Cùng con trưởng thành - Chương 04 - Phần 2

Tôi muốn con chịu
tổn thương ít nhất

Không có ai muốn kết hôn rồi lại ly hôn, đặc biệt
là những gia đình đã có con cái nhưng vì theo đuổi hạnh phúc của cá
nhân, một số người vẫn chọn cách bẻ gẫy gông xiềng hôn nhân. Nhiều
người muốn ly hôn không có nghĩa là họ không yêu con cái, mà vì họ
không hiểu được hết việc ly hôn ảnh hưởng thế nào đến con cái. Chẳng
hạn có những cặp vợ chồng thường xuyên cãi vã hoặc một bên có
những cử chỉ không đúng mực, để cho con có một gia đình tốt đẹp hơn,
người ta chọn phương án ly hôn để tìm một người thích hợp hơn, họ cho
rằng như thế họ sẽ vui vẻ và con cái cũng vì thế mà sẽ vui trở
lại.

Nhưng
thực tế không phải như vậy, đó chỉ là những gì mà chúng ta mong
muốn nhưng cha dượng hay mẹ kế thì không thể thay thế vị trí của cha
mẹ đẻ trong lòng con cái. Nếu cha dượng mẹ kế quan tâm chăm sóc chúng
hơn cả cha mẹ đẻ thì có thể trẻ cũng sẽ cảm kích hoặc yêu cha dượng
mẹ kế, nhưng những tình cảm đó mãi mãi không thể giống như tình cảm
dành cho cha mẹ đẻ. Vì thế cha mẹ ly dị ảnh hưởng tới tâm lý của
con cái nghiêm trọng hơn chúng ta tưởng tượng nhiều, hơn thế nữa sự
ảnh hưởng này không chỉ ở một thời điểm mà nó tích lũy dần theo
quá trình trưởng thành của con cái, thậm chí ảnh hưởng đến cả cuộc
đời của con.

Đối
với những người trong thời đại mới thì ly hôn không phải là việc gì
xa lạ, mới mẻ, những người ly hôn xung quanh chúng ta rất nhiều, đặc
biệt là những năm gần đây tỷ lệ ly hôn tăng theo cấp số nhân. Nhưng ly
hôn không phải là chuyện riêng của hai người, đối với nhiều gia đình,
trong chuyện ly hôn còn có một đương sự vô cùng quan trọng, đó là con
cái.

Ngày
nay những đứa trẻ sống trong gia đình đơn thân ngày một nhiều, đó là vì
tỷ lệ ly hôn ngày một cao. Hôn nhân đổ vỡ, người bị tổn thương nhiều
nhất không phải là “người vợ” hay “người chồng” mà lại chính là
những đứa trẻ vị thành niên. Theo kinh nghiệm tư vấn hôn nhân gia đình
của Đông Tử nhiều năm nay, khi cha mẹ ly hôn thì những đứa trẻ dưới ba
tuổi hoặc là những trẻ trên mười lăm tuổi chịu ảnh hưởng tương đối
ít, bị ảnh hưởng lớn nhất là những đứa trẻ chín tuổi, mức độ ảnh
hưởng lần lượt là trẻ ở các độ tuổi: tám và mười tuổi, bảy và mười một
tuổi, sáu và mười hai tuổi, năm và mười ba tuổi, bốn và mười bốn tuổi,
ba và mười lăm tuổi… Những ảnh hưởng nói trên tất nhiên là những ảnh
hưởng không tốt, hay như chúng ta thường nói là “tổn thương”.

Những người hiểu về tâm lý trẻ em đều biết,
trước ba tuổi trẻ chưa ghi nhớ được sự việc, nếu là trẻ sơ sinh, thì
chỉ cần một, hai ngày là trẻ có thể thích nghi với cha mẹ mới, trẻ từ hai
đến ba tuổi mất vài ngày hoặc chỉ mất mười mấy ngày là có thể
thích nghi, lớn lên rồi trẻ cũng sẽ không biết về những thay đổi
này, nếu như không kiểm tra ADN, chúng sẽ luôn tin rằng cha mẹ nuôi
chính là cha mẹ đẻ của chúng, vì thế những người nhận con nuôi
thường muốn tìm những trẻ nhỏ; sau mười lăm tuổi thì ý thức và quan
niệm cơ bản đã được hình thành, trẻ không còn chịu tác động quá lớn
từ những ảnh hưởng bên ngoài, mặc dù chúng không muốn thấy cha mẹ ly
hôn nhưng chúng có thể hiểu cho cha mẹ, thậm chí có những đứa trẻ khi
thấy cha mẹ bất hòa, còn chủ động khuyên cha mẹ ly hôn.

Nhưng
những đứa trẻ ngoài độ tuổi như hai trường hợp trên lại khác, chúng
đã ghi nhớ sự việc nhưng lại không có đủ năng lực để hiểu sự việc,
và ở độ tuổi này đúng là giai đoạn chúng cần sự yêu thương và chăm
sóc từ cha mẹ nhất, lúc này cha mẹ ly hôn, tất nhiên chúng sẽ bị tổn
thương rất lớn, chúng sẽ sợ hãi, thiếu cảm giác an toàn cần thiết,
sẽ căm phẫn khi mất đi tình thương yêu của cha hoặc của mẹ, đặc biệt
là những đứa trẻ khoảng chín tuổi.

Khi hôn
nhân đổ vỡ, con gái tôi vừa tròn chín tuổi rưỡi!

Đối
với người đàn ông đã ở độ tuổi bốn mươi, trải qua bao dâu bể như tôi,
hôn nhân đổ vỡ tất nhiên cũng rất đau khổ nhưng cũng không là gì cả,
chỉ cần sốc lại tinh thần, điều chỉnh kế hoạch tương lai, tiếp tục
sống mà thôi. Nhưng đối với một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, điều đó
giống như một tai họa chết người, mặc dù tôi là một chuyên gia tâm
lý, có thể giúp con điều chỉnh tâm lý, nhưng việc con bị tổn thương là
không thể tránh khỏi, điều tôi cần làm không phải là tránh cho con không
bị tổn thương mà là làm thế nào để con bị tổn thương ít nhất, để
con bé vừa “chơi qua tiểu học” vẫn rạng rỡ như ngày nào.

Ngoài
việc tạo cho con một không khí gia đình ấm cúng hòa thuận, tôi chú
trọng giúp con điều chỉnh tâm lý. Sau khi đón con về ở cùng, tôi âm
thầm làm công tác tư tưởng cho con, tôi trò chuyện cùng con, cùng con
chơi trò chơi, để con thực sự cảm nhận được niềm vui, tôi không ngừng
kể cho con nghe những câu chuyện về cuộc sống hạnh phúc của những
đứa trẻ sống trong gia đình đơn thân.

Bất
luận tôi có cố gắng đến như thế nào thì vẫn có những di chứng về
sau, trước tiên là vấn đề sức khỏe. Từ khi đón con đến Đại Liên ở,
con ăn uống không được tốt cho lắm, tôi cố gắng thay đổi món ăn nhưng
con không muốn ăn. Không bị cảm cúm thì lại đau dạ dày, không ngày
nào là con không ốm.

Hai
giờ sáng ngày 26 tháng 8, con thấy bụng rất khó chịu, tôi vội cõng
con xuống lầu, đợi mãi mà không thấy xe taxi, không còn cách nào khác
tôi vừa cõng con đi vừa tìm xe, vất vả đi được mấy trăm mét thì thấy
một chiếc xe đỗ bên đường, xe đưa chúng tôi đến Phòng khám Bắc, Bệnh
viện số 2 thuộc Đại học Đại Liên để
khám, sau khi chụp chiếu xong kết luận ban đầu là có thể bị
viêm ruột thừa, bác sĩ kiến nghị đưa con đến Bệnh viện Nhi đồng
thành phố Đại Liên để chẩn đoán cho chính xác.

Vất
vả lắm chúng tôi mới đến được Bệnh viện Nhi đồng, khi đến nơi thì
trời đã sáng, sau khi kiểm tra, bác sĩ cho biết con gái bị nóng
trong, tiêu hóa không tốt dẫn đến bị táo bón, đại tiện khó, nếu
không kịp thời chữa trị sẽ kéo theo những bệnh khác, sau hai lần thông
ruột, vấn đề đã được giải quyết. Vài ngày sau đó, cơ thể của con
rất yếu.

Sức
khỏe dần dần hồi phục nhưng vấn đề tâm lý lại là một bài toán
khó.

Một
tháng sau đó, một hôm khi tan học về, con đưa cho tôi một tờ giấy, lúc
đưa cho tôi, con òa khóc, khóc nức nở rất đáng thương, tôi hỏi con tại
sao khóc, con trả lời: “Con không muốn làm đứa trẻ của gia đình đơn
thân…”. Tôi an ủi con, con dần dần bình tĩnh lại và kể cho tôi đầu
đuôi của sự việc.

Nhà
trường vì muốn chăm sóc những học sinh có hoàn cảnh khó khăn và
những học sinh là con trong gia đình đơn thân, cô giáo phát cho mỗi học
sinh một tờ giấy, nếu là con gia đình đơn thân thì phải ghi rõ ràng,
nhà trường sẽ quan tâm chăm sóc hơn tới những đối tượng này, hơn nữa
cũng sẽ quan tâm tới phụ huynh, ví dụ có thể giảm bớt những khoản
đóng góp liên quan. Xuất phát điểm của nhà trường là hoàn toàn tốt,
nhưng Y Y không muốn để mọi người biết cha mẹ đã ly hôn, cũng không
muốn nhận được sự chăm sóc đặc biệt nào cả, nhưng con cảm thấy tôi
rất vất vả, muốn tôi nhận được sự giúp đỡ, giảm gánh nặng cho tôi.

Ngày
hôm đó, Y Y khóc rất thương tâm, sau
khi tôi khuyên nhủ con, hai cha con ôm nhau khóc, tôi khóc vì thấy con đau
buồn, cũng vì thấy con rất hiểu chuyện, biết thương cha.

Vì cảm
thấy có lỗi với con khi ly hôn, nên phụ huynh của gia đình đơn thân
thường có tâm lý đền bù cho con cái ở những mức độ không giống nhau.
Tôi cũng vậy, tôi luôn nghĩ mình đã không cho con một gia đình hoàn
chỉnh, đặc biệt là con gái là do tôi kiên trì giữ lại, vì thế mà
tôi đã từng rất đau khổ, dằn vặt vì có lỗi với con gái, với tâm lý
như vậy, suy nghĩ đền bù là biện pháp duy nhất để giảm bớt sự hổ
thẹn áy náy trong lòng. Nhưng lý tính một chút tôi lại cảm thấy nếu
như bù đắp thì sẽ không có lợi cho sự trưởng thành của con, hơn thế
nữa từ nhỏ Y Y đã chịu sự ảnh hưởng từ phương pháp giáo dục của
tôi, nhiều lúc con sẽ không chấp nhận “bù đắp” như vậy mà ngược lại
con rất hiểu chuyện, còn quay sang an ủi tôi.

Dưới
sự nỗ lực của cả hai cha con, Phạm Khương Quốc Nhất của ngày hôm nay
vẫn là một cô bé rạng rỡ, vui vẻ.

Dù con
gái lúc nào cũng vui vẻ, vẫn rạng rỡ vui tươi, nhưng tôi biết rất
rõ, hôn nhân của cha mẹ đổ vỡ đã làm con chịu tổn thương nhất định,
nhưng con đã biết chịu đựng tổn thương, học cách kiên cường, tự tin
và trưởng thành…

Hàng xóm tốt
của tôi và con gái

Cùng
với sự phát triển của xã hội, truyền thống tốt đẹp “bán anh em xa mua láng giềng gần” ngày
càng bị mai một, đặc biệt là hai mươi năm trở lại đây, mọi người
ngày một thờ ơ với quan hệ hàng xóm láng giềng, vì thế tôi đã từng
viết một bài báo có nhan đề “Thành phố thờ ơ, con người thờ ơ” để
thức tỉnh tâm lý của mọi người.

Theo
điều tra, khoảng 25% dân số ở các đô thị hiện đại cơ bản không biết
hàng xóm của mình là ai; 45% thỉnh thoảng gặp hàng xóm chào hỏi;
75% không nắm rõ tình hình các thành viên trong gia đình của hàng
xóm; 65% người được hỏi cho biết họ sẽ không nhờ đến sự giúp đỡ
của hàng xóm và 70% số người được hỏi cho biết họ chưa từng giúp
đỡ hàng xóm.

Có
thể là do tính nết và cách cư xử, mấy năm nay, bất luận tôi sống ở
đâu, bất luận là nhà mua hay nhà đi thuê, tôi vô cùng coi trọng quan hệ
hàng xóm láng giềng. Tôi cho rằng quan hệ hàng xóm láng giềng thân
thiết cũng là một nhân tố cấu thành một cuộc sống hạnh phúc, nên
tôi coi những hộ đối diện hay những người hàng xóm ở tầng trên, tầng
dưới như người thân của mình vậy, họ có chuyện gì tôi sẽ nhiệt tình
giúp đỡ và ngược lại tôi có chuyện gì mọi người sẽ giúp đỡ tôi.

Khi tôi
đến Đại Liên, dù có ý định định cư tại đây, nhưng thứ nhất là không
có tiền mua nhà, thứ hai là công tác tư tưởng với mẹ của con gái chưa
thông, vì thế đến đây chúng tôi chỉ thuê nhà thôi. Tôi thuê một căn
phòng ở khu dành cho người thân của cán bộ công nhân viên công ty Công
nghiệp hóa chất Đại Liên, người chủ nhà họ Tân, vợ anh họ Thiệu,
lớn hơn tôi khoảng sáu hay bảy tuổi, anh Tân làm lái xe ở đơn vị, còn
chị Thiệu sau khi nghỉ hưu về làm chủ nhiệm văn phòng của một xí
nghiệp tư nhân, họ có một con trai hai mươi hai tuổi đã đi làm.

Căn
phòng tôi thuê nằm ở lầu hai phía tây, một tầng chỉ có hai hộ ở,
đối diện với nhà tôi là nhà của vợ chồng anh chị chủ nhà, theo lời
chị chủ nhà, căn phòng tôi ở bây giờ vốn là nhà của đồng nghiệp
của chị, đồng nghiệp của chị mua nhà mới nên chuyển nhà, chị liền
mua lại, chuẩn bị nhà cho con trai sau này lấy vợ. Con anh chị vẫn
chưa có ý định lập gia đình trong vòng hai đến ba năm tới, vì thế anh
chị cho thuê nhà.

Lúc
đầu khi biết chủ nhà ở ngay đối diện, tôi có hơi ái ngại, lo lắng,
sau đó khi tiếp xúc thấy anh chị chủ nhà là người tốt, anh chủ nhà
rất thật thà, chị chủ nhà thì thẳng thắn. Khi mới bắt đầu ở, tôi
chỉ có một mình, hai anh chị có gì ngon đều gọi tôi sang ăn cùng.

Sau đó
khi anh chị biết tôi ly hôn, ngoài việc an ủi tôi anh chị luôn nói: “Đông
Tử, nếu cuộc sống có khó khăn gì cứ nói với chúng tôi”. Khi xe chở
đồ đạc chuyển nhà cùng với con gái từ Yên Đài đến, hai anh chị và
đồng nghiệp của họ đã đứng sẵn ở đó từ bao giờ, lập tức giúp đỡ
tôi chuyển đồ lên trên phòng, để tỏ lòng cảm kích, tôi định mời mọi
người một bữa ở nhà hàng, nhưng gia đình anh chị đã sớm chuẩn bị cơm
nước, một là thay tôi cảm ơn nhân viên của công ty chuyển nhà, hai là
tiếp đón con gái Y Y của tôi. Vì thế mà quan hệ của chúng tôi ngày
một tốt hơn.

Cuối
tháng 11 tôi phải đi Bắc Kinh ba ngày, tham gia Đại hội Các nhà giáo
dục Trung Quốc lần thứ ba, nhưng không biết phải làm thế nào với con
gái, chị Thiệu biết tôi không có ai để gửi gắm Y Y, chị liền nhiệt
tình đón Y Y qua nhà chị ở, giúp tôi giải quyết nỗi lo khi đi công
tác.

Thời
gian sống ở Đại Liên, nói đến những người hàng xóm tốt bụng của tôi
và con gái, ngoài gia đình anh chị chủ nhà, còn một gia đình ở dưới
lầu mà cả đời này tôi cũng khó mà quên được.

Y Y
học ở trường Trung học số 77 thành phố Đại Liên, cách nhà khoảng ba,
bốn trăm mét, ra khỏi cổng khu dân cư, đi qua hai con phố là đến trường,
buổi sáng con bé tự đi học, lúc mới đầu khi tan học con cũng tự về
nhà, ngoài những lúc thời tiết không thuận lợi tôi thi thoảng đưa đón
con ra, thì đều là con tự đi học và tự về nhà. Cuối tháng 10 ngày
ngắn hơn, trời cũng nhanh tối hơn, khi tan học cũng là lúc trời đã
tối, để đảm bảo an toàn, lúc này tôi bắt đầu đón con về, đúng lúc
này thì những buổi thuyết trình của tôi ngày một nhiều lên.

Nhận
lời mời của Sở Nghiên cứu Khoa học giáo dục thành phố Đại Liên và
tạp chí Giáo dục Đại Liên, tôi bắt đầu những bài giảng bồi
dưỡng cho phụ huynh và các thầy cô giáo ở các trường trung học và
tiểu học của thành phố, thời gian thuyết trình đa phần là vào buổi
chiều, khi kết thúc về đến nhà thì cũng là lúc Y Y đã tan học lâu rồi,
để một đứa trẻ mới mười tuổi đi trên đường tối, tôi không thể nào yên
tâm, làm thế nào đây? Khi thấy không còn cách nào khác thì tôi nghĩ
đến chị Trịnh ở lầu dưới.

Nhà
chị Trịnh ở dưới lầu một, ngay dưới nhà của anh chị chủ nhà, anh
chị đều đã hơn năm mươi tuổi, anh làm chân chạy việc ở đơn vị còn
chị đã về hưu nhiều năm nay, ở nhà trông con, họ có một cậu con trai
đang học cấp ba, hai vợ chồng đều chân chất, nhiệt tình, biết tôi là
“người có học”, họ rất tôn trọng tôi. Mặc dù hai gia đình chúng tôi
chưa từng qua lại, nhưng khi tôi và Y Y lên lầu xuống lầu, họ đều
nhiệt tình chào hỏi chúng tôi.

Vì
thế tôi đến nhà anh chị với tâm lý thử xem thế nào, tôi gõ cửa, sau
khi nói chuyện chào hỏi đơn giản, tôi trình bày ý định của mình, và
hứa sẽ gửi chị thù lao nhất định, chị Trịnh và chồng chị nói tôi
khách sáo, đã coi họ là người ngoài, việc của Y Y họ nhất định
giúp, nhưng kiên quyết không lấy thù lao, anh chị còn nói một người
đàn ông gà trống nuôi con như tôi không dễ dàng gì, họ muốn giúp đỡ
nhưng không có cách nào cả, lần này thì họ có cơ hội giúp đỡ tôi
rồi.

Để
viết được những dòng này, tôi đã xem lại nhật ký của năm đó, chỉ
trong hai tháng chị Trịnh đã giúp tôi đón Y Y đến hơn mười lần. Để
không nhỡ nhàng việc đón Y Y, nhiều lúc chị còn phải bỏ dở việc
nhà, đội gió đội tuyết đến trường đón Y Y về.

Để
đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của các thầy cô giáo và các bậc
phụ huynh, những buổi thuyết trình khi đó có lúc còn thêm phần ký
tặng sách mới của tôi. Nhà xuất bản gửi cho tôi hơn 1.000 cuốn sách,
có đến hai chục, ba chục túi nặng, những cuốn sách này chuyển từ
tầng dưới lên tầng trên rồi lại chuyển từ trên xuống dưới rất tốn
công tốn sức, chị Trịnh nói tôi có thể để ở nhà chị, như vậy có
thể bớt vất vả khi chuyển đi chuyển lại, vì thế mà phòng khách,
hành lang, thậm chí là phòng ngủ nhà chị chất đầy những sách của
tôi. Sau đó mỗi lần ra ngoài thuyết trình, hai vợ chồng chị lại giúp
tôi chuyển những cuốn sách này.

Cho dù
là nhà chị Thiệu hay nhà chị Trịnh, nhà nào làm món gì ngon, không
mời cha con tôi qua ăn thì lại mang qua, mang lên cho cha con tôi, đặc
biệt là chị Thiệu chủ nhà, chị nói: “Đông Tử, cậu viết lách bận,
không muốn nấu nướng thì hai cha con qua nhà tôi cùng ăn, dù sao thì
tôi cũng phải nấu cơm, mọi người cùng ăn cho vui”. Vì chị mời nhiệt
tình, vài lần tôi và Y Y qua nhà chị ăn cơm, nhưng nghĩ làm phiền gia
đình chị, thực sự tôi rất ngại, sau đó chị thường làm những món mà
Y Y thích ăn mang sang cho chúng tôi, mỗi lần như vậy chị đều nói: “Hai
cha con mau ăn nóng cho ngon…”.

Một
người tha hương phiêu bạt nhưng luôn luôn nhận được tình cảm ấm áp từ
những người khác rất dễ xúc động, huống chi là chúng tôi nhận được
sự chăm sóc quan tâm như vậy, sự cảm kích đối với những người hàng
xóm tốt bụng luôn luôn ở trong lòng tôi. Nhưng từ trước tới nay tôi
chưa bao giờ nói với chị Thiệu hay chị Trịnh rằng tôi biết ơn họ như
thế nào.

Rời xa
Đại Liên đã mấy năm nay, lúc nào tôi và Y Y cũng nhớ tới họ, không
dưới một lần tôi nói với Y Y: “Nếu trở lại Đại Liên, hai cha con mình
nhất định phải đến thăm gia đình hai cô hàng xóm tốt bụng”.

Những
năm tháng ở Đại Liên đó là quãng thời gian khổ sở, vất vả nhất của
tôi và con gái, nếu không có sự giúp đỡ của những người hàng xóm
tốt bụng, không biết là cuộc sống của tôi và Y Y sẽ như thế nào, con
gái có được tâm lý thoải mái như bây giờ không thể không nói đến công
sức của chị Thiệu và chị Trịnh, giờ phút này tôi chỉ muốn nói một
câu: “Cảm ơn các chị, những người chị, người hàng xóm tốt bụng của
tôi!”.

Thủy triều xuống
tôi đưa con gái ra biển

Trong
tuổi thơ của Đông Tử không có ký ức về biển. Từ nhỏ tôi lớn lên ở
một vùng quê thuộc đồng bằng Đông Bắc, không có liên hệ với biển.

“Lúc nhỏ mẹ tôi kể cho tôi nghe, biển là quê hương
của tôi. Tôi sinh ra ở vùng ven biển, sống và lớn lên cùng biển…”. Tiếng
hát của Chu Minh Anh đã hướng tôi về sự thần kỳ của biển.

Mười tám tuổi, tôi nhập ngũ, tôi ngụp lặn
vào trong lòng biển. Những năm trở lại đây tôi luôn sống cuộc sống
phiêu dạt “bốn biển là nhà”, tôi đã từng sống ở nhiều thành phố ven biển,
đã từng nhân lúc thủy triều rút nhặt nhạnh hải sản trên những bãi
biển đó.

Đi nhặt
hải sản khi thủy triều xuống là việc quá đỗi quen thuộc với những
người sống ở vùng biển, bởi vì đó là một phần cuộc sống của họ.
Căn cứ theo quy luật lên xuống của thủy triều, lúc thủy triều xuống
thì đến bãi biển hoặc những mỏm đá để bắt hoặc nhặt hải sản.

Cuối
tuần mỗi khi thủy triều xuống, ba đến năm anh em chiến hữu lại hẹn
nhau mang xô, dây thép, tô vít tới những mỏm đá ở bờ biển nhặt hải sản.
Con gái sinh ra trên đất liền, lúc nhỏ thường quấn lấy tôi bắt tôi kể
chuyện hồi đi bộ đội, trong đó có chuyện đi nhặt hải sản này. Nghe tôi
kể Y Y cũng muốn đi một lần, tôi hứa với con, đợi con lớn thêm một
chút nữa sẽ đưa con đi.

Như đã
nói ở trên, Y Y lúc năm tuổi rưỡi cùng mẹ đến Đại Liên đi nghỉ, trong
thời gian này nhân lúc thủy triều xuống tôi đưa con ra biển hai lần,
sau đó trong thời gian sống ở Yên Đài, tôi cũng lại đưa con đi biển mấy
lần nữa, nhưng nhặt hải sản nhiều lần nhất và khó quên nhất vẫn là
thời gian hai cha con ở Đại Liên.

Do con
vừa mới rời xa mẹ, tôi dùng đủ cách để dỗ dành con, làm con vui, trong
đó có một cách mà hai cha con cùng thích đó là ra biển nhặt hải sản.
Đó là một ngày cuối tuần, chúng tôi lên mạng tra xem ở bờ biển gần
nhà nhất khi nào thì thủy triều rút, sau đó mang theo thùng nhỏ, dây
thép, tô vít, xẻng nhỏ và xuất phát.

Hai cha con đi xe bus đến bờ biển phía ngoài khu
vực xưởng 523. Trên bãi biển có rất nhiều những mỏm đá dựng đứng,
có những mỏm đá sát biển, còn nhìn thấy rõ cả vệt nước trước khi thủy
triều xuống, trên bãi cát có rất nhiều đá và vỏ ốc đẹp. Khi chúng
tôi đến thì thủy triều vẫn đang rút. Cùng với thủy triều xuống,
những bãi cát và những mỏm đá dần dần lộ ra, trên những mỏm đá
lớn còn hình thành những vũng nước rất to, có những vũng nước có
đường kính tới ba, bốn mét, có vũng chỉ khoảng hai mươi đến ba mươi
centimét, bao quanh những vũng nước là rong biển, tảo biển màu xanh rêu,
rồi có cả tu hài, hàu và cua nữa…

Tôi
xắn quần và cùng Y Y bắt đầu thu lượm! Hai cha con ai cầm dụng cụ
của người nấy, đầu tiên tấn công những con có vỏ cứng trắng đang bám
trên đá, chúng tôi dùng tô vít cậy nó xuống, sau đó lấy thịt ra, đây
chính là chiến lợi phẩm đầu tiên của chúng tôi: món hàu.

Tôi và
con gái mỗi người một tô vít bắt đầu cuộc chiến với hàu, cuộc
chiến này không những cần sức lực mà còn cần cả kỹ thuật nữa, ở
cả hai phương diện này con gái đều không bằng tôi nhưng con lúc nào
cũng rất sung sức và đầy ý chí, vì con không biết dùng lực, nên
nhiều con hàu bé bị con làm cho nát bét, chỉ còn lại lớp vỏ không
nguyên vẹn. Tôi nhẫn nại dạy con, dần dần con biết lấy ra một con hàu
hoàn chỉnh, khi lấy được một con hàu béo, con cười vui đắc thắng.

Trẻ
con làm gì cũng không được lâu, nhặt hàu được một lúc con lại muốn
lên bãi cát để nhặt đá và vỏ ốc, khi con quay lại trong tay cầm biết
bao là “báu vật” mà con thích. Ở đây chiến tích của tôi cũng rất
khá, không chỉ có hàu mà còn có cả những con cá mà tôi không biết
tên. Y Y vội hỏi những chú cá này tôi bắt được ở đâu, tôi chỉ tay về
hướng vũng nước ở dưới lớp cát, nói với con khi thủy triều lên
những chú cá nhỏ này bơi vào vũng này, khi thủy triều rút chúng bị
mắc kẹt ở đây và bây giờ nằm ở trong thùng của chúng ta.

Y Y
khen cha nhưng cũng rất tiếc vì đã không giúp đỡ tôi để bắt những chú
cá nhỏ này, tôi vừa an ủi vừa cổ vũ con, sau đó chúng tôi cầm theo
lưới sắt, đến những khe giữa những mỏm đá để bắt cua. Tôi làm mẫu
cho con trước, cầm một cọng dây thép, bò đến khe giữa hai mỏm đá, và
bắt đầu chọc vào đó, và một con cua chui ra. Con gái nhìn tôi làm đã
hiểu, cầm lấy cọng dây thép trong tay tôi và bắt đầu hành động. Tôi
vội dặn con: “Trước tiên phải lặng yên quan sát trong khe có cua hay
không, nếu có thì dùng cọng dây thép để móc nó ra”.

Sau đó
thì con bắt đầu đi kiểm tra từng hòn đá một xem có gì có thể săn
được không, cuối cùng thì cũng phát hiện được con cua. Con lặng lẽ
cầm lấy cọng dây thép đưa vào lỗ, nhưng ngạc nhiên là con cua không hề
chui ra mà lại càng chui sâu vào trong, mắt nhìn thấy con mồi đi mất,
con lo lắng, nhưng con có chọc như thế nào thì con cua đó cũng không
chịu chui ra, không còn cách nào khác con đành nhờ tôi trợ giúp. Tôi
bẻ cong cọng thép thành hình một móc câu rồi đưa cho con thử, nhẹ
nhàng móc xem thế nào, con cua cố chấp đó cuối cùng cũng chịu chui
ra, hơn nữa không chỉ có một con mà là hẳn một đàn, nhìn thấy vậy
con vui mừng nhảy cẫng lên.

Sau hai
tiếng đồng hồ, tôi và Y Y mang thành quả lao động về nhà, những
chiến lợi phẩm này được chúng tôi chế biến thành món canh hải sản
hấp dẫn, con gái nhẹ nhàng húp một ngụm: “Ôi, thật là thơm!”. Sau
đó, hầu như tuần nào hai cha con cũng đi nhặt hải sản một lần.

Báo cáo nội dung xấu