Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển III - Chương 053 - 054
53. Tăng Hữu Vu
Ông họ
Tăng là người đất Côn Dương (huyện Diệp tỉnh Hà Nam) là con nhà thế gia cũ. Lúc
ông chết còn chưa chôn, hai mắt ứa lệ giàn giụa, nhưng có sáu người con mà
không ai hiểu vì sao. Người con thứ tên Đễ, tự Hữu Vu là danh sĩ trong huyện
cho là điều không lành, nói với anh em đều nên cẩn thận giữ gìn đừng để người
quá cố đau lòng, nhưng một nửa số anh em khinh bỉ chế nhạo là ngu xuẩn vu vơ.
Trước kia ông Tăng lấy vợ sinh được người con trưởng là Thành, được bảy tám
tuổi thì hai mẹ con bị giặc cướp bắt đi. Lấy vợ kế sinh được ba con trai là
Hiếu, Trung, Tín, người thiếp sinh được ba con trai là Đễ, Nhân, Nghĩa. Hiếu vì
bọn Đễ là con dòng thứ nên khinh bỉ không coi là ngang hàng, kéo bè kéo cánh
với Trung và Tín. Như đang uống rượu với khách mà bọn Đễ đi ngang thềm thì tỏ
ra ngạo mạn vô lễ, Nhân và Nghĩa đều tức giận, bàn với Hữu Vu định trả đũa. Hữu
Vu tìm đủ cách can ngăn khuyên giải chứ không nghe theo, mà Nhân và Nghĩa vì
còn quá nhỏ nên nghe anh nói thế cũng thôi.
Hiếu có
con gái gả cho họ Chu người cùng huyện bị bệnh chết, bèn dắt các em đến đánh
đập người mẹ chồng. Chu báo lên huyện, quan huyện tức giận bắt giam bọn Hiếu
định trị tội thật nặng. Hữu Vu sợ hãi lên ra mắt quan huyện nài nỉ. Quan huyện
vốn ngưỡng mộ phẩm hạnh Hữu Vu, nhờ vậy bọn anh em không phải chịu khổ nhiều.
Hữu Vu lại tự mang roi tới nhà Chu xin nhận lỗi, Chu cũng kính trọng Hữu Vu nên
thôi không kiện nữa. Bọn Hiếu được trở về nhưng rốt vẫn không hề biết ơn Vu.
Không bao lâu, mẹ Hữu Vu là Trương phu nhân chết, bọn Hiếu đều không để tang mà
vẫn yến ẩm như cũ, Nhân và Nghĩa càng căm tức. Hữu Vu nói: “Đó là họ vô lễ chứ
chúng ta đâu có mất gì?” Đến khi chôn cất thì bọn Hiếu ra giữ cửa mộ không cho
hợp táng với ông Tăng, Hữu Vu bèn chôn mẹ ở đường vào mộ cha.
Không bao
lâu vợ Hiếu chết, Hữu Vu gọi Nhân và Nghĩa tới giúp việc tang, hai người đều nói:
“Họ không để tang vợ lẽ của cha, thì làm gì có chuyện chúng ta để tang chị dâu?”
Khuyên mấy lần vẫn thản nhiên bỏ đi. Hữu Vu bèn tới, khóc lóc rất đau thương.
Nghe Nhân và Nghĩa ở nhà bên đàn hát uống rượu, Hiếu tức giận họp các em qua
đánh. Hữu Vu vác gậy xông vào trước, Nhân biết được bỏ chạy, Nghĩa đang trèo
qua tường thì Hữu Vu đuổi tới đánh ngã xuống đất. Bọn Hiếu xúm lại đánh túi bụi
không ngừng tay. Hữu Vu lấy thân mình che chở cho Nghĩa, Hiếu tức giận chửi Hữu
Vu. Hữu Vu nói: “Đánh nó vì tội vô lễ chứ tội ấy không đáng chết, em không tha
thằng em vô lễ nhưng cũng không thể thấy anh nóng giận mà không can, xin được
chịu tội thay nó.” Hiếu bèn quay gậy đánh Hữu Vu, Trung và Tín cũng giúp Hiếu
đánh anh, gầm thét ầm ĩ, người làng xúm lại khuyên giải mới thôi. Hữu Vu bèn
vác gậy tới nhà anh xin chịu tội, Hiếu đuổi đi không cho để tang. Nhưng Nghĩa
bị đánh trọng thương không ăn uống gì được, Nhân bèn lên quan kiện thay, tố cáo
bọn Hiếu không để tang thứ mẫu. Quan bèn ra lệnh bắt bọn Hiếu, sai Hữu Vu khai
báo. Hữu Vu vì mặt mũi bị thương không tới công đường được, chỉ làm tờ bẩm năn
nỉ bỏ qua chuyện này. Quan huyện bèn không xét tới nữa, Nghĩa cũng dần dần bình
phục, từ đó càng thù hận bọn Hiếu.
Nhân và
Nghĩa đều còn nhỏ yếu ớt, cứ mỗi khi bị đánh đập thì nói với Hữu Vu: “Người ta
đều có anh em, chỉ có chúng ta là không.” Hữu Vu nói: “Ta mà nói câu ấy ra thì
hai em sẽ đi đâu mà sống?” Nhân đó hết sức khuyên giải, nhưng rốt lại hai người
vẫn không nghe. Hữu Vu bèn đóng cửa nhà, dắt vợ con tới ngụ ở làng khác cách đó
hơn năm mươi dặm, không ai biết tin tức. Hữu Vu lúc còn ở nhà tuy không bênh
vực gì hai em nhưng bọn Hiếu cũng hơi kiêng dè, lúc đi rồi thì bọn Hiếu không
sợ hãi gì nữa, cứ tới nhà Nhân và Nghĩa chửi mắng, xúc phạm cả tới mẹ ruột họ.
Nhân và Nghĩa tự lượng không đủ sức đánh lại, chỉ đóng chặt cửa nghĩ cách tìm
lúc bọn Hiếu sơ hở mà đâm chết, đi đâu cũng giắt dao trong người.
Một hôm
chợt người anh lớn bị cướp bắt đi là Thành dắt mẹ trở về, các anh em vì chia
gia tài đã lâu, họp lại bàn bạc ba ngày mà không biết đối xử với Thành thế nào,
bèn tới báo với Hữu Vu, Hữu Vu mừng rỡ về ngay, đưa ruộng vườn nhà cửa cho
Thành ở. Bọn Hiếu tức giận, cho rằng Hữu Vu làm ơn để lấy lòng Thành, tới tận
nhà sỉ vả làm nhục. Nhưng Thành ở lâu ngày với bọn cướp cũng quen thói dữ tợn,
nghe thế cả giận nói: “Ta về tới đây đã không người nào đưa cho một gian nhà để
ở, may có chú ba nghĩ tình anh em thì các người lại bắt lỗi này nọ, muốn đuổi
ta đi phải không?” Rồi vác đá ném Hiếu, Hiếu ngã lăn ra, Nhân và Nghĩa đều vác
gậy xông ra bắt Trung và Tín đánh túi bụi. Thành không chờ bọn Hiếu thưa kiện
mà đi kiện trước, quan huyện lại sai người tới hỏi ý Hữu Vu. Hữu Vu bất đắc dĩ
phải lên gặp quan, cúi đầu không nói gì chỉ chảy nước mắt, quan hỏi mãi mới
thưa chỉ xin cứ theo phép công mà xét.
Quan bèn
truyền bọn Hiếu phải đưa lại ruộng vườn nhà cửa cho Thành, sai chia làm bảy
phần cho đều, từ đó Nhân và Nghĩa càng thêm kính trọng yêu mến Thành. Nhân cùng
trò chuyện kể lại việc chôn mẹ, hai người rơi nước mắt, Thành căm giận nói: “Bất
nhân như thế thì thật là cầm thú.” Bèn định bốc mộ mẹ ba anh em Hữu Vu lên để
cải táng, Nhân và Nghĩa tới báo, Hữu Vu vội về can ngăn nhưng Thành không nghe,
chọn ngày lập đàn chay cạnh mộ, cầm đao phạt đứt một cái cây nói với các em rằng:
“Đứa nào không chịu mặc áo tang đi theo, thì sẽ như cái cây này đấy.” Mọi người
đều líu ríu vâng dạ, cả nhà đều ra khóc than, chôn cất đủ lễ, từ đó anh em yên
ổn với nhau. Nhưng Thành tính nóng nảy cứng rắn, thường đánh đập các em, nhất
là bọn Hiếu, duy chỉ trọng có Hữu Vu, đang lúc giận sôi lên mà Hữu Vu tới nói
một câu là nguôi ngay. Những việc Hiếu làm Thành đều không ưa, vì vậy ngày nào
Hiếu cũng tới nhà Hữu Vu chửi lén Thành, nhưng Hữu Vu khéo léo can ngăn, không
nghe lời Hiếu. Hữu Vu thấy phiền nhiễu không chịu nổi bèn dời tới ngụ ở đất Tam
Bạc, thuê nhà để ở, càng xa quê hơn trước, từ đó tin tức đi lại thưa dần. Được
hai năm, các em đều sợ Thành, lâu ngày quen dần không còn tranh giành cãi cọ
với nhau nữa.
Nhưng
Hiếu bốn mươi sáu tuổi, sinh được năm con trai, trưởng là Kế Nghiệp, thứ ba là
Kế Đức là con vợ lớn, con thứ là Kế Công, thứ tư là Kế Tích là con vợ thứ, lại
có Kế Tổ là con người thiếp, lúc ấy đều đã trưởng thành, cũng học thói cha ngày
xưa kéo bè kéo cánh hàng ngày tranh giành cãi cọ nhau, Hiếu không sao ngăn cấm
được. Duy có Tổ là không có anh em ruột nào, lại nhỏ tuổi nhất, các anh đều có
người để chửi mắng. Nhà cha vợ Tổ vốn ở gần Tam Bạc, gặp hôm Tổ tới thăm bèn
lén vòng qua thăm chú, vào tới nhà chú thấy hai anh một em đang đọc sách râm
ran, thích lắm bèn ở lại lâu ngày không nói tới việc về. Chú giục về, Tổ nài nỉ
xin cho ở lại, chú nói: “Cha mẹ cháu đều không biết chuyện này, chứ chú đâu
tiếc gì miếng cơm hớp nước với cháu?” Tổ bèn về, mấy tháng sau vợ chồng đi mừng
thọ mẹ vợ bèn nói với cha: “Con đi lần này không về nữa đâu.” Cha hỏi han, Tổ
bèn ngỏ ý riêng, cha sợ Hữu Vu nhớ oán hờn cũ khó nỗi ở lâu. Tổ nói: “Cha lo xa
quá, chứ chú hai là bậc thánh hiền đấy.” Rồi dắt vợ lên đường tới Tam Bạc. Hữu
Vu chia nhà cho ở, coi như con ruột, sai học với con lớn là Kế Thiện. Tổ học
rất giỏi, từ đó ngụ luôn ở Tam Bạc.
Anh em
trong nhà Tổ ngày càng bất hòa, một hôm Nghiệp vì cãi cọ chuyện nhỏ chửi mắng
thứ mẫu, Công tức giận đâm chết Nghiệp. Quan bắt Công trừng phạt nặng nề, được
vài hôm Công chết trong ngục. Vợ Nghiệp là Phùng thị hàng ngày cứ chửi mắng
thay việc khóc chồng, vợ Công là Lưu thị nghe thấy tức giận nói: “Chồng ngươi
chết còn chồng ta thì sống à?” Rồi xách dao vào chém chết Phùng thị, kế nhảy
xuống giếng tự tử. Cha Phùng thị là Đại Lập xót con gái chết thảm bèn dắt con
cháu trong nhà giấu binh khí dưới áo tới bắt vợ Hiếu về, lột truồng đánh đập
làm nhục. Thành tức giận nói: “Nhà ta đang chết như rạ mà họ Phùng sao dám làm
thế?” rồi gầm thét xông ra, anh em con cháu họ Tăng cũng đổ ra. Bọn nhà họ
Phùng chạy tán loạn, Thành túm được Đại Lập, cắt luôn hai vành tai. Con Phùng
tới cứu bị Kế Tích cầm gậy sắt đánh gãy hai chân, bọn nhà họ Phùng đều bị
thương, kêu gào chạy tứ tán. Chỉ có con Phùng còn nằm bên đường, mọi người
không biết tính sao, Thành bèn xốc nách đưa tới bỏ gần thôn Phùng rồi về, gọi
Kế Tích bảo lên quan tự thú.
Lúc ấy
đơn kiện của họ Phùng cũng vừa gởi tới, anh em con cháu nhà họ Tăng đều bị bắt.
Chỉ có Trung chạy thoát, tới Tam Bạc chần chừ mãi ngoài cổng vì sợ anh nhớ thù
xưa. Gặp lúc Hữu Vu dắt con lớn và cháu đi thi về, nhìn thấy ngạc nhiên nói: “Sao
em lại tới đây?” Trung quỳ mọp ven đường, Hữu Vu càng hoảng sợ nắm tay dắt vào
nhà, hỏi biết sự tình kinh sợ nói: “Làm thế nào bây giờ, cả nhà đều phạm tội.
Ta đã biết có họa này từ lâu, nếu không thì đâu trốn lánh thế này. Anh xa nhà
đã lâu, không có giao thiệp gì với quan huyện, nay cho dù có khúm núm tới đó
cũng chỉ chuốc lấy cái nhục mà thôi. Có điều cha con họ Phùng tuy bị thương
nặng nhưng không chết, nếu ba người chúng ta có ai may mắn thi đỗ thì tai họa
này có thể gỡ ra một chút.” Rồi giữ Trung lại, ngày ăn cùng mâm, đêm nằm cùng
chiếu, Trung rất cảm động. Ở đó hơn mười ngày lại thấy chú cháu Hữu Vu thân
thiết như cha con, anh em đều như một mẹ, buồn rầu sa nước mắt nói: “Nay em mới
biết ngày trước mình làm quấy.” Hữu Vu thấy Trung tỉnh ngộ hối hận cũng vui
mừng, đối xử rất chu đáo. Chợt có tin báo cha con Hữu Vu đều thi đỗ Cử nhân, Tổ
cũng đỗ Tú tài, cả mừng không dự ăn yến mừng các vị tân khoa, trở về cúng mộ
cha mẹ trước.
Cuối thời
Minh khoa bảng rất được coi trọng, bọn nhà họ Phùng vì thế đều nín hơi. Hữu Vu
lại nhờ bạn bè đưa vàng lụa tới cho họ lo thuốc men, việc kiện tụng bèn dứt. Cả
nhà họ Tăng đều khóc, xin Hữu Vu quay về làng ở. Hữu Vu bèn cùng anh em đốt
hương lập lời thề, ai nấy đều theo đó sửa mình rồi dời nhà về. Tổ theo chú
không muốn về nhà, Hiếu bèn nói với Hữu Vu rằng: “Ta thiếu đức, lẽ ra không được
có đứa con làm rạng rỡ dòng họ như thế, em lại khéo dạy bảo, xin cứ cho theo ý
nó gởi lại nhờ em, sau này có khá hơn thì cho nó về.” Hữu Vu theo lời, ba năm
sau quả nhiên Tổ thi đỗ Cử nhân, Hữu Vu bảo dời về ở với cha mẹ, vợ chồng đều
khóc ròng ra đi. Được vài tháng, Tổ có đứa con mới ba tuổi cứ trốn tới nhà Hữu
Vu không chịu về, đuổi bắt đưa về thì chạy trốn. Hiếu bèn dời nhà tới ở cạnh
Hữu Vu, Tổ thì mở cửa bên vách thông qua nhà chú, qua lại thăm hỏi hai nhà như
nhau. Từ đó Thành cũng dần già yếu, việc trong dòng họ giao cho Hữu Vu quyết,
vì vậy môn hộ đều yêu thương nhau, nổi tiếng là hiếu hữu.
Dị Sử thị nói: Trên đời chỉ có
cầm thú là biết có mẹ mà không biết có cha, sao những nhà đọc sách cũng theo
vết ấy? Phàm việc xử sự trong gia đình cũng dần dần thành nếp cho con cháu, ăn
sâu vào xương tủy, nên người xưa nói: “Cha giết người trả thù thì con ắt làm ăn
cướp”, thói xấu lưu truyền nghĩ cũng đúng thôi. Hiếu tuy bất nhân, đã bị báo
ứng thê thảm nhưng rốt lại có thể tự biết mình thiếu đức, gởi con cho em, nên
mới có đứa con nóng lòng lo sợ tai họa như thế, nếu nói là chuyện quả báo thì
sai lắm.
54. Công tử ở Gia Bình[1]
[1] Gia Bình công tử.
Công tử
Mỗ ở đất Gia Bình phong tư tuấn tú, năm mười bảy mười tám tuổi lên quận thi
khoa Đồng tử, tình cờ đi ngang kỹ viện nhà họ Hứa. Ngoài cổng có một cô gái
đẹp, công tử nhìn chằm chằm, nàng mỉm cười gật đầu, công tử vui vẻ tới gần trò
chuyện. Cô gái hỏi chỗ trọ ở đâu, công tử nói rõ, nàng lại hỏi có ai ở cùng
không, công tử đáp không. Nàng liền nói: “Tối nay thiếp sẽ tới thăm, đừng để ai
biết.” Công tử gật đầu rồi về, bảo gia nhân đi hết qua nơi khác. Tối quả cô gái
tới, tự nói tiểu tự là Ôn Cơ, lại nói: “Thiếp hâm mộ công tử phong lưu nên trốn
bà chủ tới đây, phận hèn rất muốn được hầu hạ công tử trọn đời.” Công tử cũng
mừng rỡ, hẹn sẽ đem món tiền lớn chuộc nàng ra khỏi kỹ viện, từ đó cứ hai ba
hôm nàng lại tới một lần.
Một đêm
nàng đội mưa tới, vào cửa rồi cởi chiếc áo ngoài bị ướt mắc lên giá, lại cởi
chiếc hài nhỏ ở chân xin công tử gột giùm bùn đất cho. Công tử nhìn chiếc hài
thấy là loại gấm mới năm màu, dính bùn bê bết cả, lấy làm tiếc. Cô gái nói: “Không
phải thiếp dám lấy việc hèn hạ bắt công tử phục dịch, chỉ là muốn công tử biết
mối tình si của thiếp thôi.” Nghe ngoài song tiếng mưa vẫn rả rích không ngớt,
bèn ngâm “Thê phong lãnh vũ mãn giang thành” (Gió buồn mưa lạnh ngập giang
thành), rồi xin công tử nối vần. Công tử từ chối nói không làm được, nàng nói: “Công
tử là một người như thế, mà không biết chuyện phong nhã, làm thiếp mất cả hứng.”
Nhân khuyên công tử cố gắng học tập, công tử vâng dạ.
Sau nàng
thường lui tới nên đám gia nhân đều biết, công tử có người anh rể họ Tống cũng
là con nhà thế gia nghe biết chuyện, lén xin công tử cho gặp Ôn Cơ một lần.
Công tử nói lại nhưng nàng nhất định không chịu. Tống bèn tới rình trong phòng
gia nhân, chờ nàng tới núp ngoài cửa sổ nhìn trộm, thấy say mê đến phát điên
bèn xô cửa sấn vào, cô gái đứng dậy leo qua tường đi mất. Tống càng hâm mộ, bèn
sắm sửa lễ vật tới gặp bà chủ nêu đích danh Ôn Cơ xin gặp, thì đúng là ở đó có
Ôn Cơ song đã chết lâu rồi. Tống kinh ngạc về nói với công tử, công tử mới biết
nàng là ma nhưng trong lòng vẫn yêu mến. Đêm nàng tới, công tử kể lại lời Tống,
cô gái nói: “Đúng thế, nhưng chàng muốn có vợ xinh đẹp, thiếp cũng muốn có
chồng tuấn tú, ai cũng thỏa nguyện thì bàn làm gì chuyện người hay ma,” công tử
cho là đúng.
Thi xong
trở về, cô gái cũng về theo, người khác không ai nhìn thấy nàng mà chỉ công tử
nhìn thấy. Về tới nhà, công tử để nàng ở trong phòng khách rồi cũng ngủ một
mình ở đó, cha mẹ đều ngờ vực. Khi cô gái về thăm nhà công tử mới nói riêng với
mẹ. Cha mẹ cả sợ, bắt công tử tuyệt tình với nàng, công tử không nghe, hai ông
bà lo lắng, tìm đủ cách trừ ếm mà không được. Một hôm, công tử có tờ thiếp răn
bảo gia nhân đặt ở bàn, trong đó nhiều chữ viết sai như “tiêu” viết thành “thúc”,
“khương”, viết thành “giang”, “khả hận” viết thành “khả lãng”. Cô gái đọc thấy,
viết thêm vào phía dưới rằng: “Hà sự khả lãng, Hoa thúc sinh giang, Hữu tế như
thử, Bất như vi xướng” (Việc gì “đáng sóng”, “Hoa thúc sinh giang”, Có chồng
như thế, Làm đĩ còn hơn)[2],
rồi giã từ công tử, nói: “Thiếp lúc đầu cho rằng công tử là văn nhân nhà thế
gia nên mặt dày tự theo về, không ngờ chỉ có cái mẽ ngoài, chỉ biết xét người
theo dung mạo thế này liệu tránh khỏi thiên hạ chê cười không?” nói xong biến
mất. Công tử tuy xấu hổ căm hờn nhưng cũng không hiểu nàng viết gì, cứ đem tờ
thiếp ra răn bảo gia nhân, người nghe được kể cho nhau nghe để cười.
[2] “Khả lãng” tức “khả hận” (đáng giận), “hoa
thúc” tức “hoa tiêu” (tiêu xanh), “sinh giang” tức “sinh khương” (gừng sống),
vì công tử dốt nên viết sai, thành ra tối nghĩa, Ôn Cơ nhại lại để mỉa.
Dị Sử thị nói: Ôn Cơ là một cô
gái khá, mà đường đường một vị công tử thế kia sao lại bề trong chỉ có bấy
nhiêu thôi? Đến như hối hận “làm đĩ còn hơn” thì thê thiếp của công tử phải
thẹn thùng sa nước mắt vậy. Nghĩ lại hàng trăm cách đuổi vẫn không đi, nhưng
thấy tấm thiếp liền biến mất, thì câu “hoa thúc sinh giang” có khác gì việc đọc
câu thơ “Đầu lâu Tử Chương” của Tử Mỹ[3] đâu!
[3] Tháng 4 năm Thượng Nguyên thứ 2 (76)
Thứ sử Tử Châu Đoàn Tử Chương làm phản đánh úp Tiết độ sứ Đông Xuyên Lý Trị ở
Cẩm Châu, tự xưng là Lương vương, đặt niên hiệu là Hoàng Long, đổi Cẩm Châu làm
phủ Hoàng Long, đặt bách quan. Tháng 5 Thành Đô doãn Thôi Quang Viễn đem tướng là
Hoa Kính Định đánh Cẩm Châu, chém được Tử Chương. Đỗ Phủ nhân viết bài Hoa liễu
ca, trong có câu “Tử Chương xúc lâu huyết mô hồ” (Đầu lâu Tử Chương máu bê
bết). Cổ kim thi thoại chép về sau có người bị sốt rét, Đỗ Phủ bảo: “Đọc thơ
của ta thì khỏi,” nhân dạy người ấy đọc câu thơ nói trên, quả nhiên người ấy
khỏi bệnh. Đây ý nói thơ văn hay dở có ảnh hưởng tới người khác.