm thấy không phản thì lờ lãi sẽ càng lớn; lúc không thể phản Hán, Hàn Tín lại có cảm giác không phản sẽ thiệt to. Hàn Tín dâng thủ cấp Chung Ly Muội, là muốn mua cổ phần chính trị, lại bị một người giỏi nắm bắt thời cơ như Lưu Bang xem thường. Bá Dương nói: “Bi kịch phát sinh ngay lúc Hàn Tín không hề muốn phản, nếu có, chắc sẽ hay hơn(3)”. Nói như vậy chưa đúng lắm. Bá Dương nói, nhà Hán chưa nắm được bất cứ một chứng cớ làm phản nào của Hàn Tín, chỉ bằng vào lời người đến báo mà định tội, đúng là “vu cho mưu phản”. Nhưng theo tôi, việc mưu phản của Hàn Tín và Trần Hy chắc không phải là bịa đặt. Lời Hàn Tín nói trước khi chết rằng hối hận vì đã không nghe lời Khoái Thông, chắc cũng không phải là bịa đặt. Đương nhiên lời nói đó có thể giải thích Hàn Tín đã để mất thời cơ, cũng có thể giải thích Hàn Tín nếu có bụng làm phản thì chắc mọi chuyện đã xong. Nhưng bất kể là nói thế nào, Hàn Tín ít nhiều cũng có ý mưu phản. Sự việc xấu đi vì ở Hàn Tín có cả lòng trung lẫn ý gian, và cả hai đều không triệt để, không hết lòng trung và cũng không dám phản thật. Nếu như trung đến cùng, thì dù Lưu Bang, Lã hậu vu cáo hãm hại, chắc sẽ có những người chính phái như Loan Bố đứng ra kêu oan, can thiệp vào chuyện bất bình, hoặc về sau sẽ bình phản xóa tội. Nhưng tiếc là đều không có. Nếu như phản đến cùng, đương nhiên là rất tốt. Thành công thì khỏi phải nói, còn thất bại, thì cũng còn gì để phải hối hận. Khi đó, Hàn Tín sẽ có thể đường đường chính chính nói với Lưu Bang: Ta đây muốn giết ngươi, đồ mặt người dạ thú! Chẳng phải tốt hơn sao? Chưa hẳn Lưu Bang theo lệ của Quán Cao, không giết Hàn Tín. Quán Cao tội nặng, giết vua là phải lăng trì xử giảo nhưng Quán Cao trong ngoài như một, trước sau như một, một đời khẳng định Triệu vương không mưu mô, một lời khẳng định mình là muốn phản. Kết quả, trong con mắt mọi người Quán Cao luôn là anh hùng. Đâu có như Hàn Tín phải nuối tiếc: Nói là oan, nhưng cũng không thật oan; nói không oan, cũng chưa hẳn. Đã không là trung thần cũng không là phản tặc, vừa không thể lấy lòng, vừa không được đồng tình, nói xem, oan hay không?
(3) Bá Dương, “Bá Dương viết”, trang 122 (Tác giả).
Tóm lại, Hạng Vũ là anh hùng bản sắc, cũng là anh hùng triệt để, Hàn Tín khó khăn lắm mới được là anh hùng, là anh hùng không triệt để. Vì vậy, Hạng Vũ chết oanh liệt, Hàn Tín ấm ức mà chết.