Việt sử giai thoại (Tập 5) - Chương 46 - 53

46 – CUỘC ĐỐI ĐÁP GIỮA THÁM HOA LƯƠNG
NHƯ HỘC VỚI VĂN LƯ

Lương Như Hộc người Hải
Dương, đỗ Thám hoa năm Nhâm Tuất (1442), làm quan trải hai triều là Lê Nhân
Tông và Lê Thánh Tông, chức Tả thị lang bộ Lễ. Ông từng đi sứ sang Trung Quốc,
và tương truyền, ông là người đã đưa nghề khắc in bản gỗ vào nước ta, cho nên,
dân làm nghề khắc in bản gỗ vẫn tôn ông là Tổ sư của nghề mình. Như vậy, xét về
danh vọng và địa vị xã hội, ông thuộc lớp cao sang của người đương thời.

Văn Lư là tên của một người
lính ở vệ Oai Lôi thời Lê Thánh Tông. Thân phận của Văn Lư nếu đem so với Lương
Như Hộc thì hiển nhiên là rất thấp kém. Tuy nhiên, vào năm Đinh Hợi (1467),
giữa hai người có địa vị rất cách biệt này đã có một cuộc đối đáp khá thú vị,
được sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính
biên, quyển 20, tờ 22) ghi lại như sau:

"Bấy giờ, Vua hạ lệnh
lính Ngũ Phủ chế tạo binh khí theo kiểu mới, nhưng chưa được bao lâu lại sai
chế tạo theo kiểu khác, quân lính vì vậy mà phàn nàn. Một quân nhân ở vệ Oai
Lôi tên là Văn Lư dâng thư nói rằng:

- Tháng giêng năm nay, hệ hạ đã ban hình dạng
mới về vũ khí, khiến cho quân nhân theo đó mà chế tạo. Nay, bệ hạ cho thay đổi
hình dạng vũ khí theo kiểu khác, như thế là chính lệnh bất thường.

Nhà vua sai các quan ở bộ
Lại đến dụ bảo Văn Lư rằng:

- Binh khí cùng một dạng ấy cả chứ có khác gì?
Nhà ngươi chỉ được cái nói càn mà thôi.

Quan Thị lang là
Lương Như Hộc nói riêng với Văn Lư rằng:

- Nhà ngươi không phải người giữ chức Ngôn
quan, hà cớ gì lại nói càn đến việc quốc gia đại sự?

Văn Lư trả lời:

- Nước lấy dân làm gốc rễ, còn như lính là để
bảo vệ dân. Nay, chính lệnh trước sau bất nhất, quân dân ai oán, ông là cận thần
của Nhà vua, thế mà cam ngậm miệng không nói. Giờ đây, Lư này nói lời ấy chính
là vì yêu Vua đó thôi.

Bọn Như Hộc nghe lời Văn Lư
nói, đều im lặng.

Lời bàn: Dân gian có chuyện kể
rằng, có nhà quyển thế nọ muốn tỏ rõ uy quyền đặc biệt của mình, bèn chỉ con
vịt mà bảo tôi tớ rằng đó là con gà, tôi tớ của hắn vì sợn mà từ ấy, cứ thấy
con vịt là nói ngay rằng đấy là con gà. Chuyện nhà vua thay đổi kiểu dáng vũ
khí nhưng vẫn khăng khăng rằng không thay đổi, ắt cũng gần giống với chuyện của
nhà quyền thế kể trên. Thế mới biết là có quyền thế bao giờ cũng dễ ăn dễ nói.

Thân phận những người lính
như Văn Lư, thấp hèn là quả rõ. Tuy nhiên, lời anh nói lại chẳng thấp kém một
chút nào. Dám dâng thư can vua, ấy là người có dũng khí. Can vua vì chút lòng
thành với quân dân, vì sự nhất quán của chính lệnh chứ chẳng hề vì lợi ích
riêng, ấy là người có đức trung.

Cuộc đối đáp giữa quan Tả
thi lang là Lương Như Hộc với Văn Lư cho thấy sự khác biệt của hai phép xử thế.
Khi sống, mỗi người có quyền chọn cho mình một phép xử thế riêng, có điều khi
chết rồi, hậu thế có quyền khen người này, chê người nọ. Bạn hãy nói cho tôi
biết, bạn thích lời của Lương Như Hộc hay lời của Văn Lư, tôi sẽ nói ngay rằng
bạn là người như thế nào.

47 - VUA LÊ THÁNH TÔNG ĐÒI ĐỌC NHẬT
LỊCH

Trong triều đình xưa thường
có chức Sử quan. Chức này chuyên lo việc ghi chép việc làm và lời nói hàng ngày
của vua vào một cuốn sổ riêng, gọi là nhật lịch. Sau,
Sử quan lại dựa vào nhật lịch để viết chính sử cho nước nhà, sử ấy gọi là thực
lục.
Điển lễ xưa quy định, vua không bao giờ được xem nhật lịch cũng
không được xem thực lục về triều đại của mình. Lễ ấy đặt ra cốt để khiến cho Sử
quan có thể dễ dàng viết cả việc xấu, lời dở của vua một cách trung thực và tự
nhiên. Điển lễ ấy đúng sai thế nào, xin hãy miễn bàn, chỉ biết người xưa hiển
nhiên là tuân thủ điển lễ xưa.

Thế nhưng, năm 1467, vua Lê
Thánh Tông lại đòi xem nhật lịch. Việc làm trái lễ này của Nhà vua đã được sách
Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 20, tờ
27) chép lại kèm theo hai lời phê khá nặng như sau:

"Nhà vua muốn Xem xét
công việc của Sử quan, bèn sai Trung sứ (người nhận mệnh Vua đi làm một việc cụ
thể gì đó - ND) đến Hàn Lâm Viện, dụ bảo Sử quan là Lê Nghĩa rằng:

- Ngày xưa, Phòng Huyền Linh giữ chức Sử quan
dưới thời Đường Thái Tông, Thái Tông muốn xem thực lục, Huyền Linh không cho.
Nay nhà ngươi nếu đem so với Phòng Huyền Linh thì ai giỏi hơn?

Lê Nghĩa trả lời:

- Sự biến xảy ra ở cửa Huyền Vũ (nơi ba anh em
Đường Thái Tông chém giết lẫn nhau - ND), sau Huyền Linh mới chép chứ không dám
chép ngay lúc đó, vì có lệnh của Đường Thái Tông. Xem thế thì đủ biết Huyền
Linh chưa chắc đã giỏi.

Trung sứ nói:

- Ý Nhà vua là muốn đọc nhật lịch từ năm Quang
Thuận thứ nhất (1460 - ND) đến nay.

(Lê) Nghĩa nói:

- Làm Vua mà đọc nhật lịch như Đường Thái Tông
đọc nhật lịch do Phòng Huyền Linh chép thì sẽ bị đời sau chê cười đấy.

Trung sứ nói:

- Vua cho là đọc nhật lịch để biết trước kia
nếu làm điều gì lầm lỗi thì nay có thể tự xét mà sửa đổi.

(Lê) Nghĩa nói:

- Thì bệ hạ cứ gắng làm điều tốt,
hà cớ gì phải xem nhật lịch.

Vua sai Trung sứ dụ bảo mấy
lần, Lê Nghĩa liền nói:

- Nếu thánh thượng thực lòng muốn tự sửa lỗi,
đó là may mắn lớn lao không cùng cho xã tắc. Vậy thì đọc nhật lịch cũng là nghe
thêm lời can ngăn trong khi ngỡ như không có ai can ngăn vậy.

(Nói rồi, Lê Nghla) bèn dâng
nhật lịch.

Lời phê: Lòng hiếu danh của Lê
Thánh Tông cũng chẳng khác gì Đường Thái Tông nên mới đòi xem nhật lịch.

Lời phê: Lê Nghĩa giữ đạo không
nghiêm.”

Lời bàn: Vua tự
biết việc đòi xem nhật lịch là trái phép nên mới sai trung sứ đến Hàn Lâm Viện
gặp Lê Nghĩa, dẫn chuyện Đường Thái Tông với Phòng Huyền Linh để lung lạc lòng
cương trực vốn có của Sử quan. Bị Lê Nghĩa phản đối, Vua buộc phải nói rằng,
đọc nhật lịch là để biết lỗi trước mà tự sửa. Ý xa và lời gần của Vua. xem ra
đều không chính đáng. Đã biết việc của Đường Thái Tông và Phòng Huyền Linh là
sai mà còn noi theo, ấy là đã bị tập nhiễm cái xấu. Lỗi mình gây ra, tự mình,
mình phải biết. Người đã quên lỗi của mình, đâu dễ đọc lại nhật lịch là tự sửa được?

Lê Thánh Tông hiếu danh
chăng? Lời phê của các sử gia thời Nguyễn. trong trường hợp cụ thể này, có lẽ
là chưa xác đáng. Còn như Lê Nghĩa giữ đạo không nghiêm thì rõ rồi. Song,
nghiêm với kẻ dưới thì được, chớ nghiêm với người trên, nhất lại là người ở
trên ngai vàng, chẳng phải dễ đâu.

48 - THÁI BẢO NGUYỄN LỖI CAN VUA

Năm 1467, một võ tướng của
triều đình Lê Thánh Tông là Khuất Đả, chẳng may phạm tội trễ nải việc quân rồi
bị bại trận khi đi đánh dẹp ở An Bang (vùng Quảng Ninh ngày nay). Các quan nhân
đó hặc tội Khuất Đả và đem ông ra xét xử. Nhưng, ngay khi triều đình đang xét
án thì có một sự kiện đã xảy ra. Sách Đại Việt sử kí toàn thứ (bản
kỉ, quyển 12, tờ 42 - b và 43 - a) chép rằng:

"Mùa đông, tháng 11,
ngày mồng 5, khi vừa tan buổi chầu, Vua có hỏi các bậc đại thần và bá quan văn
võ rằng:

- Đô đốc Khuất Đả tuy có làm trái quân luật,
các quan ở bộ Hình đang xét xử, nhưng trẫm muốn gọi hắn, cho hắn làm Tổng binh
để trấn thủ Bắc Bình (thuộc Việt Bắc ngày nay – ND) liệu có nên không?

Thái bảo Nguyễn Lỗi tâu vua:

- Cho ai sống, buộc ai chết hoặc giả là ban
chức cho ai, bãi miễn chức của ai, tất cả đều thuộc quyền của bệ hạ, bọn bề tôi
không dám lạm bàn. Song, Khuất Đả phụng mệnh Nhà vua đi đánh dẹp đã không làm
nên công trạng gì, các quan ở Lục Khoa hặc tấu và các quan ở bộ Hình đang xét
hỏi, thiết tưởng hãy đợi án xét xong, nếu qủa ông ta không có tội thì bổ dụng
cũng không muộn.

(Ai cũng đồng tình), Chỉ huy
quan Binh bộ thượng thư là Lê Bá Trù có lời tâu rằng:

- Khuất Đả tuy có tội, nhưng (Nhà vua) cứ lấy
quyền nghi mà dùng thì có sao đâu?

Vua nghe theo lời của
(Nguyễn) Lỗi, bèn thôi (không nói chuyện bổ dụng Khuất Đả nữa).”

Lời bàn: Đành Khuất Đả mắc tội
trong chỗ không ngờ và cái tâm của ông không ai dám bảo là xấu, song, Nhà vua
tính cất nhắc Khuất Đả ngay khi ông đang bị triều đình xét hỏi, thì việc ấy,
dẫu chỉ mới là ý định không thôi cũng đã đủ để dự báo đều chẳng lành rồi.

May thay, Nhà vua đã biết
nghe lời can ngăn của Thái bảo Nguyễn Lỗi. Ở đời, nhiều khi người ta chỉ hơn
nhau ở chỗ biết nghe ấy. Làm cha mẹ mà không biết nghe, gia giáo sẽ bại hoại.
Làm quan mà không biết nghe, chính sự một phương sẽ đổ nát. Làm vua mà không
biết nghe, phép nước sẽ bị rẻ rúng ngay ở chỗ tôn nghiêm nhất và thời loạn lạc
ắt sẽ đến gần. Lời vàng ngọc của quan Thái bảo Nguyễn Lỗi đến thật đúng lúc.

Đọc đoạn sử này, chỉ thấy
tiếc cho Binh bộ thượng thư Lê Bá Trù. Việc chính của mình mà mình không nghiêm
xét, thì thử hỏi, các việc khác sẽ ra sao? Hẳn Lê Bá Trù muốn lựa theo ý Vua để
nói, mượn cớ cứu Khuất Đả để cốt được lòng Vua, hòng củng cố địa vị cho mình.
Sinh thời, nhờ khôn khéo mà ông được yên thân, nhưng, với hậu thế, chẳng ai để
cho ông yên được. Lịch sử cổ kim nào có thiên vị bao giờ.

49 - VUA LÊ THÁNH TÔNG XIN LỖI QUAN
ĐÔ NGỰ SỬ TRẦN XÁC

Năm 1467, vùng Bắc Bình và
An Bang (Đông Bắc nước ta ngày nay) bị náo loạn. Tổng binh Bắc Bình lúc ấy là
Lê Hối đánh dẹp mãi mà không được, triều đình buộc phải sai Đô đốc Khuất Đả đem
quân đến để phối hợp tiễu trừ. Nhưng, chẳng may cả hai bị bại trận, Khuất Đả và
Lê Hối cùng bị đem ra xét xử. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ,
quyển 12, tờ 4a - b) chép:

"Quan Hình bộ thượng
thư là Trần Phong lo việc xét hỏi quan Tổng binh Bắc Bình là Lê Hối, có ý cho
Lê Hối được hưởng lệ bát nghị vì thấy Lê Hối vốn là người cũng có chút công
lao. Quan Đô ngư sử là Trần Xác nói:

- Việc của Lê Hối đã giao cho Pháp ti xét hỏi,
cho hưởng lệ bát nghị là phải lắm. Xưa nay, chỉ có tội đại ác và tội phản
nghịch là không được hưởng lệ bát nghị thôi, chưa từng thấy quan phạm tội
thường mà không cho hưởng lệ này.

Vua dụ bảo Xác, nói rằng:

- Quân pháp chỉ có một chứ không có hai. Nói
như lời của Xác là đã tách làm hai rồi. Đó không phải là lời bàn về quân pháp
mà chỉ là lời biện bác để mê hoặc người mà thôi, phải nên trị Xác về tội này
mới được.

Chẳng bao lâu sau, Vua lại
dụ bảo Xác rằng:

- Ta vu oan nhà ngươi là kẻ biện bác để mê
hoặc người, đó là ta lỡ lời. Nay, ngươi có mưu kế gì hay cứ nói với ta, ấy cũng
như cơn mưa ngọt đến khi trời hạn, như có con thuyền đến lúc ta cần đi qua
sông. Ngươi hãy kính nhớ lấy.”

Lời bàn: Theo luật thời ấy, nếu
mắc tội không phải là đại ác và phản nghịch, thì tám hạng người sau đây được
cứu xét để được hưởng ân giảm: Thân thích, cố cựu, hiền thần, người tài cán,
công thần, bậc sang trọng, kẻ siêng năng, tân khách. Lệ ấy gọi là bát nghị. Lệ
ấy đúng sai hay dở ra sao, khoan hãy bàn, chỉ biết rằng lời của quan Đô ngự sử
Trần Xác tỏ rõ ông nắm rất vững lệ này. Đã cương trực lại có hiểu biết, lời ông
nói ra, dẫu có bị quyền uy thiên tử che khuất nhất thời, rốt cuộc, vẫn khó mà
nghiêng đổ được.

Trong chỗ nóng vội, Nhà vua
đã không giữ được phép xử thường. Lẽ ấy cũng dễ hiểu. Song, Vua nói rồi còn
biết nghĩ lại, nghĩ rồi còn dũng cảm nhận lỗi và thành khẩn xin được nghe tiếp
những lời thẳng thắn. Đáng kính lắm thay!

Đô ngự sử Trần Xác đã hiểu
phép nước, lại còn rất hiểu Vua, nên cố sức làm hết chức trách phải làm. Vua
đặt ra chức Đô ngự sử không phải để trang điểm cho triều đình mà thực là rất
cần phải có chức ấy. Ôi, vua sáng tôi hiền gặp nhau, thời thịnh trị sao mà
chẳng có được?

50 - HOÀNG TỬ TRIỆU VƯƠNG THOAN ĐÁNH
CHẾT NGƯỜI

Chuyện kể rằng, có một lần
trên đường Nam chinh, vua Lê Thánh Tông dừng lại nghĩ chân ở xã Hòa Thược,
huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong (nay thuộc Quảng Trị). Hôm ấy là một ngày trời
trong gió mát, Vua chợt trông thấy một cô thôn nữ đi gánh nước ngang qua. Thấy
cô có nhan sắc mặn mà, Nhà vua trẻ tuổi đã đem lòng thương mến, cho đón vào
hành tại để hầu cận, chia sẻ những nỗi vui buồn cho khuây khỏa. Thắng trận trở
về, Nhà vua lại cho đón cô vào hậu cung. Sách Đại Việt thông sử (trang
133) cho biết, cô thôn nữ ấy người họ Nguyễn, sau dần được sách phong đến hàng
Quý phi, sử cũ vì thế mà thường gọi bà là Nguyễn Quý Phi. Trong số những người
con do bà sinh hạ, có Triệu Vương Thoan, đó chính là Hoàng tử thứ 13 của vua Lê
Thánh Tông. Triệu vương Thoan là người khí khái và can đảm. Cũng sách Đại
Việt thông sử
(trang 151) chép rằng:

“Có người ở quê mẹ ông tới
kinh làm việc, đi đến ngoài cửa Đại Hưng, một viên tiểu hoàng môn vừa đi đến,
thấy người ấy áo quần lam lũ, lại tranh đường, bèn hỏi rằng: "Mày ở đâu?”
Người ấy đáp: "Ở Thuận Hóa.” Viên hoàng môn ấy mắng rằng: "Loại sâu
bọ này lại dám vô lễ à?” Lúc ấy Vương từ chỗ cửa cung cấm đi ra, nghe thấy thế,
chợt nổi cơn giận, lấy gậy đánh chết viên ấy. Rồi ông đi tắt vào tâu Vua rằng:
"Tôi là con của Thiên tử, mẹ tôi là người Thuận Hóa. (Phủ Triệu Phong
thuộc về Thuận Hóa - NKT). Viên tiểu hoàng môn nói phạm đến tôi, tôi không nén
được cơn giận, trót đã giết mất nó rồi. Như thế là đã mắc tội tự tiện giết
người, xin nạp tiền riêng để đền mạng nó.” Nhà vua thương hại tấm lòng của ông,
lại cho là có nghĩa khí, cuối cùng không bắt tội.”

Lời bàn: Triệu Vương Thoan tự
tiện giết người, tội ấy chẳng cần bàn cũng đã rõ. Giết xong, Triệu Vương Thoan
lại xin được lấy tiền riêng của mình để đền mạng kẻ bị giết, thế cũng có nghĩ
là Triệu Vương Thoan cho rằng, mạng người bất quá chỉ đáng mấy quan tiền riêng.
Ôi, giá Triệu Vương Thoan không phải là Hoàng tử, ắt chẳng bao giờ dám có ý
nghĩ như thế.

Viên tiểu hoàng môn phách
lối đã phải trả một cái giá quá đắt. Cứ cái kiểu phách lối ấy, nếu không bị
Triệu Vương Thoan đánh thì cũng bị người khác đánh mà thôi. Đánh chết thì chưa
dám nói chớ đánh đau là chắc chắn rồi.

Vua khen Triệu Vương Thoan
là người có nghĩa khí, điều ấy rất dễ hiểu, nhưng Vua tha tội cho Triệu Vương
Thoan, việc ấy chẳng dễ hiểu chút nào.

Mới hay, phép nước chông
chênh, ai dám cả gan bắc ghế ngồi lên đó thì chẳng thể thấu đáo mọi việc được.

51 - VÌ SAO HOẠN QUAN PHAN TÔNG TRINH
BỊ GIẾT

Tháng 11 năm Mậu Tí (1468),
hoạn quan Phan Tông Trinh bị kết án tử hình. Đầu đuôi vụ án này được sách Khâm
định Việt sử thông giám cương mục
(chính biên, quyển 21, tờ 13 và 14)
chép như sau:

“Bấy giờ, bọn hoạn quan là
Nguyễn Thư, Chu Đức Đại, Dương Minh Phong, Ngô Át và Phan (Tông)
Trinh can tội ăn hối lộ. Pháp ti khép Phan (Tông) Trinh vào tội tử hình, còn
bọn Nguyễn Thư đều được hưởng khoan hồng, cho giảm nhẹ tội. Quan Đô ngự sử là
Trần Xác và Nguyễn Văn Chất nói:

- Bọn Nguyễn Thư, Phan (Tông) Trinh đều là kẻ
gần vua mà ăn của đút, quan xét án lẽ phải cầm cân cho công bằng, phải cho tất
cả bị tử hình, nay hà cớ gì bọn Nguyễn Thư được giảm nhẹ tội, còn Phan (Tông)
Trinh thì phải lãnh án tử hình một mình? Phép nước như thế, bảo thiên hạ tin là
có sự công bằng làm sao được?

Nhà vua nói:

- Bọn Nguyễn Thư ăn của đút, tội chúng đáng
phải tử hình, ta không nỡ giết là còn mong chúng biết tự sửa lỗi, để đến một
lúc nào đó, ta có thể dùng mà sai khiến. Còn như Phan (Tông) Trinh, con nuôi
của hoạn quan là Hiền, Hiền chết, Trinh cướp vợ của Hiền. Năm trước, Trinh còn
giở trò giao hợp bỡn cợt với một cung nữ, hai tội đều nặng, khép vào tội tử
hình là phải lắm.”

Lời bàn: Tham khảo bản dịch của Nhà
Xuất bản Văn - Sử - Địa (Hà Nội, 1957 - tập 11) thì thấy các dịch
giả chú rằng: đã là hoạn giả hoặc hoạn quan, thì
sao lại có vợ? Thiển nghĩ, các dịch giả đã nhầm. Hoạn quan cũng có vợ, cũng có
cuộc sống gia đình, cũng có ghen tương đa sự lắm, chỉ khác là họ không thể có
con mà thôi. Nay xin dịch là hoạn quan cho đúng với nguyên bản.

Phan Tông Trinh là hoạn quan
mà còn phạm tội cướp vợ của cha nuôi, lại còn giở trò giao hợp bỡn cợt với cung
nữ, tội ấy, nay cho là đáng khinh, xưa cho là phá hoại luân thường, bị đem ra
trị thật nặng cũng dễ hiểu.

Kẻ hầu cận bên vua mà ăn hối
lộ, chính sự rối ren bắt đầu có mầm mống từ đây có tránh cũng khó mà tránh
được. Bọn Nguyễn Thư được tha, điều ấy cũng có nghĩa là nạn ăn hối lộ vẫn còn,
khác chăng thì cũng chỉ là ăn tinh vi hơn trước mà thôi.

52 - LÊ UY MỤC VÀ CUỘC THANH TRỪNG
LẦN THỨ NHẤT

Lê Uy Mục húy là Tấn, Hoàng
tử thứ hai của vua Lê Hiến Tông. Lê Hiến Tông có tất cả sáu hoàng tử. Tháng 12
năm Kỉ Mùi (1499), nhân có các quan là Lê Vĩnh và Lê Năng Nhượng tâu xin lập
ngôi Thái tử, vua Lê Hiến Tông đã nhận xét khái quát về đức độ của con mình.
Lời nhận xét ấy được sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính
biên, quyển 24, tờ 42) ghi lại như sau:

"Trẫm xem trong các
Hoàng tử, thì con trưởng là Tuân, thích mặc áo đàn bà, lại cả gan dám đầu độc
cả mẹ; con thứ hai là Tấn thì không có đức, sợ không đương nổi ngôi báu; chỉ có
con thứ ba là Thuần (tức sau này là vua Lê Túc Tông - ND) là rất ham đọc Thi Thư lại
dốc lòng hiếu kính, trẫm thân lo vỗ về, dạy bảo, nay cũng đã trưởng thành, vậy
lấy công minh mà quyết, trẫm lập Thuần làm ngôi Hoàng trừ (tức Thái tử hay ngôi
vua dự bị - ND).”

Tháng 5 năm 1504, vua Lê
Hiến Tông mất, triều thần lập con thứ là Thái tử Thuần lên ngôi, đó là vua Lê
Túc Tông. Tiếc thay, vua Lê Túc Tông chỉ ở ngôi được sáu tháng thì qua đời.
Hoàng tử thứ hai nhờ đó mà được lên ngôi, đó là vua Lê Uy Mục. Thân mẫu của Lê
Uy Mục có một lí lịch xuất thân khá độc đáo. Cũng sách trên (tờ 18 quyển 25)
viết rằng:

"Hoàng thái hậu người
họ Nguyễn, quán xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (Bắc Ninh - ND). Thuở bé, bà mồ
côi và nghèo đói, phải tự bán mình cho một gia đình ở phủ Phụng Thiên (Hà Nội
ngày nay - ND). Sau, vì gia đình ấy phạm tội, bà cũng bị đẩy vào làm nô tì
trong cung, nhân đó, được vào hầu Hoàng thái hậu ở cung Trường Lạc. Lúc Hiến
Tông làm Thái tử, vào chầu Hoàng thái hậu, trông thấy bà thì lấy làm ưa, mới
lấy làm thiếp.”

Việc Lê Uy Mục lên ngôi
khiến cho bà Thái hoàng thái hậu (thân mẫu của Lê Hiến Tông) không bằng lòng,
vì bà cho rằng mẹ của Uy Mục là người thấp hèn thì sinh và nuôi dạy con làm sao
tử tế được. Chuyện không dè đến tai Lê Uy Mục, cho nên, Lê Uy Mục lấy đó làm
mối thâm thù. Lại cũng sách trên (quyển 25, tờ 19) viết tiếp:

“Đến nay (tháng 3 năm Ất
Sửu, 1505 - ND), Nhà vua bèn sai người bí mật giết Thái hoàng thái hậu, rồi hạ
lệnh nghỉ thiết triều bảy ngày.”

Tháng 4 năm 1505, Lê Uy Mục
cho truy phong bà là Gia Tĩnh Mục Ôn Cung Nhu Thuận Thái hoàng thái hậu, đồng
thời, sai đựng điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên huyện Quảng Đức để thờ tổ tiên
của bà.

Chép xong đoạn sử này, các
tác giả của bộ sử cũ nói trên đã có lời phê như sau:

"Giấu giếm thế nào được
tội ác? Bọn gian xảo lừa dối đều như vậy cả. Đáng chê thay!"

Lời bàn: Lúc đầu, xét lời của
bà Thái hoàng thái hậu có chút gì đó, nửa như vu vơ mơ hồ, nửa như cũng có lí.
Song, xem hành.trạng của Lê Uy Mục sau này thì quả lời của Thái hoàng thái hậu
chẳng ngoa.

Thời mà kẻ cương trực bị đày
dọa là thời loạn. Thời mà cả đến lời thẳng thắn của Thái hoàng thái hậu cũng bị
Nhà vua oán giận và thâm thù là thời đại loạn. Không rõ là sinh thời, Uy Mục có
hay là uy đã mục rồi chăng?

Năm 1507, sứ giả nhà Minh
sang nước ta đã phải kinh ngạc mà thốt lên rằng: "Chẳng hay con tạo trớ
trêu làm gì để sinh ra tên vua quỷ sứ thế này!.” Trăm họ thời ấy bèn nhân đó mà
gọi Lê Uy Mục là vua Quỷ.

Đúng lắm thay!

53 - LÊ UY MỤC VÀ CUỘC THANH TRỪNG
LẦN THỨ HAI

Sách Khâm định Việt
sử thông giám
cương mục (chính biên, quyển 25, tờ 21) chép
rằng:

"Khi Hiến Tông đau
nặng, bà Kính Phi (người họ Nguyễn, quán xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường. Thân
mẫu của Uy Mục mất sớm, bà nhận Uy Mục làm con nuôi - ND) có ý muốn lập vua,
nhưng sợ quan đại thần không theo, bèn đem vàng bạc đút lót cho Đàm Văn Lễ (là
một trong hai cận thần của vua Lê Hiến Tông - ND) nhưng Lễ không chịu nhận. Kịp
khi Hiến Tông lâm bệnh quá nguy kịch, Văn Lễ cùng với Quang Bật nhận di chiếu
lập Thái tử lên ngôi. Lúc ấy, các vị Hoàng tử tranh nhau để được làm vua, Văn
Lễ sợ biến loạn có thể xảy ra cấp kì, bèn vào nhà tẩm điện lấy ấn truyền quốc
đem về nhà mình cất, rồi cùng các đại thần lập vua Túc Tông. Nhà vua (chỉ Lê Uy
Mục - ND) rất oán giận.

Đến đây (tháng 4 năm 1505 - ND)
Nhà vua dùng mưu kế của bọn Khương Trùng và Nguyễn Nhữ Vi, vờ truất chức Văn Lễ
và Quang Bật, cho họ đi làm chức Thừa chính sứ ở đạo Quảng Nam, rồi nhân khi cả
hai đang trên đường đi nhận chức, Nhà vua sai người đuổi theo, đến bờ sông Chân
Phúc thì kịp, bắt cả hai phải uống thuốc độc mà chết.

Bầy tôi trong triều cho
rằng, hai người ấy vô tội mà chết nên dâng lời can ngăn. Vua đổ lỗi cho Nhữ Vi,
giết luôn cả Nhữ Vi nữa.”

Lời bàn: Dã tâm của Uy Mục ra
sao, khỏi nói thêm cũng đã quá rõ. Khương Trùng là thân thích của Nhà vua, muốn
vì Vua mà ám hại Đàm Văn Lễ và Nguyễn Quang Bật, nên xảo trá mượn lời dâng kế
của Nguyễn Nhữ Vi, Nhữ Vi ngây thơ, tưởng đâu hại người thì mình sẽ được vinh
hoa phú quý, chẳng dè cũng bị giết thảm thương. Hỡi Nhữ Vi, chả lẽ bao sách vở
không đủ cho người thấy được rằng, xưa nay, kẻ tàn bạo có bao giờ chỉ tàn bạo
một lần đâu! Lê Uy Mục đâu có phải là một ngoại lệ.

Ôi chết thảm mà chẳng ai
thương là đấy chăng? Còn bà Kính Phi, bà húy là gì, sử không chép rõ nhưng điều
hậu thế rất rõ lại là mưu hối lộ nhơ bẩn của bà. Nhục thay!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3