Việt sử giai thoại (Tập 5) - Chương 39 - 45

39 – NGƯỜI Ở TRÊN PHÉP
NƯỚC

Sách Đại Việt sử kí
toàn thư
(bản kỉ, quyển 11, tờ 85 - b) chép:

"Con trai của Đại đô
đốc Lê Khuyển, tên là Lê Quán Chi, đang đêm tụ tập phá phách rồi đánh chết
người ở giữa chợ. Việc bị phát giác, Quán Chi bị tống giam vào ngục. Khi bị
giam, Quán Chi cung khai tội lỗi, bị can liên hệ đến hơn một chục người, trong
đó có con cái của Nội quan và nhiều quan chức khác, án xét sắp xong rồi nhưng
Thái hậu thấy Khuyển cũng là bậc đại thần, chỉ huy cấm binh, mà cấm binh là chỗ
dựa tin cậy của Vua, cho nên sợ rằng, nếu giết con trai của Khuyển, Khuyển sẽ
đau lòng (khó tin cậy được nữa). Bà liền làm trái phép nước, tha tội chết cho
hắn, chỉ lấy tiền bồi thường cho kẻ bị giết thôi.

Gián quan lúc ấy là Lê Lâm
im lặng không dám hé miệng nói lời nào. Trẻ con ở chợ nắm tay nhau hát rằng: Ta
tiếc không được làm Đài quan thôi!.”

Lời bàn: Chuyện này xảy ra vào
tháng 11 năm 1449. Năm này, vua Lê Nhân Tông mới được 8 tuổi, quyền hành trong nước
thuộc về bà Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Thái hậu là ngôi tôn quý, nhưng dẫu tôn
quý đến bao nhiêu thì ngôi ấy cũng nằm trong phép nước mà thôi. Ở đây, Thái hậu
đã tự đặt ngôi tôn quý của mình ở trên phép nước. Người đương thời thì sợ mà
không phục, còn hậu thế thì chẳng sợ, chẳng phục, lại còn nghiêm phê.

Khi ở trên pháp nước thì dễ
đạp lên phép nước. Việc Thái hậu tha chết cho Lê Quán Chi chẳng khác gì việc
Thái hậu thô bạo đạp chân lên phép nước tôn nghiêm vậy.

Gián quan Lê Lâm lo giữ thân
hơn lo giữ phép nước nên mới im lặng không dám hé nửa lời, để trẻ con ngoài chợ
hát chế giễu, nhục thay!

Hóa ra ở thời này, được làm làm
được
việc quan, khác nhau xa lắm. Xem kĩ mới biết, trong nhiều
kẻ được làm nào đã có mấy kẻ làm được đâu.

40 – CHUYỆN TRỊNH KHẢ

Trịnh Khả (1403 - 1451),
người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh, nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, sau
vì có công, ông được mang quốc tính nhà Lê, sử vì thế vẫn thường chép là Lê
Khả. Tổ tiên của Trịnh Khả từng có người làm quan dưới thời Trần, sang thời Hồ,
thân sinh của Trịnh Khả là Trịnh Quyện làm Chánh tổng. Sách Đại Việt
thông sử
(trang 207) chép rằng:

"Ông 16 tuổi, đi cày
ruộng chăn trâu, ngồi nghỉ ở cổng chùa trên núi. Có viên tướng nhà Minh từ
thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, bèn dẫn về nuôi làm nô, ít lâu sau, y
xem tướng bảo rằng "Đứa bé này hình rồng mắt hổ, khỏe nhất ba quân, ngày
sau tất cầm cờ mao tiết.” Chợt lại bảo ông: "Ngày sau đuổi chúng ta tất là
mày? Phải giết ngay đi, nếu không sẽ lo ngại về sau.”

Trịnh Khả trốn được, sau,
ông từng có mặt trong hội thề Lũng Nhai, và trở thành một trong những vị tướng
của Lam Sơn, từng lập được nhiều công lao lớn. Năm 1428, ông được Lê Lợi (lúc
ấy là vua Lê Thái Tổ), phong hàm Kim tử vinh lộc đại phu, Tả lân hổ vệ tướng
quân, tước Liệt hầu, có tên trong bảng khắc ghi danh sách 93 vị công thần khai
quốc.

Đầu đời Lê Nhân Tông, Trịnh
Khả được phong hàm Nhập nội suy trung tán lí dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang
trấn phủ quân, Thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ ở Tây Đạo, tước
Quận thượng hầu. Lúc này, cùng với Lê Thụ, ông là bậc tể phụ của triều đình,
nhưng khác với Lê Thụ, ông là người thẳng thắn, biết tự nhận lỗi của mình. Sinh
thời, ông rất ghét bọn tham quan ô lại và bọn xu nịnh Sách Đại Việt
thông sử
(trang 212 - 213) viết:

“Viên Chủ bạ Nam Đạo là Đàm
Thảo Lư ẩn lậu 4 quan tiền thuế, theo luật không đến nỗi xử tử, nhưng y đã từng
vu hãm Nguyễn Thiên Tích nên ông ghét lắm, bèn quyết định ghép vào tội chết.
Viên Chuyển vận phó sứ huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ, việc phát
giác (án làm xong sắp đem chém), tả hữu xin tha, ông nói: "Ăn trộm của một
nhà còn không tha được huống hồ ăn trộm của một huyện sao.” Lại giao xuống tra
xét, xử tội (chết). Các quan liêu thời bấy giờ, không ai không run sợ. Ông cứ
theo lí làm hết chức trách, trong khoảng vài năm, trong nước yên ổn.”

Lúc Lê Nhân Tông còn nhỏ,
ông rất sợ Nhà vua bị tập nhiễm thói hư, nên lúc nào cũng nghiêm cẩn trong việc
chăm sóc Vua. Cũng sách trên (trang 212) chép rằng:

“Một hôm ông thoái chầu,
thấy có đám đông tụ tập ở trước công đường, trong đó có người mang cái lưới
săn, ông vội bảo phải cất ngay đi, không được để Nhà vua trông thấy, sẽ khơi
mào ra cái tính ham chơi săn bắn của Vua sau này. Ông phòng xa ngăn trước cẩn
thận đến như thế đấy.”

Thế nhưng, bậc đại thần này
lại bị kẻ ghen ghét gièm pha, khiến Thái hậu Nguyễn Thị Anh cả tin mà nổi giận,
giết ông cùng với con trai ông là Trịnh Bá Quát vào tháng 7 năm 1451. Hai năm
sau, ông được minh oan, nhưng mọi sự lúc ấy đã quá muộn rồi.

Lời bàn: Thời chinh chiến,
Trịnh Khả là bậc dũng tướng có tài, từng lập nhiều công lao. Có sự thành công
của cuộc đại định, ấy cũng bởi có những người trung kiên bất khuất như Trịnh
Khả, cho nên, xếp ông vào bậc công thần khai quốc là phải lắm.

Lúc thái bình, Trịnh Khả
biết tự sửa lỗi, lại dốc lòng lo phò tá vua còn bé thơ, ấy cũng có thể gọi là
bậc lương thần. Tiếc thay, bậc lương đống tài năng và có chí cả ấy không chết
khi xông pha trận mạc nguy hiểm mà lại chết vì lời gièm pha của đồng liêu. Đất
bằng nổi sóng là đấy chăng?

Ôi! Cứu đại họa xâm lăng cho
nước nhà thì chỉ có những bậc anh hùng cái thế mới làm được, những tưởng anh
hùng là bất tử, dè đâu, anh hùng lại bị chết chỉ vì câu gièm pha đê tiện của kẻ
tiểu nhân thấp hèn, tung ra đúng nơi và đúng lúc. Đáng suy ngẫm lắm thay!

41 - LOẠN LÊ NGHI DÂN

Lê Nghi Dân là con trưởng
của vua Lê Thái Tông, do bà Dương Thị Bí sinh ra vào tháng 6 năm 1439. Đến
tháng 3 năm 1440, Lê Nghi Dân được lập làm Hoàng thái tử. Lúc ấy, bà Dương Thị
Bí được Nhà vua đặc biệt yêu quý nên sinh ra kiêu căng, bởi vậy, ai cũng ghét
bà. Nhà vua thấy bà xử sự như vậy cũng không ưa liền giáng bà làm Minh nghi
(hàng thấp của vợ vua). Bà không sửa lỗi lại còn oán vua ra mặt. Vua Lê Thái
Tông giận, cho rằng tính khí người mẹ như vậy thì con bà đẻ ra chưa chắc đã là
người hiền, bên giáng bà làm thứ nhân, lại còn xuống chiếu cho khắp thiên hạ
biết rằng, ngôi Thái tử vẫn chưa định. Con bà là Lê Nghi Dân bi truất làm Lạng
Sơn Vương.

Ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu
(1441), bà Tuyên Từ Hoàng hậu là Nguyễn Thị Anh sinh hạ Hoàng tử Bang Cơ. Chẳng
bao lâu sau, Bang Cơ được lập làm Thái tử. Ngày 4 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442)
vua Lê Thái Tông đột ngột qua đời. Ngày 12 tháng 8 năm đó, Lê Bang Cơ được tôn
lên ngôi vua, đó là vua Lê Nhân Tông. Ngôi vị thứ bậc của hoàng tộc đến đó kể
như đã định đoạt xong. Nhưng, Lê Nghi Dân vẫn ngầm nuôi ý khác.

Ở ngoài, Lê Nghi Dân đã tập
hợp được hơn một trăm thủ hạ thân tín, ở trong, Lê Nghi Dân lại có thêm viên
chỉ huy vệ binh là Lê Đắc Ninh cùng với bọn Phạm Đồn, Phạm Ban và Trần Lăng làm
nội ứng, cho nên, đêm ngày 3 tháng 10 năm 1459, Lê Nghi Dân quyết định khởi sự
thí vua. Đêm ấy, Lê Nghi Dân cùng bộ hạ bắc thang trèo tường và lẻn vào giết
chết Nhà vua. Hôm sau, Lê Nghi Dân lại giết bà Tuyên Từ Thái hậu và một số
người khác, rồi tự lập làm vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng.

Bây giờ, các bậc đại thần
như Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang, Lê Thụ... đều căm tức, bí mật bàn chuyện lật đổ Lê
Nghi Dân, nhưng chẳng may mưu ấy bị lộ, họ đều bị Lê Nghi Dân giết chết. Bọn
gian trá, xu nịnh được dịp tung hoành.

Ngày 6 tháng 6 năm 1460, các
bậc đại thần khác là Nguyễn Xí, Lê Lăng, Đinh Liệt, Lê Niệm, Lê Nhân Thuận, Lê
Nhân Quý... cùng nhiều tướng lĩnh và quan lại khác đã đồng lòng giết được Lê
Nghi Dân và bọn tòng phạm. Loạn Lê Nghi Dân đến đó là dứt. Triều thần đón Hoàng
tử Lê Tư Thành (con của vua Lê Thái Tông do bà Ngô Thị Ngọc Dao sinh ra) lên
ngôi. Đó là vua Lê Thánh Tông.

Lời bàn: Lời xét đoán của Lê
Thái Tông lúc sinh thời đối với bà Dương Thị Bí và con là Lê Nghi Dân, thoạt
nghe có vẻ như vừa vu vơ, vừa khe khắt. Nhưng, nếu xét kĩ hành trạng của Lê
Nghi Dân sau này thì rõ là Lê Thái Tông cũng có cái đúng của ông. Hậu thế có
quyền trách Lê Thái Tông khi ông thoái thác trách nhiệm của mình đối với con là
Lê Nghi Dân, đối với vợ là bà Dượng Thị Bí, song, hậu thế cũng chẳng thể vì thế
mà tha thứ hành vi của Lê Nghi Dân. Giết vua là mang trọng tội với nước, giết
em ruột và giết người nói chung là mang tội ác không thể dung tha, dùng bọn
gian xảo và xu nịnh là chà đạp lương tâm của bậc trung nghĩa, sống mà như vậy,
độn thổ còn chưa hết nhục, lẽ đâu lại dám cả gan ngồi lên ngai vàng?

Kẻ độc ác và tầm thường, khi
sống thì chỉ biết tuân theo sở thích riêng của mình, biết đâu, cái chết luôn
rình rập bên chúng, và khi chúng chết rồi, miệng thế muôn đời vẫn lên tiếng
nghiêm phê. Sợ thay!

42 – NGUYỄN SƯ HỒI VỚI BÀI THƠ VIẾT
THEO LỐI CHIẾT TỰ

Sách Đại Việt sử kí
toàn thư
(bản kỉ, quyển 12, tờ 9 - b và tờ 10 - a) cho biết, tháng 3
năm Nhâm Ngọ (1462), bởi căm tức một số đại thần của triều đình, Nguyễn Sư Hồi
đã làm một bài thơ viết theo lối chiết tự, đem vất ra đường, khiến cho người ta
đọc rồi truyền đến tai vua. Bài thơ ấy, nguyên văn (phiên âm) như sau:

Nhân hữu
nhị tâm vưu khả nghi,

Tự lai
chung cánh hiếu vi phi.

Thổ biên
hữu hoặc chân hung bạo,

Thủy tại
tây bàng xã tắc nguy.

Dịch nghĩa:

Câu 1: Chữ nhân, ghép
với chữ nhị và chữ tâm (nhân hữu nhị tâm) là
chữ Niệm, chỉ Lê Niệm. Vưu khả nghi nghĩa là đáng ngờ lắm. Cả câu
nói Lê Niệm là người rất đáng ngờ.

Câu 2: Giống như chữ lai
(tự lai)
tức chữ lỗi, chỉ Nguyễn Lỗi. Chung
cánh hiếu vi phi
nghĩa là rốt cuộc chỉ thích làm điều phi pháp. Cả câu
nói Nguyễn Lỗi cuối cùng chỉ thích làm điều phi pháp.

Câu 3: Bên cạnh chữ thổ
(thổ biên)
có chữ hoặc (hữu hoặc), tức là chữ vực, chỉ
Lê Thọ Vực. Chân hung bọa nghĩa là thật hung bạo. Cả
câu nói Lê Thọ Vực thật là hung bạo.

Câu 4: Chữ thủy sát
với chữ tây (thủy tại tây bàng) tức chữ Sái, chỉ
Trịnh Văn Sái. tắc nguy nghĩa là đất nước lâm
nguy. Cả câu nói Trịnh Văn Sái làm cho xã tắc nguy nan.

Triều đình, mà nhất là các
bậc đại thần có tên trong bài thơ rất lấy làm căm tức. Sư Hồi không kí tên dưới
bài thơ, nhưng chẳng rõ nhờ đâu, mọi người đều biết rằng đấy là thơ của Sư Hồi.
Vì lẽ đó, triều đình đem Nguyễn Sư Hồi ra xét xử, khép ông vào tội tử hình. Án
ấy dâng lên, vua Lê Thánh Tông phê rằng: "Sư Hồi vì có công trung hưng, đã
thế, cha hắn là Nguyên Xí lại có công lớn hồi khai quốc, cho nên tha tội chết.”

Duyệt án xong, Nhà vua vẫn
sợ bọn Lê Niệm, Nguyễn Lỗi, Lê Thọ Vực và Trịnh Văn Sái trả thù Nguyễn Sư Hồi,
bèn dụ bảo họ rằng:

"Bài thơ yêu ma đó chưa
chắc đã do Sư Hồi làm. Trong chỗ còn ngờ, dễ làm cho người hàm oan lắm. Vả
chăng, những câu kể tội Lê Niệm, Nguyễn Lỗi, Trịnh Văn Sái thì còn tạm cho là
rõ, chứ như câu nói Thọ Vực hung bạo thì mơ hồ lắm. Đó chưa phải là tội phản
nghịch thì bắt Sư Hồi phải chết làm sao được? Còn như nếu hắn quả đáng tội chết
mà chưa bị giết thì trời sẽ hại nó, sao lại manh tâm báo thù nó làm gì?”

Lời bàn: Ai cũng khẳng định bài
thơ nặc danh kia thực ra là do Sư Hồi làm, riêng vua Lê Thánh Tông thì vẫn còn
hơi ngờ vực. Giết người khi tội trạng hãy còn ngờ, dù chỉ hơi ngờ, là điều khó
dung tha được. Sự nghiêm cẩn của Lê Thánh Tông thật đáng kính. Lời dụ bảo của
Nhà vua chứng tỏ Nhà vua luôn coi trọng chứng lí, bình tâm gạt bỏ mọi thù hằn
cá nhân, các bậc đại thần không cúi đầu vâng mệnh làm sao được.

Tác giả của bài thơ chiết tự
thật đáng chê trách. Đường đường là quan lại của triều đình, lẽ đâu lại bạc
nhược đến độ không dám nói điều phải quấy của đồng liêu? Hóa ra, vì thiếu dũng
khí nên định nhờ lời đàm tiếu của thiên hạ, vì tâm địa khó lường nên chơi trò
ném đá giấu tay, chữ nghĩa đủ để làm bài thơ chiết tự phức tạp mà khôn ngoan
không đủ để phát biểu đúng suy nghĩ riêng của mình, thương hại thay!

43 - THƯỢNG THƯ NGUYỄN NHƯ ĐỔ BỊ
KHIỂN TRÁCH

Nguyễn Như Đổ người làng Đại
Lan, huyện Thanh Đàm, nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Năm Nhâm Tuất
(1442) ông đỗ Tiến sĩ Cập đệ Đệ nhị danh (tức Bảng nhãn), làm quan trải các
triều Nhân Tông và Thánh Tông. Năm 1460, ông được bổ làm Thượng thư bộ Lại.

Ngay khi vừa nhận chức
Thượng thư, Nguyễn Như Đổ đã bị vua Lê Thánh Tông khiển trách. Sự kiện này,
được sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên,
quyển 19, tờ 14) chép lại như sau:

"Nguyễn Như Đổ thấy Đỗ
Bất Một tuổi đã cao, bèn xin cho (Bất Một) được nghỉ việc quan. Nhà vua nói:

- Trước kia, nhà ngươi nhận lời cầu xin (của
Bất Một) mà bổ cho Bất Một được giữ chức Tổng tri vệ Bắc Bình, khiến cho triều
đình lúc ấy phải bàn tán xôn xao. Nay, nhà ngươi lại xin cho Bất Một về nghỉ
với hàm ấy, quả là gian dối lắm. Từ nay phải chừa đi mới được.

Nhà vua còn bảo Nguyễn Như
Đổ rằng:

- Trong triều, nếu quân tử được tiến dụng, thế
là thời thịnh đã có gốc có rễ, nếu tiểu nhân được tiến dụng thì thời loạn lạc
đã có lối để thông vào. Trẫm cùng các khanh phải nhắc nhở lẫn nhau, tiến dụng
quân tử, trừ bỏ tiểu nhân, ngày đêm không lúc nào quên được, có thế nước nhà
mới mong được thịnh trị.”

Lời bàn: Bộ Lại là bộ trông coi
việc tuyển dụng và bổ nhiệm quan lại, nói chung là những việc có liên quan đến
nhân sự của bộ máy nhà nước. Thượng thư là chức đứng đầu bộ, cả triều đình xưa
chỉ có sáu người giữ chức Thượng thư mà thôi. Xem thế cũng đủ thấy chức trách
của Nguyễn Như Đổ quan trọng biết nhường nào.

Nguyễn Như Đổ muốn cho Đỗ
Bất Một được về hưu với chức danh lớn hơn (Để rồi tiếng tăm và lợi lộc cũng lớn
hơn) nên tìm cách xin cho Đỗ Bất Một được thăng chức trước khi về hưu, thế tà
trong chỗ không tính toán, thương một người mà hại đến muôn người vậy. Nếu chức
tước có hạn mà lãm thưởng không có hạn, nguy cơ của sự rẻ rúng triều đình sẽ
đến gần, vua Lê Thánh Tông khiển trách là phải lắm.

Lời vua Lê Thánh Tông về
phép tiến dụng người quả đáng suy ngẫm. Chức lớn mà lòng dạ nhỏ nhen, kiến thức
hẹp hòi, tương lai của vận nước ra sao, khỏi bàn cũng rõ. Song le, khi đã có
quyền, có chức, thật khó mà nhận ra kẻ tiểu nhân quanh mình. Thường thì tiểu
nhân làm cho ta chết không kịp hối, âu cũng là cách chúng lấy lại mọi sự thiệt
thòi mà trước đó chúng đã bỏ ra để mua chuộc, nịnh bợ ta. Chân dung tiểu nhân
dễ thấy nhất vẫn là trong sử. Cho nên, đọc sử để tìm cách xa lánh tiểu nhân là
cần lắm vậy.

44 - THÁI ÚY LÊ LĂNG BỊ GIẾT

Lê Lăng là con của Lê Triện.
Lê Triện theo Lê Lợi xướng nghĩa ở Lam Sơn, từng lập được nhiều công lao. Năm
1427, ông hi sinh ở ngoại thành thành Đông Quan, không có may mắn được chứng
kiến ngày vui đại định.

Trong giai đoạn cuối của
khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lăng đã là một vị tướng trẻ, lập được khá nhiều chiến
công. Sau, ông làm quan trải ba đời vua là Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân
Tông. Khi Lê Nghi Dân nổi loạn thí nghịch, Lê Lăng cùng với nhiều bậc đại thần
khác, đã hợp mưu giết chết Lê Nghi Dân. Lê Nghi Dân bị giết rồi, ông có ý định
đưa Cung vương Lê Khắc Xương lên ngôi, nhưng các bậc đại thần khác mà đứng đầu
là Nguyễn Xí lại không bằng lòng. Họ cùng tôn lập Hoàng tử Lê Tư Thành lên làm
Hoàng đế. Đó là Lê Thánh Tông. Lê Lăng không phản đối, nhưng ý định ban đầu của
ông, sau chẳng hiểu sao lại truyền đến tai Lê Thánh Tông, khiến cho Lê Thánh
Tông không vừa lòng. Tuy nhiên, vị vua trẻ tuổi này tỏ ra rất khôn ngoan, chẳng
những không bộc lộ sự bất bình mà còn phong cho Lê Lăng làm Thái úy, luôn ca
ngợi công lao diệt loạn Lê Nghi Dân mà Lê Lăng đã lập được. Rất tiếc là Lê Lăng
không ý thức được vấn đề tế nhị này nên đã làm cho Nhà vua ngầm nuôi mối hận
đối với Lê Lăng. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính
biên, quyển 19, tờ 21) chép rằng:

"Cùng các đại thần giết
được đảng nghịch xong rồi, Lê Lăng bàn nên lập Cung vương Khắc Xương, nhưng Lê
Xí (tức Nguyễn Xí - ND) đã không bằng lòng, họ đón lập Nhà vua (chỉ Lê Thánh
Tông - ND). Nhà vua nghe biết việc ấy, có ý để bụng không ưa. Đến khi (Nhà vua)
lên ngôi, Lăng vì là công thần, được giúp việc chính sự. Nhưng tính Lăng thẳng
thắn, bộc trực, khiến Vua đôi khi cũng nể ngại, bèn thi thoảng lại sai Nguyễn
Lỗi đem bạc lạng đến tặng cho Lăng, lại còn dụ bảo rằng:

- Nhà ngươi phải cẩn thận trước sao sau vậy,
phải thanh khiết công bằng. Tính khí nhà ngươi cương trực quá. Ngoài có vẻ
nghiêm mà trong thì vừa nhu vừa ác. Ai ưa thì bế bồng âu yếm, ai ghét thì xô
xuống đất đen, người ngoài nghe biết, lấy làm không thỏa mãn. Nhà ngươi phải
sửa chữa mới được.

Lê Lăng được thăng dần đến
chức Thái úy. Đến đây, có người tố cáo là Lăng ngấm ngầm mưu loạn, Vua cả giận,
sai giết đi, tịch thu gia sản rồi bố cáo tội trạng khắp trong ngoài cho thiên
hạ biết. Mọi người đều nói Lăng bị giết oan.”

Lời bàn: Lời Lê Lăng bàn lập
Cung vương Khắc Xương ngay khi vừa trừ diệt được Lê Nghi Dân mà sau cũng đến
được tai Vua, hẳn bá quan lúc ấy cũng không ít kẻ chuyên nghề bới móc lỗi lầm
của đồng liêu. Để bụng nuôi thù vặt, đó không phải là phép xử sự của bậc trượng
phu, huống hồ đây là Hoàng đế, cho nên, hậu thế dẫu rất ngợi khen Thánh Tông
Hoàng đế, vẫn khó có thể bỏ qua cho chút tì vết này.

Vua mới lên ngôi mà giết
ngay kẻ khác ý, trong chuyện cụ thể này, chừng như không phải Vua muốn giữ đức
mà là Vua cẩn trọng giữ thân. Vua ban chức Thái úy cho Lê Lăng, lại còn ban bạc
lạng cho Lê Lăng, việc ấy có chút gì đó từa tựa như ban bữa cỗ cuối cùng cho kẻ
lãnh án xử tử. Sợ thay!

Còn những kẻ chuyên đi bới
móc sơ hở của bè bạn và đồng lieu, xin hãy mau dừng lại, trên trời, có gì ghê
sợ như việc giết người bằng cái lưỡi lắt léo của mình đâu!

45 – LƯỢC TRUYỆN TRẦN PHONG

Thời Lê Thái Tổ (1428 - 1433)
và thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) có hai nhân vật nổi tiếng, cùng họ cùng tên
là Trần Phong, Trần Phong thời Lê Thái Tổ nổi tiếng về sự phản bội đất nước, bị
triều đình xử tử vào tháng 8 năm 1428. Trần Phong thời Lê Thánh Tông là đại
thần, nổi tiếng vì được sử cũ nhiều lần nhắc đến lỗi lầm. Sách Đại Việt
sử kí toàn thư
(bản kỉ, quyển 12, tờ 20 - a) cho biết, tháng 9 năm Ất
Dậu (1465), Trần Phong đang giữ chức Thượng thư ở triều đình thì bị đổi ra làm
Tuyên chính sứ Tây Đạo. Trần Phong đi rồi. Vua nói với bá quan văn võ như sau:

"Trần Cẩn là em của
Trần Phong. Có lần Cẩn phạm tội, trẫm hỏi Phong về phép xử sự ngày thường trước
kia của Cẩn, Phong nhân đó bới móc mọi nết xấu của Cẩn, định hại Cẩn. Thế thì,
tình anh em nhà nó đã có nguy tan rã rồi, nhân luân bại hoại chẳng có gì tệ hại
như vậy. Lần này, nếu Trần Phong biết sửa chữa lỗi lầm, một lòng trung hiếu,
thì ta cũng kiên tâm mà đợi chờ kết quả sửa chữa của hắn.”

Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục
(chính biên, quyển 21, tờ 12) chép một đoạn
khá dài về Trần Phong như sau:

"Bấy giờ (tháng 10 năm
Mậu Tí 1468 - ND) có viên quan là Lê Bô mắc tội ăn hối lộ, lẽ phải khép vào tội
thích chữ vào trán rồi đổ chàm lên, nhưng Trần Phong xin cho Lê Bô được nộp
tiền chuộc tội. Nhà vua nghe vậy, bèn bảo bề tôi trong triều rằng:

- Trần Phong xin cho kẻ ăn hối lộ được nộp
tiền chuộc tội, vậy thì kẻ giàu có tiến đút lót là khỏi tai vạ, chỉ kẻ nghèo
không có tiền mới bị trừng trị. Trần Phong làm trái phép tắc của tổ tông, dám
thiện tiện tác oai tác phúc, làm hại đến nước nhà, vì thế, cần hạ lệnh cho Pháp
ti xét xử và trị theo luật định.

Trần Phong là người ưa ton
hót. Bấy giờ, có người bố đẻ của Hoàng hậu là Nguyễn Đức Trung, cùng với người
cậu của Vua là Nguyễn Yên, được Vua yêu, quyến thế khó ai sánh kịp. Phong liền kiếm
cách nịnh bợ hai người này. Một hôm, bởi lời đàm tiếu nhiều quá Phong phải đàn
hặc chút lỗi của Đức Trung, nhưng ngay chiều hôm đó, Phong chạy đến nhà Đức
Trung để xin lỗi.

Phong muốn làm thông gia với
Nguyễn Yên, bèn đến lạy trước nhà Nguyễn Yên suốt cả ngày, bấy giờ Nguyễn Yên
mới nhận. Nhà vua nói với Nguyễn Như Đổ rằng:

- Trần Phong bề ngoài thì làm bộ nghiêm nghị
mà bên trong thì hiểm độc, nói năng không cẩn thận. Hắn ton hót và nịnh bợ bọn
quyền quý, hút máu cho Đức Trung, mút ung nhọt cho Nguyễn Yên, dùng mánh khóe
ấy để mong được tiến thân.”

Lời bàn: Với anh em ruột thịt,
Trần Phong đã không có lượng bao dung lại còn tìm cơ hội thuận tiện để hãm hại,
ấy là bạc tình bạc nghĩa. Với kẻ ăn hối lộ, Trần Phong cố xin cho được dùng
tiền chuộc tội, ấy là bất chính và bất lương. Với kẻ có quyền thế thì nhục nhã
hạ mình để cầu cạnh và nịnh bợ, ấy là tâm địa tiểu nhân hèn hạ. Nhân cách cỡ
đó, làm người thường còn chưa dễ được, huống là rắp tâm nuôi chí làm kẻ có danh
vọng cao?

Trần Phong tầm thường một
cách toàn diện đến thế hay sao? Ôi, nếu quả đúng là như vậy thì lỗi của vua,
lỗi của triều đình cũng không nhỏ. Xưa nay, có ai dùng kẻ tầm thường làm thuộc
hạ mà mình lại có thể tránh được hết mọi sự tầm thường đâu!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3