Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển IV - Chương 071 - 072

71. Hoàng Anh

Mã Tử Tài
người phủ Thuận Thiên, gia đình mấy đời rất chuộng hoa cúc, đến đời Tài thì
càng say mê hơn, nghe ở đâu có giống cúc quý thì dù xa xôi ngàn dặm cũng tìm
tới. Một hôm có người khách từ Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới trọ trong
nhà, nói họ hàng bên ngoại mình có một vài giống cả phương Bắc không đâu có. Mã
thích quá lập tức thu xếp hành trang theo tới Kim Lăng, khách tìm đủ cách mới
tìm được cho hai cây. Mã giữ gìn như của báu, về tới giữa đường gặp một thiếu
niên cưỡi ngựa theo sau một cỗ kiệu có mui, bèn tới gần bắt chuyện. Thiếu niên
nói mình họ Đào, ăn nói rất phong nhã, nhân hỏi Mã từ đâu tới, Mã kể thật.
Thiếu niên nói: “Không có giống cúc nào không đẹp, chỉ là ở người chăm bón tưới
tắm thôi.” Nhân bàn tới thuật trồng cúc, Mã thích lắm, hỏi định đi đâu. Thiếu niên
đáp: “Chị ta chán đất Kim Lăng, muốn lên phương Bắc ở.” Mã vui mừng nói: “Nhà
ta tuy nghèo nhưng lều tranh có thể ở tạm, nếu không chê hoang vắng bỉ lậu thì
khỏi phải vất vả đi đâu cả.” Đào phóng ngựa lên trước kiệu thưa với chị, người
trong kiệu vén rèm trò chuyện, là một mỹ nhân tuyệt thế, tuổi khoảng hai mươi.
Nàng nói với em trai: “Nhà thấp nhỏ không sao nhưng vườn thì cần rộng.” Mã gật
đầu, hai chị em bèn theo Mã về.

Phía nam
nhà Mã có một khu vườn hoang, trên có ba bốn gian nhà nhỏ, Đào mừng rỡ bèn vào
đó ở. Hàng ngày qua nhà phía bắc giúp Mã trồng cúc, cúc đã chết khô thì nhổ lên
rồi giâm xuống, cây nào cũng sống. Nhưng gia cảnh Đào thanh bần, hàng ngày ăn
uống với Mã chứ xem trong nhà như không mấy khi nổi lửa. Vợ Mã là Lữ thị cũng
rất quý chị Đào, thỉnh thoảng lại giúp cho gạo thóc. Chị Đào tiểu tự là Hoàng
Anh, ăn nói khéo léo nhã nhặn, cứ qua chỗ Lữ thị cùng nhau may vá. Một hôm Đào
nói với Mã: “Nhà ông vốn không dư dật, hàng ngày ta lại vì miếng cơm làm lụy kẻ
tri giao, cứ thế mãi sao được. Nay tính kế thì bán cúc cũng đủ mưu sinh.” Mã
vốn ngay thẳng nên nghe Đào nói thế rất khinh bỉ, nói: “Ta cho rằng ông là kẻ
cao sĩ phong lưu, có thể vui với cảnh nghèo, nay bàn như thế là lấy vườn cúc
làm cái chợ, nhục cho cúc thật.” Đào cười nói: “Tay làm hàm nhai không phải
tham, trồng hoa để sống không phải tục. Người ta vốn không nên mong giàu bậy bạ
song cũng bất tất phải mong nghèo.” Mã không nói gì, Đào đứng dậy ra về, từ đó
cứ cành gãy mầm xấu bên nhà Mã bỏ đi thì nhặt hết đem về nhà mình, cũng không
qua ăn ngủ với Mã nữa, Mã có mời mới qua.

Không bao
lâu đến kỳ hoa cúc nở, Mã nghe bên cổng nhà Đào ồn ào như cái chợ, lấy làm lạ
ra xem thì thấy khách buôn tới mua hoa, vai vác xe chở đầy đường. Nhìn tới hoa
đều là giống lạ mắt chưa từng thấy, trong lòng ghét Đào tham lam, muốn tuyệt
giao nhưng hận vì còn giữ kín giống lạ bèn gõ cửa qua định trách mắng. Đào ra
dắt tay dẫn vào, thấy nửa mẫu sân bỏ hoang đều thành luống cúc, ngoài mấy gian
nhà ra không còn đất trống, những chỗ vừa cắt cúc đi thì lấy cành khác dặm vào,
hoa trên luống đều đẹp đẽ, nhìn kỹ đều là những thứ mình bỏ đi trước kia. Đào
vào nhà lấy rượu thịt ra bày cạnh luống cúc nói: “Ta nghèo không giữ được điều
răn thanh bạch, bao nhiêu ngày mới may kiếm được chút ít, cũng đủ uống say.”
Lát sau trong phòng có tiếng gọi Tam Lang, Đào dạ quay vào, giây lát đem ra các
thức nấu nướng ngon lành. Mã nhân hỏi lệnh tỷ sao không xuất giá, Đào đáp chưa
đến lúc. Mã hỏi lúc nào, Đào đáp bốn mươi ba tháng nữa. Mã lại gặng hỏi tại sao
nói thế, Đào chỉ cười không đáp, hai người uống say rồi mới chia tay.

Hôm sau
lại qua, thấy những nhánh cúc mới dặm đã cao gần thước lấy làm lạ bèn năn nỉ
hỏi Đào cách trồng. Đào nói: “Điều ấy không thể lấy lời mà truyền được, vả lại
ông không trồng cúc để mưu sinh thì biết làm gì.” Lại mấy hôm nữa, trong sân
ngoài ngõ hơi vắng người mua, Đào bèn lấy chiếu cói bọc cúc, chất lên mấy xe
chở đi. Giữa mùa xuân năm sau Đào mới chở hoa lạ ở phương Nam về, mở hàng bán
hoa trong kinh đô, mười ngày thì bán hết sạch, kế lại về trồng cúc. Hỏi tới
những người năm trước mua cúc của Đào giữ cây làm giống thì năm sau hoa đều
thay đổi kém hẳn, lại phải mua của Đào. Đào vì thế ngày càng giàu có, năm đầu
làm thêm phòng ốc, năm thứ hai xây nhà, việc xây cất cứ tùy ý không bàn với chủ
nhân, dần dần vườn trồng cúc cũ đều là nhà cửa. Lại mua riêng một khu ruộng,
xây tường chung quanh trồng toàn cúc, mùa thu chở hoa đi, cuối xuân vẫn không
về. Kế vợ Mã chết, Mã muốn cưới Hoàng Anh nên nhờ người bắn tin, Hoàng Anh mỉm
cười có vẻ ưng thuận, chỉ đợi Đào về mà thôi. Hơn năm Đào vẫn chưa về, Hoàng
Anh đốc thúc tôi tớ trồng cúc giống hệt như Đào, có tiền lại càng buôn bán lớn,
cấy cày đến hai mươi khoảnh ruộng tốt ngoài thôn, nhà cửa ngày càng bề thế.
Bỗng có khách từ Đông Việt (tỉnh Quảng Đông) tới đem thư của Đào gới về, mở xem
thì là Đào khuyên chị lấy Mã, xem lại ngày viết thư đúng là ngày vợ Mã chết. Mã
nhớ lại lúc uống rượu trong vườn, tính đến đó vừa đúng bốn mươi ba tháng, vô
cùng lạ lùng bèn đưa thư cho Hoàng Anh xem, hỏi nộp sính lễ ở đâu. Hoàng Anh từ
chối không nhận sính lễ, lại vì chỗ ở cũ chật chội, muốn Mã qua ở bên khu nam
giống như ở rể. Mã không nghe, chọn ngày đón dâu về nhà mình.

Hoàng Anh
về với Mã rồi, mở cửa trên vách thông với khu nam, hàng ngày qua đó sai bảo đầy
tớ. Mã xấu hổ vì vợ giàu, thường dặn Hoàng Anh làm sổ biên chép của cải hai khu
để đề phòng bị lẫn lộn, nhưng những thức cần dùng, Hoàng Anh đều lấy ở khu nam.
Chưa được nửa năm, vật dụng trong nhà đều là của nhà Đào, Mã lập tức sai người
đem trả hết, dặn đừng lấy qua nữa. Chưa đầy một tuần mọi thứ lại lẫn lộn, mấy
lần đem trả như thế, Mã không sao chịu nổi phiền phúc. Hoàng Anh cười nói: “Chàng
Trần Trọng Tử[1]
mệt không?” Mã xấu hổ không kê biên gì nữa, nhất nhất theo ý Hoàng Anh. Hoàng
Anh thuê thợ, mua vật liệu để dựng nhà, Mã không sao cản được, qua vài tháng
thì lầu gác san sát, hai khu nhà hợp làm một không chia ranh giới nữa.

[1] Trần Trọng Tử: Cao sĩ truyện của Hoàng
Phủ Mật chép ẩn sĩ Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến quốc là em Trần Đới đại quý
tộc ở nước Tề, “ăn lộc muôn chung”. Trần Trọng Tử cho rằng như thế là bất
nghĩa, vì vậy dắt vợ trốn tới đất Ô Lăng nước Sở, chồng đan hài, vợ dệt vải để
sống, được người ta coi là liêm. Nhân vật Hoàng Anh có ý chế nhạo.

Nhưng
theo ý Mã nên gia đình đóng cửa không bán cúc nữa, song việc chi dùng còn hơn
cả các nhà thế gia. Mã áy náy nói: “Nết trong sạch ba mươi năm của ta vì nàng
mà bị lụy. Nay sống ở đời mà mọi sự ăn ở đều nhờ vào vợ, thật không có chút
phẩm giá đàn ông. Cho nên người ta đều muốn giàu mà ta chỉ muốn nghèo thôi.”
Hoàng Anh nói: “Thiếp không phải là phường tham bỉ, nhưng nếu không dư dật chút
ít thì ngàn năm sau người ta lại nói Uyên Minh[2] nghèo thấu xương, trăm đời không ngóc đầu nổi, nên phải
xóa bỏ tiếng chê cười cho nhà Bành Trạch[3] chúng ta thôi. Nhưng kẻ
nghèo mong giàu thì khó, còn kẻ giàu muốn nghèo vốn rất dễ, bao nhiêu tiền bạc
trong nhà xin chàng cứ mặc ý phá tán, thiếp không tiếc đâu.” Mã nói: “Làm hao
tổn tiền bạc của người khác thì tệ lắm.” Hoàng Anh nói: “Chàng không muốn giàu
nhưng thiếp cũng không thể chịu nghèo. Thôi cứ ở riêng, ai trong cứ trong, ai
đục cứ đục, có hại gì đâu?” Rồi sai cất một gian nhà tranh trong vườn, chọn tỳ
nữ xinh đẹp cho tới hầu hạ Mã.

[2, 3] Uyên Minh, Bành Trạch: Nam sử chép
Đào Tiềm thời Tấn tự Uyên Minh, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch nên người
ta còn gọi là Đào Bành Trạch, tính ngay thẳng thanh cao, rất thích hoa cúc. Chị
em Hoàng Anh trong truyện này lấy họ Đào là có ý nói mình là hậu duệ của Đào
Tiềm.

Mã yên
lòng ra ở đó nhưng được vài ngày nhớ Hoàng Anh quá, sai gọi nhưng nàng không
chịu tới bất đắc dĩ phải quay về, cứ cách một đêm một lần thành lệ. Hoàng Anh
cười nói: “Ăn nhà đông ngủ nhà tây, kẻ liêm không nên như thế.” Mã cũng phì
cười không trả lời được, bèn lại ở chung như trước. Gặp lúc Mã có việc lên Kim
Lăng đúng vào mùa cúc thu, sáng đi ngang hàng bán hoa thấy bày đủ thứ chậu, hoa
đều rất đẹp, động lòng ngờ là cúc của Đào. Lát sau chủ nhân ra thì quả là Đào,
mừng rỡ hàn huyên rồi ngủ lại đó. Mã nhân rủ Đào về, Đào nói: “Kim Lăng là quê
cũ của ta, ta sắp cưới vợ ở đây. Có dành dụm được ít tiền, phiền anh đem về cho
chị ta, khoảng cuối năm ta sẽ về.” Mã không chịu cố nài nỉ Đào về, lại nói: “May
gia cảnh đã phong túc, có thể ngồi mà ăn không cần phải buôn bán gì cả.” Đào
bèn ngồi trong hàng sai đầy tớ thay mình ngã giá bán rẻ, vài ngày thì bán hết
hoa, vội thu xếp hành lý thuê thuyền về Bắc.

Vào nhà
thì chị đã dọn dẹp phòng ốc, chuẩn bị giường chiếu chăn đệm như đã biết trước
là em trai về. Đào từ khi về tới nhà thì cởi hành lý coi việc nhà, tu sửa hết
nhà cửa vườn tược, hàng ngày chỉ cùng Mã uống rượu đánh cờ, không tiếp người
khách nào. Anh chị muốn tìm vợ cho nhưng Mã không chịu, chị bèn sai hai tỳ nữ
hầu hạ giường chiếu, qua ba bốn năm sinh được một gái. Đào vốn uống rượu rất
hào, chưa ai thấy say. Mã có người bạn là Tăng sinh, tửu lượng cũng chưa ai
bằng, gặp lúc ghé chơi, Mã bảo uống thi với Đào. Hai người thả sức uống rất vui
vẻ, chỉ hận là biết nhau quá muộn. Uống từ giờ Thìn đến canh tư, tính ra mỗi
người uống hết trăm bầu. Tăng say mèm ngủ luôn tại bàn, Đào đứng lên về phòng
ngủ, ra tới luống cúc thì ngã vật xuống, ném cái áo bên cạnh hóa luôn thành cây
hoa cúc cao bằng đầu người, mang hơn chục đóa hoa đều to bằng nắm tay. Mã khiếp
đảm báo Hoàng Anh, Hoàng Anh vội tới nhổ cây cúc đặt trên mặt đất, nói: “Sao mà
say tới mức này?” Rồi đắp cái áo lên, kéo Mã cùng đi, bảo đừng nhìn.

Sáng ra
Mã tới thì thấy Đào nằm bên luống cúc, mới sực hiểu ra hai chị em là tinh cúc,
từ đó càng thêm yêu kính. Từ ngày lộ tung tích, Đào uống rượu càng buông thả,
thường viết thư mời Tăng tới uống rượu, chơi với nhau rất thân. Gặp ngày Tết
Tăng tới thăm, dắt hai người đầy tớ mang theo một vò rượu trắng ngâm thuốc, hẹn
cùng uống kỳ hết. Vò rượu gần cạn mà hai người vẫn chưa say lắm, Mã lại ngầm
rót thêm rượu vào, hai người lại uống cạn. Tăng say khướt, bọn đầy tớ cõng về.
Đào nằm lăn ra đất, lại hóa thành cây cúc. Mã thấy đã quen không sợ nữa, cứ
theo đúng cách nhổ lên đặt trên đất rồi ngồi canh bên cạnh xem diễn biến. Hồi
lâu lá cúc càng héo đi, Mã cả sợ mới báo với Hoàng Anh. Hoàng Anh hoảng hốt nói:
“Chết em ta rồi.” Rồi chạy ra xem thì cả gốc lẫn cành cúc đã khô héo. Nàng vô
cùng đau xót, ngắt lấy cành hoa giâm vào chậu mang về phòng riêng, hàng ngày
tưới bón chăm sóc. Mã vô cùng hối hận, rất oán Tăng, mấy ngày sau thì nghe tin
Tăng chết vì say rượu. Nhánh cúc trong chậu dần nảy mầm, tháng chín đã trổ hoa,
cành ngắn nụ mướt, ngửi có mùi thơm như rượu, đặt tên là “Túy đào” (đào say), tưới
bằng rượu thì rất tươi tốt. Về sau con gái Đào lớn lên lấy chồng nhà thế gia,
còn Hoàng Anh đến trọn đời cũng không có gì khác lạ.

Dị Sử thị nói: Người của mây
trắng trên núi xanh, say rượu mà chết[4], đời đều thương tiếc nhưng chưa chắc họ đã không lấy đó
làm điều khoái ý. Trồng loại hoa ấy trong sân thì như gặp mặt bạn hiền, như đối
diện người đẹp, không thể không tìm cho được vậy.

[4] Phó Kỳ người thời Đường, có bệnh không
mời thầy thuốc, tự ghi mộ chí rằng: “Kỳ là người của mây trắng núi xanh, say rượu
mà chết.” Đến năm tám mươi tuổi chết, dặn người nhà cứ để trần truồng mà chôn,
kẻ thức giả cho là người phóng đạt.

72. Mê sách[1]

[1] Thư si.

Lang Ngọc
Trụ người Bành Thành, cha làm quan Thái thú, lúc tại chức thanh liêm, được bổng
lộc không mua ruộng đất nhà cửa, chỉ chứa sách đầy nhà. Đến đời Ngọc Trụ lại
càng say mê, nhà nghèo khó phải bán hết đồ đạc nhưng một quyển sách của cha để
lại cũng không nỡ bán. Khi cha còn sống từng chép thiên Khuyến học[2] dán bên phải chỗ ngồi, Lang
hàng ngày vẫn ngâm nga, lại lấy the trắng bọc lại sợ mờ mất chữ, không phải vì
công danh mà thật lòng tin rằng trong sách cũng có vàng có thóc.

[2] Thiên Khuyến học: tức bài thơ Khuyến học của vua Chân tông nhà Tống, nguyên văn như sau: “Phú gia bất dụng mại
lương điền, Thư trung tự hữu thiên chung túc. An cư bất dụng giá cao đường, Thư
trung tự hữu hoàng kim ốc. Thú thê mạc hận vô lương môi, Thư trung hữu nữ nhan
như ngọc. Xuất môn mạc hận vô nhân tùy, Thư trung xa mã đa như thốc. Nam nhi
dục toại bình sinh chí, Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc” (Nhà giàu không
cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở yên chẳng cần xây gác
cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ chớ hờn không mối mai, Trong sách có
nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe nhiều lóc
nhóc. Nam nhi muốn thỏa chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc).

Ngày đêm
mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không bỏ bê, hơn hai mươi tuổi cũng không
lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới. Bạn bè thân thích tới chơi cũng
không buồn hỏi han chuyện trò, nói năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc
khách tự về. Lần nào học quan về sát hạch cũng được lấy đứng đầu, nhưng thi mãi
vẫn không đỗ. Một hôm Lang đang học, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, vội
đuổi theo nhặt chợt chân bị sụt xuống đất, mò xem thì dưới hố có cỏ mục, đào
lên thì là kho lúa của người xưa cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn
được nhưng càng tin mấy chữ “ngàn chung thóc” là đúng nên càng chăm đọc sách.

Hôm khác
bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đống sách vở nhặt được chuỗi tiền vàng
dài một thước, cả mừng cho rằng nghiệm với chữ “nhà vàng”. Đưa cho người ta thì
té ra là vàng mạ, không phải vàng thật, lòng thầm oán cổ nhân lừa mình. Không
bao lâu người bạn cùng khoa với cha Lang ra làm Quan sát đạo ấy, tính mộ đạo
Phật. Có người khuyên Lang cúng chuỗi tiền xây tháp Phật. Quan sát thích lắm
ban cho Lang ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Lang mừng cho là chữ “xe ngựa,
nhà vàng” đều đã nghiệm nên càng ra sức học hành nhưng đã ba mươi tuổi.

Có người
khuyên lấy vợ, Lang nói: “Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ
đẹp.” Lại học thêm hai ba năm vẫn không thấy gì, có người chế giễu. Lúc ấy
trong dân gian ngoa truyền rằng: “Chức Nữ trên trời trốn theo trai”, có người
nhân đùa Lang rằng: “Cháu trời bỏ trốn chỉ vì ông thôi.” Lang biết là đùa nên
không buồn cãi. Một đêm đọc sách Hán thư tới quyển tám[3], tới giữa quyển thấy hình
một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ép trong đó, hoảng sợ nói: “Câu “Trong sách có
nàng mặt như ngọc” là ứng vào đây chăng?” Trong lòng chợt thấy buồn rầu.

[3] Hán thư tới quyển tám: Hán thư quyển
này có chép tờ chiếu tháng 5 năm Bản Thủy thứ 4 đời Hán Tuyên đế, trong có câu “Phụ
tử chi thân, phu phụ chi đạo, thiên tính dã” (Tình cha con, đạo vợ chồng là
tính trời), có vẻ ám hợp với nội dung truyện này vì nhân vật Lang Ngọc Trụ
không chịu lấy vợ.

Nhìn kỹ
mỹ nhân thì thấy con mắt lông mày như người sống, sau lưng có chữ “Chức Nữ” mờ
mờ, vô cùng lạ lùng, hàng ngày cứ đặt lên trên sách xoay trở ngắm nghía đến nỗi
quên ăn quên ngủ. Một hôm đang chăm chú nhìn thì mỹ nhân chợt nhỏm dậy ngồi
trên sách mỉm cười, Lang khiếp đảm lạy sụp xuống trước bàn, khi ngẩng lên thấy
nàng đã cao một thước, càng sợ lại lạy phục xuống. Mỹ nhân ung dung bước xuống
đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười
nói: “Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hàng ngày được
chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn
ai tin vào cổ nhân.”

Lang mừng
rỡ để ở cùng phòng, ngủ chung với nhau rất thân thiết, nhưng lúc chăn gối thì
không làm sao cho ra đàn ông. Mỗi khi đọc sách là bảo cô gái ngồi cạnh, nàng
bảo đừng học nữa nhưng Lang không nghe. Cô gái nói: “Chàng sở dĩ không đỗ đạt
là vì đọc sách đó thôi. Thử xem những người khoa bảng có mấy người đọc sách như
chàng. Không nghe là thiếp bỏ đi đấy.” Lang nghe theo nhưng chốc lát lại quên
lời nàng, cất tiếng ngâm đọc. Giây lát ngoái tìm cô gái thì đã biến mất, hoảng
hốt quỳ xuống cầu khấn nhưng vẫn không thấy đâu. Chợt nhớ tới nơi ẩn náu cũ của
nàng, mở sách Hán thư kiểm kỹ lại, tới chỗ cũ quả tìm thấy.
Gọi mãi vẫn không động, Lang quỳ xuống năn nỉ nàng mới bước ra, nói: “Chàng còn
trái lời thiếp thì quyết sẽ vĩnh biệt.”

Rồi lấy
bàn cờ cỗ bài ra hàng ngày cùng chơi, nhưng Lang không thích thú gì, cứ vắng
nàng lại giở trộm sách ra đọc, sợ bị nàng biết nên ngầm cất quyển tám
sách Hán thư vào chỗ khác để nàng không tìm thấy. Một hôm đang
đọc say sưa thì cô gái tới, cho rằng nàng không biết, vội gấp sách lại thì nàng
đã biến mất. Lang cả sợ, lục soát khắp sách vở không thấy, tới quyển tám
sách Hán thư tới đúng trang cũ lại thấy, bèn lạy lục khấn khứa
thề không đọc sách nữa. Cô gái bèn bước ra bắt cùng đánh cờ, nói: “Nếu ba ngày
đánh không khá thiếp sẽ đi đấy.” Đến ngày thứ ba chợt một ván Lang thắng nàng
hai quân, nàng bèn vui vẻ trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một
khúc. Lang lo nhìn dây bấm phím, không rảnh mà nghĩ tới chuyện khác, lâu sau
thì đã đàn đúng tiết tấu giai điệu, bất giác mừng rỡ múa lên. Cô gái bèn hàng
ngày rủ uống rượu đánh bài, Lang vui thích quên cả việc đọc sách, nàng lại bảo
ra ngoài kết bạn, vì vậy bỗng nhiên nổi tiếng sành đời.

Cô gái nói:
“Chàng có thể thi đỗ làm quan rồi.” Một đêm Lang nói với cô gái: “Phàm người ta
nam nữ ở chung sẽ sinh con, nay ta với nàng ăn ở đã lâu mà sao không thấy gì cả?”
Cô gái cười nói: “Chàng hàng ngày đọc sách, thiếp đã nói là vô ích, nay quả
chưa hiểu nổi một chương “chồng vợ”. Hai chữ “gối chăn” cũng có công phu chứ.”
Lang kinh ngạc hỏi công phu gì, nàng cười không nói. Lát sau ngầm bày vẽ, Lang
thích lắm nói: “Ta không nghĩ rằng cái lạc thú vợ chồng lại có chỗ không nói
rộng ra được.” Từ đó gặp người ta là kể, ai cũng che miệng cười. Cô gái biết
được trách móc, Lang nói: “Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám kể ra, chứ
cái lạc thú trong đạo thiên luân thì ai cũng thế, có gì mà kiêng kỵ.” Qua tám
chín tháng cô gái quả sinh một trai, thuê vú nuôi trông nom. Một hôm nàng nói
với Lang: “Thiếp theo chàng hai năm đã sinh con, có thể chia tay rồi, ở lâu sợ
gây tai họa cho chàng, hối hận không kịp.” Lang nghe nói khóc ròng, lạy phục
xuống không đứng lên, nói: “Nàng không nghĩ tới đứa nhỏ oa oa sao?” Cô gái cũng
buồn rầu, hồi lâu mới nói: “Nếu muốn thiếp ở lại thì phải phá tán hết sách vở
đi.” Lang nói: “Đó là quê cũ của nàng, là tính mệnh của ta, sao nàng lại nói
thế.” Cô gái không ép, nói: “Thiếp cũng biết là có số mệnh, nhưng không thể
không báo trước.”

Trước đây
trong họ Lang có người nhìn thấy cô gái ai cũng giật mình, lại chưa thấy mai
mối với nhà nào nên cùng cật vấn. Lang không biết nói dối nên cứ im lặng không
đáp, mọi người càng ngờ vực, lời đồn đại dần tới quan huyện họ Sử. Sử người đất
Mân (tỉnh Phúc Kiến), xuất thân Tiến sĩ, nghe chuyện động lòng muốn được thấy
mặt người đẹp một lần bèn sai bắt Lang và cô gái. Cô gái nghe tin bỏ trốn biệt
tích, quan huyện tức giận bắt Lang lột hết quần áo, cùm kẹp tàn nhẫn, mong cô
gái sẽ tự tới. Lang gần chết vẫn không nói một lời, quan tra tấn đứa tỳ nữ, nó
nói ra vài chuyện loáng thoáng. Quan cho là yêu quái bèn đích thân tới nhà Lang
khám xét, thấy sách vở chất đầy nhà nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt, khói
kết lại trước sân không tan, mờ mịt như mây mù.

Sau Lang
được tha, xin được thư người học trò cũ của cha nên lấy lại được áo mũ nho
sinh, năm ấy thì đỗ Cử nhân, năm sau đỗ Tiến sĩ. Nhưng trong lòng chứa chất căm
hận, lập bài vị thờ Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn rằng: “Nàng có khôn thiêng
xin phù hộ cho ta được làm quan đất Mân.” Sau quả được cử đi Tuần sát đất Mân,
ở lại ba tháng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên gia sản. Lúc ấy Sử có người
anh em họ ngoại làm quan Tư lý đòi cưới ái thiếp, Sử nói thác là mua tỳ nữ gởi
lại trong dinh. Khi vụ án kết thúc, Lang lập tức trở về, đưa cả người ấy theo.

Dị Sử thị nói: Vật trong thiên
hạ, chứa cất thì bị oán ghét, ưa thích thì sinh ma quỷ, cô gái là yêu quái ma
quỷ trong sách vở vậy. Việc giống như quái đản nhưng muốn trị cũng không phải
không được, việc đốt sách chẳng cũng tàn ngược sao? Còn kẻ kia có lòng riêng tư
ắt phải bị người căm hờn báo thù, than ôi, có gì lạ đâu!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3