Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển VI - Chương 113 - 114
113. Công Tôn Cửu Nương
(Công Tôn Cửu Nương)
Cái án Vu Thất* phát ra, những kẻ liên lụy bị giết nhiều
nhất là người hai huyện Thê Hà, Lai Dương (tỉnh Sơn Đông), mỗi ngày có tới mấy
trăm người bị giải ra pháp trường xử chém, máu đen ngập đất, xương trắng ngút
trời. Quan trên nhân từ cấp cho quan tài, các hiệu bán quan tài trong thành Tế
Nam (tỉnh thành Sơn Đông) hết sạch cả hàng, vì vậy những người bị xử tử phần
lớn được chôn ở cánh đồng phía nam thành.
*Cái án Vu Thất: tức vụ khởi binh
chống triều đình của Vu Thất ở huyện Thê Hà tỉnh Sơn Đông năm Thuận Trị thứ 18
(1661), bị nhà Thanh đàn áp rất thảm khốc.
Năm Giáp dần có thư sinh người huyện Lai Dương tới chơi Tắc Hạ (cửa nam
thành Tế Nam), vì có hai ba người bạn bị xử tử nên nhân đó mua giấy tiền vàng
bạc ra cúng ở đám mả hoang, rồi tới thuê một gian phòng trong chùa ở trọ. Hôm
sau vào thành lo công việc, xế chiều vẫn chưa về. Chợt có một thiếu niên tới
phòng trọ thăm, thấy sinh đi vắng liền bỏ mũ leo lên giường, để nguyên giày nằm
ngửa, đầy tớ sinh hỏi chỉ nhắm mắt không trả lời. Lúc sinh về trời đã nhá nhem,
không nhìn rõ mặt bèn tới cạnh giường hỏi, khách trợn mắt nói: “Ta đang chờ chủ
ngươi, sao cứ hạch hỏi lôi thôi, chẳng lẽ ta là trộm cướp à?” Sinh cười nói:
“Chủ nhân đây”. Thiếu niên vội vùng dậy, đội mũ sửa áo ngồi xuống, vồn vã hỏi
thăm.
Sinh nghe tiếng như người quen, vội gọi lấy đèn, thì ra là Chu sinh
người cùng huyện, cũng chết trong nạn Vu Thất, cả sợ bỏ chạy. Chu kéo lại nói:
“Ta với ông là bạn văn chương, sao vô tình với nhau như thế? Ta tuy là ma nhưng
vẫn canh cánh nhớ cố nhân, nay có chuyện muốn làm phiền, xin đừng coi là khác
loài mà xử tệ”. Sinh bèn ngồi xuống xin nghe sai bảo, Chu nói: “Cháu gái ông
hiện ở một mình không có chồng, ta muốn cưới nàng về lo việc trong nhà, đã mấy
lần nhờ mai mối dạm hỏi nhưng nàng cứ lấy cớ là không có lệnh của bậc tôn
trưởng để từ chối, xin ông nói giúp cho một câu”.
Trước sinh có đứa cháu gái gọi bằng cậu, mồ côi mẹ từ nhỏ nên sinh đem
về nuôi, đến năm mười lăm tuổi mới về sống với cha. Nàng bị bắt giải tới Tế
Nam, nghe tin cha bị hành hình, gào khóc tắt hơi mà chết. Sinh nói: “Có cha nó
đó, sao lại cầu ta?”. Chu đáp: “Cha nàng đã được người cháu bốc mộ mang đi,
hiện không có ở đây”. Sinh hỏi cháu gái mình đang ở với ai, Chu đáp nàng ở
chung với bà láng giềng. Sinh ngại người sống không thể làm mai mối cho ma, Chu
nói: “Nếu ông chịu giúp thì xin phiền dời gót ngọc”, rồi đứng dậy nắm tay sinh
kéo đi. Sinh từ chối, hỏi đi tới đâu, Chu nói: “Cứ đi sẽ biết”, sinh bèn miễn
cưỡng đi theo. Đi về phía bắc khoảng một dặm thấy có thôn xóm đông đúc, ước
chừng mấy trăm nóc nhà.
Tới một gian nhà, Chu gõ cửa, lập tức có bà già ra mở cả hai cánh cửa,
hỏi Chu tới có việc gì. Chu nói: “Làm phiền bà nói với nương tử rằng có ông cậu
tới,” Bà già quay vào, giây lát trở ra mời sinh vào, nhìn Chu nói: “Có hai gian
nhà tranh chật chội, phiền công tử ngồi đợi ngoài cổng một lúc”, sinh theo bà
ta vào, thấy bên trong là nửa mẫu vườn hoang, có hai gian phòng nhỏ, đứa cháu
gái khóc lóc đứng đón ở cửa, trong phòng đèn lửa lờ mờ. Cô gái dung mạo vẫn
xinh xắn như lúc còn sống, gạt lệ hỏi thăm tất cả các dì các mợ. Sinh đáp: “Mọi
người khỏe cả, duy có vợ ta đã qua đời rồi”. Cô gái lại sụt sùi khóc, nói:
“Cháu lúc nhỏ được cậu mợ nuôi nấng, chưa có chút gì báo đáp mà không ngờ đã
vùi xác nơi ngòi rãnh trước, rất đỗi ân hận. Năm trước ông anh lớn con nhà bác
tới mang hài cốt cha cháu về nhưng không nghĩ gì tới cháu, bơ vơ ngoài mấy trăm
dặm như én thu lạc đàn, cậu lại không bỏ qua hồn ma vất vưởng, lại đốt cho vàng
bạc, cháu đã nhận được rồi”. Sinh bèn kể lại lời Chu, cô gái cúi mặt im lặng.
Bà già nói: “Chu công tử nhờ bà Dương tới dạm hỏi năm ba bận, già nói
việc này rất đáng mừng nhưng nương tử không chịu tự lấy chồng kiểu qua quít,
nay được ông cậu làm chủ hôn, mới ưng ý như thế đấy”. Bà ta vừa dứt lời thì một
nữ lang khoảng mười bảy mười tám tuổi, có đứa hầu gái theo sau xăm xăm bước
vào, vừa thấy sinh liền quay người toan chạy. Cháu gái sinh nắm vạt áo kéo lại
nói: “Không cần phải làm thế, đây là cậu ruột ta, không phải người ngoài”. Sinh
vái chào, nữ lang cũng khép nép đáp lễ. Cháu sinh nói: “Đây là Cửu Nương, họ
Công Tôn ở huyện Thê Hà. Ông thân sinh là con nhà thế gia cũ nhưng nay cũng sa
sút, không thích chơi với ai, sớm tối chỉ qua lại bạn với cháu”.
Sinh liếc thấy nàng mỉm cười miệng sáng tựa trăng thu, bẽn lẽn má hồng
như ráng sớm, xinh đẹp như tiên bèn nói: “Nhìn thì biết ngay là con nhà đại
gia, chứ lều tranh vách đất làm sao có người đẹp như vậy được”. Cháu sinh nói:
“Đã thế còn là nữ học sĩ, thơ phú đều hay, trước nay cháu vẫn được nàng chỉ
dạy”. Cửu Nương cười khẽ nói: “Con nhãi bỗng dưng lại bêu xấu người, ông cậu
cười cho kìa!”. Cháu sinh lại cười nói: “Cậu góa vợ chưa tục huyền, thế người
như nương tử đây cậu có vừa ý không?”. Cửu Nương cười chạy ra, nói: “Con nhãi
điên rồi”, rồi bỏ đi. Câu nói tuy giống như đùa giỡn nhưng sinh rất thích, cháu
sinh biết ý bèn nói: “Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp, nếu cậu
không chê là ma thì cháu sẽ nói giùm với mẹ nàng”. Sinh cả mừng nhưng ngại
người với ma khó kết vợ chồng với nhau, cháu sinh nói: “Không sao đâu, nàng với
cậu vốn có túc duyên với nhau”. Sinh ra về, cháu gái tiễn ra, nói: “Năm hôm
nữa, lúc trăng thanh người vắng, sẽ sai người tới đón cậu”.
Sinh ra ngoài cổng không thấy Chu đâu, nhìn về phía tây thấy nửa vành
trăng trong ánh sáng mờ mờ còn nhận ra đường cũ. Đi một quãng thấy phía nam có
một ngôi nhà, Chu đang ngồi chờ trên bậc thềm ngoài cổng, đứng lên đón, nói:
“Ta chờ ông lâu rồi, mời ông quá bộ vào tệ xá”, rồi cầm tay sinh đưa vào, ân
cần cảm tạ. Kế đưa ra một cái chén vàng, trăm hạt ngọc châu nói: “Chẳng có gì
đáng giá, xin nhận mấy thứ này thay sính lễ”. Kế nói: “Trong nhà cũng có ít
rượu dở, nhưng vật dưới âm ty sợ không mời khách quý được, làm thế nào?”. Sinh
khiêm tốn từ tạ, Chu tiễn tới nửa đường mới quay về.
Sinh về tới nơi trọ, các sư và đầy tớ xúm lại hỏi han, sinh giấu kín
chuyện nói: “Ai nói ta gặp ma là nói bậy, mới rồi ta tới nhà người bạn uống
rượu thôi”. Sau năm hôm quả thấy Chu tới, sửa giày phẩy quạt có vẻ đắc ý vui
mừng lắm, vừa vào tới sân đã vái lạy. Giây lát cười nói: “Việc vui mừng của ông
đã thu xếp xong, đêm nay làm lễ cưới rồi, xin mời lên đường”. Sinh nói: “Ta vì
không thấy có tin tức gì nên còn chưa nộp sính lễ, làm sao đã thu xếp xong?”
Chu nói: “Ta đã nộp thay cả rồi”. Sinh hết lời cảm tạ rồi cùng đi tới nơi vào
thẳng nhà trong, thấy cháu gái ăn mặc đẹp đẽ tươi cười ra đón. Sinh hỏi làm đám
cưới lúc nào, Chu đáp đã ba hôm. Sinh bèn đưa số vàng ngọc Chu tặng hôm trước
để thêm vào của hồi môn cho cháu gái, cô gái từ chối hai ba lần mới nhận, rồi
nói với sinh: “Cháu tỏ ý cậu với Công Tôn phu nhân, phu nhân rất vui mừng, chỉ
nói rằng đã già cả không có con cháu nào khác nên không muốn Cửu Nương lấy
chồng xa, hẹn đêm nay cậu tới gởi rể tại nhà. Nhà ấy không có đàn ông, để chồng
cháu qua làm lễ với cậu cũng được”.
Chu liền dẫn sinh đi tới cuối thôn thấy một ngôi nhà mở cổng sẵn, hai
người lên thẳng sảnh đường. Giây lát gia nhân báo phu nhân tới, có hai người
hầu gái đỡ bà già lên thềm. Sinh định lạy chào, phu nhân nói: “Ta già yếu lọm
khọm, không thể đáp lễ, xin bớt bớt nghi thức thôi”, rồi sai đám hầu gái bày
tiệc mừng. Chu cũng gọi gia nhân đem ra một mâm riêng đặt trước mặt sinh, lại
lấy ra một bầu rượu riêng để sinh uống. Các món ăn trong tiệc không khác gì với
trần gian, chỉ có chủ nhân tự rót uống chứ không mời mọc khách. Kế tan tiệc,
Chu ra về, hầu gái đưa sinh vào. Tới phòng trong thấy Cửu Nương ngồi bên đuốc
hoa đợi sẵn, duyên may giải cấu, người ngọc đa tình, gặp gỡ nhau vô cùng vui
sướng.
Nguyên là trước kia mẹ con Cửu Nương bị giải lên kinh, nhưng tới Tế Nam
thì mẹ nàng chết vì không chịu nổi khổ cực, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo.
Nay trên gối kể lại chuyện đã qua, nàng thổn thức không sao ngủ được, bèn khẩu
chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:
I. Tích nhật la thường hóa tác trần,
Không tương nghiệp quả hận tiền thân..
Thập niên lô lãnh phong lâm nguyệt,
Thủ dạ sơ phùng họa các xuân.
II. Bạch dương phong vũ nhiễu cô phần,
Thùy tưởng Dương đài cánh tác vân.
Hốt khải lũ kim sương lý khán,
Huyết tinh do nhiễm cựu la quần.
(I. Xiêm áo ngày xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng hận tiền thân
Rừng bàng sương lạnh mười năm nguyệt
Lầu gác đêm nay mới sáng xuân
II. Mưa gió mồ hoang quạnh bạch dương
Đâu ngờ mây lại phủ đài Dương
Chợt mở rương xưa nhìn vật cũ
Máu vấy xiêm y nghĩ đoạn trường)
Trời gần sáng, nàng giục sinh: “Chàng nên về sớm, đừng để bọn tôi tớ sợ
hãi”. Từ đó ngày đi đêm tới hết sức gắn bó. Một đêm sinh hỏi Cửu Nương làng này
tên là gì, nàng đáp: “Là làng Lai Hà, trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là
người hai huyện Lai Dương và Thê Hà, nhân đặt tên như thế”. Sinh nghe thế bùi
ngùi than thở, nàng buồn rầu nói: “Cô hồn ngàn dặm trôi nổi không nhà, tình
cảnh mẹ con thiếp nói tới thật đau xót. Nếu chàng nghĩ tới ơn nghĩa một đêm,
xin thu nhặt giùm hài cốt mẹ con thiếp đem về chôn cất cạnh mồ mả ông bà cho
được trăm đời có chỗ nương dựa thì chết cũng còn có tiếng thơm”.
Sinh nhận lời, nàng lại nói: “Người và ma khác loài, chàng cũng không
nên ở lại chốn này lâu”, rồi đưa tặng sinh cái khăn lụa, gạt lệ giục lên đường.
Sinh buồn rầu đi ra, trong lòng đau đớn, bồi hồi không nỡ ra về, nhân qua gõ
cửa nhà Chu. Chu chạy chân không ra đón, cháu sinh cũng trỗi dậy, tóc còn chưa
chải, hoảng sợ ra hỏi han cậu. Sinh ngậm ngùi hồi lâu mới thuật lại lời Cửu
Nương. Cháu gái sinh nói: “Mợ mà không nói thì cháu cũng đã tính toán lâu nay,
nơi đây không phải là trần gian, quả thật cậu không nên ở lâu”. Rồi đó nhìn
sinh rơi lệ, sinh cũng ứa nước mắt từ biệt. Trở về gõ cửa nhà trọ, nằm thao
thức đến sáng, trở dậy muốn tìm mộ Cửu Nương thì nhớ ra là quên hỏi dấu tích.
Đến tối trở lại nơi đó thì thấy mồ mả ngổn ngang, không tìm ra được đường đi
làng xóm đành than thở quay về.
Giơ chiếc khăn nàng tặng ra xem, gặp cơn gió thổi qua lập tức mủn ra,
nát vụn như tro, bèn thu xếp hành trang về quê. Liền nửa năm không thể yên
lòng, lại tới Tế Nam mong có dịp gặp lại nàng. Tới cánh đồng phía nam thành thì
trời đã xế chiều, liền buộc ngựa vào gốc cây trước sân đình rồi đi mau vào bãi
tha ma. Chỉ thấy mồ mả trùng trùng, cỏ gai mút mắt, ma trơi lập lòe, chồn kêu
ảo não, ghê lòng sởn gáy, sợ hãi đau xót trở về chỗ trọ, chán nản không muốn đi
chơi đâu cả, dong ngựa về quê. Đi được khoảng một dặm, nhìn thấy xa xa có một
nữ lang thơ thẩn giữa đám mồ mả, lấy làm lạ vì dáng vẻ phong thái rất giống Cửu
Nương, liền ra roi thúc ngựa tới gần nhìn thì đúng là nàng. Sinh xuống ngựa
định hỏi han, nhưng nàng bỏ chạy như không quen biết. Sinh lại lên ngựa đuổi
tới gần, nàng tỏ vẻ giận dữ lấy tay áo che mặt, sinh vội gọi tên Cửu Nương thì
nàng biến mất.
Dị Sử thị nói: Khuất Nguyên gieo mình xuống sông, máu đầy gan ruột, Thân
Sinh đeo quyết ra trận, lệ đẫm cỏ cây* các bậc tôi trung con hiếu
ngàn xưa có kẻ đến lúc chết vẫn không xét lại vua cha của mình. Có lẽ Công Tôn
Cửu Nương tuy đem hài cốt chết theo cha mẹ nhưng vẫn không cởi bỏ được mối oán
hờn trong lòng chăng? Ý niệm trong lòng không thể vốc ra cho người khác nhìn
rõ, mới oan uổng làm sao!
*Khuất Nguyên... cỏ cây: Sử ký
chép Khuất Nguyên là trung thần nước Sở thời Chiến quốc, bị các nịnh thần ghen
ghét gièm pha khiến Sở Hoài vương không dùng, Nguyên xõa tóc đi lang thang bên
đầm, ngâm thơ để tỏ chí rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Tả truyện chép
Thân Sinh là Thái tử của Tấn Hiến công thời Xuân thu, Hiến công yêu vợ lẽ là Ly
Cơ, muốn lập con Ly Cơ là Hề Tề nối ngôi nên muốn giết Thân Sinh, sai Thân Sinh
đi đánh Cao Lạc thị ở Đông Sơn, đeo cho Thân Sinh cái kim quyết. Đại phu nước
Tấn là Hồ Đột than: “Đeo cho cái kim quyết thì chúa công có ý muốn phế Thái tử
rồi”, vì Kim quyết (cái quyết bằng vàng) đồng âm với kim quyết (từ nay vĩnh
biệt). Câu này ý nói những kẻ tôi trung con hiếu nhiều khi vẫn bị oan uổng, đây
chỉ nhân vật Công Tôn Cửu Nương.
114. Câu Đối Của Hồ
(Hồ Liên)
Tiêu sinh là em con chú của Tiên sinh Thạch Hồng ở huyện Chương Khâu
(tỉnh Sơn Đông) đọc sách trong vườn, nửa đêm thấy có hai mỹ nhân tới, đều rất
xinh đẹp, một nàng khoảng mười bảy mười tám, một nàng khoảng mười bốn mười lăm
tuổi, vỗ vào bàn nhoẻn miệng cười. Tiêu biết là hồ, nghiêm sắc mặt cự tuyệt.
Nàng lớn nói: “Chàng râu cứng như sắt, sao không có khí sắc đàn ông thế?”. Tiêu
đáp: “Ta bình sinh không dám biết tới người đàn bà thứ hai”. Cô gái cười nói:
“Thật là cổ hủ quá, chàng còn câu nệ chuyện ấy sao! Quỷ thần thời hạ nguyên* cũng
đều lấy đen làm trắng, huống chi chuyện nhỏ nhặt trên giường”.
*Hạ nguyên: đây chỉ thời loạn lạc,
phong tục suy đồi.
Tiêu lại xì khinh bỉ. Cô gái biết là không lay chuyển được, bèn nói:
“Chàng là bậc danh sĩ, thiếp có một vế đối xin chàng đối giúp, nếu đối được thì
bọn ta tự đi: Mậu tuất đồng thể, phúc trung chỉ khiếm nhất điểm (Mậu tuất cùng
thể, trong bụng chỉ thiếu một điểm)”. Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu không đối được, cô
gái cười nói: “Danh sĩ mà như thế à? Ta đối thay cho cũng được: Kỷ tỵ liên tung,
túc hạ hà bất song khiêu (Kỷ tỵ liền vết, dưới chân sao chẳng hai khều?)”* kế
cười rộ bỏ đi. Chuyện này là Tư khấu họ Lý**ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn
Đông) kể lại.
*Mậu tuất... hai khều: đôi câu đối
này có chỗ chơi chữ: trong Hán tự, chữ mậu và chữ tuất, chữ kỵ và chữ tỵ có tự
hình gần như nhau, ngoài ra hai chữ “túc hạ” còn là một đại từ nhân xưng ngôi
thứ hai số ít với ý nghĩa trang trọng. Hai cô gái hồ có ý chế nhạo nhân vật
Tiêu sinh không có: “phong thái đàn ông” vì không chịu thân mật với họ.
**Tư khấu họ Lý: bản Hương Cảng
chú nhân vật này tên Hoa Hy, tự Ngũ Huyền, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên
hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628 -1643), làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình,
theo đó thì hai chữ “Mậu tuất” và “Kỷ tỵ” của hai cô gái hồ trong truyện này có
lẽ không chỉ đơn giản là chơi chữ mà có thể còn dính dáng hay ám chỉ hai sự
kiện chính trị nào đó khoảng cuối Minh đầu Thanh.