Hitler và trận đánh Normandie - Chương 05 - Phần 2
Hải đoàn mặt trận Miền Tây gồm vài chiếc diệt lôi hạm, khoảng từ 10 tới 15 ngư lôi đỉnh, vài tiểu đỉnh tuần thám có tốc độ nhanh, một số tàu vét mìn, tuần dương hạm, tàu chở dầu và tàu Hải quân công xưởng. Trong trường hợp xảy ra cuộc đánh chiếm Âu châu, 40 tiềm thủy đỉnh đang túc trực tại bờ biển Đại tây dương phải tham dự ngay vào cuộc chiến. Nhưng chỉ có 6 đơn vị đã rời bến, và trước ưu thế quá lớn lao của Hải quân và không quân địch nên những đơn vị này không thu đạt được kết quả nào.
Hiệu suất của tàu ngầm không đủ bù đắp cho sự thiệt hại mà loại “vũ khí” này đã phải gánh chịu.
Đã từ lâu, không có màng lưới trinh sát nào của Hải quân và Không quân ngoài biển khơi.
Căn cứ vào những biến cố, chúng ta có thể hiểu ngay rằng tại sao buổi chiều ngày 14 tháng 6 năm 1944, 38 tàu trên mặt biển – trong số đó có 4 ngư lôi đỉnh – đã bị đánh chìm tại bến đậu và trong vùng trú ẩn của tàu ngầm tại hải cảng Le Havre trong trận không tập của địch. Hầu hết những ngư lôi đỉnh và tuần dương hạm đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Cuộc tấn công của các phi đội địch đã được thực hiện ở một cao độ rất thấp và không có gì chống lại được công tác phá hoại của họ.
Ngày 29 tháng 6, nếu căn cứ vào những tài liệu của Đô đốc Doenitz tại Obersalzberg, người ta thấy Hải đoàn của Đức tại mặt trận Miền Tây còn được một ngư lôi đỉnh, 12 tuần dương hạm, 8 tiềm thủy đỉnh trong đó có chiếc Schnorchel, một chiếc tàu mới mẻ làm nhiệm vụ an ninh, lo phá những luồng radar dò xét của địch. Mặt khác, một số đông ban chỉ huy Hải quân, không còn tương xứng với quân số cũng như với những sứ mạng thật sự của các lực lượng hải chiến đã chỉ có thể, trước sự bị phá hủy gần như toàn bộ của hệ thống truyền tin, làm tăng thêm sự hỗn loạn. Thí dụ của tình trạng là vấn đề đặt hướng bắn cho pháo đội phòng duyên. Hải quân đã đòi hỏi nắm quyền điều hướng trận chiến bằng đại pháo bao lâu kẻ địch còn ở trên mặt nước. Đến lúc cuộc đổ bộ xảy ra thì chính Lục quân lại phải đảm đương tất cả công việc điều hướng pháo binh. Ngay từ trong giai đoạn chuẩn bị, những cách bố trí này cũng đã đưa tới sự bất đồng ý kiến về nguyên tắc kỹ thuật giữa pháo binh của Hải quân và đại pháo của Lục quân (sự chọn lựa vị trí gióng súng, các đài quan sát, tiếp tế đạn dược).
Binh đoàn B đã nhiều lần muốn thay đổi những cách bố trí này, nhưng ý kiến của Thống chế Rommel luôn luôn bị Hitler gạt bỏ. Còn đối với tầm tác xạ hữu hiệu của pháo đội trên chiến hạm của địch nhắm vào nội địa thì bộ chỉ huy Hải đoàn mặt trận M đã trích toán theo tưởng tượng. Họ đã tưởng rằng tầm tác xạ ấy chỉ có thể vào sâu chừng 15 cây số ở những nơi bờ biển bằng phẳng ; thực ra nó đã đạt tới mức từ 35 đến 40 cây số. Những ai đã từng chiến đấu ở vùng bờ biển Caen chắc hẳn am tường chuyện đó.
Không quân
Vấn đề tham chiến và khả năng hoạt động của Không quân tại mặt trận Miền Tây cũng như trên không phận của chính nước Đức đã thực sự trở nên nóng bỏng. Nhưng không làm sao nhận được của Bộ Tư lệnh tối cao Không quân những chỉ dẫn cụ thể về sứ mạng, về quân số và khả năng của họ, Thống chế Hermann Goering tránh mọi sự tuyên bố và chỉ đưa ra những câu trả lời mơ hồ. Trong những tháng dầu sôi lửa bỏng, ông không lúc nào dám đưa ra cảm tưởng của cá nhân ông và ông chỉ cố gắng hành sử quyền tư lệnh từ lâu đài Karinhall của ông hoặc từ Đông Phổ. Người ta không làm sao có được những lời giải thích khách quan, vả lại dường như chính Goering cũng không nắm vững được tình trạng thật sự của binh chủng Không quân của ông.
Phi đội thứ III – tư lệnh: thống chế Sperrle (với tham mưu trưởng là trung tướng Koller và kế đó là tướng Plocher) - nằm dưới quyền điều khiển trực tiếp của Thống chế Goering. Tổng tư lệnh Lục quân Đức chỉ có quyền nhưng rất hạn chế trong phạm vi đường hướng. Thống chế Sperrle, tư lệnh phi đội thứ III, là một con người tràn đầy sinh lực nhưng khi ông hiểu rõ được sự tổ chức không tốt đẹp ấy, thì sự hiếu động nơi ông lại biến thành cáu giận và mỉa mai. Ông luôn luôn cố gắng hợp tác trong tinh thần thân thiện với mọi cơ cấu bạn cũng như ông đã đồng ý kiến với các quan niệm chính trị của Rommel. Ông bị Hitler cất chức ngày 18 tháng 8 và đã đóng vai trò “con vật hy sinh” thế cho Goering.
Nếu theo những tài liệu thu lượm được của Phi đội thứ III trong phạm vi trách nhiệm thì từ hồi đầu tháng 6, trên toàn khắp trận tuyến Miền Tây, không lực Đức chỉ còn có 90 oanh tạc cơ và 70 khu trục cơ sẵn sàng ứng chiến trong số khoảng chừng 500 máy bay. Vì không lực địch quá trội nên những oanh tạc cơ và khu trục cơ này không làm nên trò trống gì. Ngày 1 tháng 4 năm 1944, Hitler đã hứa chắc với Tham mưu trưởng Binh đoàn B là sẽ cấp cho ngay trong đợt đầu, 1000 khu trục cơ phản lực: người ta chẳng bao giờ được nhìn thấy những khu trực cơ ấy.
Về phía địch, ngày 6 tháng 6, họ tung ra 25.000 phi vụ để yểm trợ cho cuộc đổ bộ.
Không lực của Anh và của Mỹ, kể từ mùa Xuân 1944, đã làm bá chủ vòm trời và làm tê liệt tất cả mọi hoạt động của không quân Đức. Những máy bay của chúng tôi không thể đảm trách được công cuộc dò thám đầy đủ tin tức, cung cấp những không ảnh về lãnh thổ Anh, và trước hết là những tin tức về các lực lượng trú đóng tại các hải cảng địch, hoặc đang di chuyển trên Đại tây dương – tuy rất gần phòng tuyến. Chúng tôi không bố trí nổi những lực lượng không quân khả dĩ đẩy lui được những cuộc tấn công liên tiếp của máy bay thực hiện một hệ thống ánh sáng phòng không, dù là tạm thời, bằng phương thức tập trung ánh sáng của căn cứ. Những oanh tạc chiến đấu cơ địch kiểu tối tân nhất với đoàn phi công tài ba, đã lần lần ngăn cấm mọi sự vận chuyển ban ngày của chúng tôi và gây ra cho chúng tôi những sự thiệt hại nặng nề. Những đoàn máy bay oanh tạc phá hủy những yếu điểm của hệ thống thiết lộ và đường bộ, những công trình mỹ (kỹ?) thuật thuộc đủ mọi loại, đến mức đã làm cho vấn đề tiếp tế trở nên thực sự tuyệt vọng trong trường hợp xảy ra cuộc đánh chiếm. Những vụ phá hoại đường xe lửa phía Tây phòng tuyến Bruxelles – Paris – Orléans đã làm cho việc tiếp tế thường xuyên bằng xe lửa không thể thực hiện được nữa kể từ trung tuần tháng 5. Việc xử dụng xa lộ trong vấn đề tiếp tế cũng bị bế tắc vì thiếu xe vận tải và nhiên liệu. Sự thiếu tiếp viện đã là nguyên nhân chính cho sự thất bại xảy ra từ mặt trận Phi châu năm 1912, trong cuộc hành quân ở Miền Đông cùng năm ấy và sau đó là trong cuộc chiến tranh di động tại Miền Tây. Tất cả những cây cầu trên sông Seine ở về phía dưới thành phố Ba Lê và những cây cầu bắc qua sông Loire ở về phía dưới thành phố Orléans đều bị những cuộc không tập phá hủy trước ngày 6 tháng 5 năm 1944. Cầu nổi không được thiết lập, bất chấp những ý kiến nhắc đi nhắc lại về chuyện đó; vật liệu để dựng những cây cầu tạm thời không có đủ số lượng cần thiết.
Không quân chiến lược địch liên tiếp thực hiện những cuộc tấn công trên lãnh thổ Đức và trên những vùng đất do Đức chiếm đóng.
Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận rằng một số phi công Đức vẫn hoạt động trên không, bất chấp ưu thế khủng khiếp của địch và thường là không còn hy vọng đáp xuống khi sân bay bị bom của Đồng Minh triệt hạ.
Thống chế Rommel không ngừng báo cáo bằng lời và bằng văn thư về Hitler ngay cả trước khi xảy ra cuộc đánh chiếm, để nhấn mạnh tới tư cách quan trọng của cuộc chiến đấu phối hợp ba binh chủng, và để làm nổi bật lên, như một yếu tố căn bản, sự yếu kém của không quân Đức. Ông dựa trên sự so sánh rút ra từ những kinh nghiệm của những cuộc hành quân và tiếp tế tại Phi Châu. Ông diễn đạt ý kiến với Hitler như sau: “Tới năm thứ năm của cuộc chiến. Bộ tư lệnh tối cao dĩ nhiên phải hiểu được rằng không quân phối hợp với lục quân sẽ tạo được một ảnh hưởng có tính cách quyết định, không chỉ ở trong những trận đánh mà trong cuộc chiến toàn diện.” Tất cả những lời thỉnh cầu, những lời báo động của ông không tạo nổi một tiếng vang nào. Hitler đã đưa ra những lời hứa hẹn về các loại vũ khí mới và về sự tham chiến của hàng ngàn khu trục cơ phản lực, để Rommel khỏi phải đề nghị hoặc trình bày gì nữa.
Thống chế Rommel không yên tâm về viễn tượng dựa vào loại “vũ khí thần sầu quỹ khốc.”[7]. Đã nhiều lần ông yêu cầu Tổng trưởng Speer cho biết của những phát minh ấy và sự tiến bộ của chúng cũng như về cái lúc nó bắt đầu hoạt động được.
[7] Đọc: "Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler" - Bản dịch Người Sông Kiên và Lê thị Duyên – Sông Kiên xuất bản.
Ông được trả lời là còn có một khoảng cách rộng giữa sự sưu tầm của khoa học và kỹ thuật, chế tạo loại bom nguyên tử. Thực ra, giáo sư tiến sĩ Otto Hahn đã sáng tạo ra được những phương pháp khoa học, nhưng về phần thực hiện người ta còn thiếu tiềm lực mạnh mẽ mà Hoa Kỳ sẵn có. Trong khi Đức đang thực hiện những cuộc thí nghiệm đầu tiên vào mùa Xuân năm 1943, thì cơ sở chế tạo và tồn trữ “nước nặng” (eaulourde: một loại nước kỹ nghệ) ở Thụy Điển lại bị các toán biệt kích cảm tử Anh và Thụy Điển phá huỷ; khi cơ sở này hoạt động trở lại được, vào tháng mười 1943 thì nó lại bị một cuộc dội bom san bằng. Giáo sư tiến sĩ Werner de Heisenber Goellilngen tuyên bố: “Người ta luôn luôn hỏi chúng ta, ngay cả ở bên Anh và bên Mỹ, là tại sao trong lúc ấy, Đức không toan tính chế tạo bom nguyên tử. Câu trả lời giản dị nhất đối với vấn đề đó là: Vì công việc ấy không còn có thể thành công được nữa trong khi chiến tranh đang diễn ra.”
Qua lời tuyên bố này, chúng ta cũng có thể chú ý đến sự thiếu ưu thế về không quân. Cứ suy xét theo kinh nghiệm của cuộc ném quả bom nguyên tử đầu tiên vào tháng 8 năm 1945 do không quân Hoa Kỳ thực hiện thì thấy rằng cần phải có lực lượng thật hùng hậu trên không trung mới có thể đưa được quả bom đến đúng mục tiêu của nó.
Nhiều lần Rommel cũng đã phê bình bằng lời và bằng văn thư tổ chức nhân sự của không quân Đức. Thí dụ như ở mặt trận Miền Tây không quân đã duy trì một hệ thống tình báo và điều nghiên quá lớn, đòi hỏi tới 50.000 nhân viên. Các cơ quan yểm trợ của không quân ở Miền Tây đã sử dụng một quân số hơn 300.000 người. Thông thường trong binh chủng không quân, quân số yểm trợ đông gấp 10 lần quân số phi hành, nhưng ở đây nó lại đông gấp trăm lần. Những con số này chỉ có thể cắt nghĩa được bởi nhu cầu muốn tạo một nhóm tay chân bộ hạ đông đảo của Goering, cũng như của Himmler: đó là một sự suy đồi đặc thù của tất cả các đại lãnh tụ cách mạng!
Không quân còn đặt dưới quyền sử dụng của mình Lữ đoàn III phòng không - một điều trái ngược với mọi lý lẽ và với những sự yêu cầu của Binh đoàn; Lữ đoàn III phòng không này nhận lệnh trực tiếp từ Ba Lê (Phi đội III) hoặc từ Đông Phổ (Goering). Khi cuộc đánh chiếm của quân Đồng minh khởi diễn, Lữ đoàn phòng không này không thể di chuyển lẹ làng vì nó bị phân phối rất luộm thuộm. Sự sử dụng hỏa lực tập trung đáng kể của nó lẽ ra đã có thể có được một tầm quan trọng chủ yếu trong những ngày đầu của cuộc đổ bộ; nhưng vũ khí đặc sắc này chẳng bao giờ thực hiện được sự thống nhất mục tiêu hỏa lực và phòng không nhằm vào những điểm sinh tử của chiến trường. Tướng Tư lệnh Lữ đoàn III cao xạ phòng không đã bị Goering triệu về Đông phổ trong khi trận đánh Normandie đang tiếp diễn và đã vắng mặt trong suốt nhiều ngày mà Binh đoàn không được thông báo gì cả.
Người ta thấy diễn ra trên không trung cảnh tượng giống đã xảy ra như ở i Châu và ở Ý nhưng còn trầm trọng hơn. Đối phương làm bá chủ bầu trời bên trên phòng tuyến của những vùng Đức chiếm đóng và lãnh thổ Đức; các phi công đã biến dạng trên nền trời.
Những lỗi lầm phạm phải trong việc thiết kế, tổ chức và chỉ huy hầu như đã làm mục rữa không quân trước khi có trận đánh quyết định. Tất cả những sáng kiến dự liệu cho một cuộc chiến tranh trên không với tính chất chiến lược đã bị thất bại. Trận không chiến trên không phận Anh sau cuộc di tản lớn lao khối Dunkerque của đoàn quân viễn chinh năm 1940, sự hủy bỏ Đại Hạm đội chống Anh quốc, trận đánh trên Đại Tây dương, việc phòng thủ lãnh thổ Đức chống những cuộc không tập của Anh, Mỹ, sự thất bại trong vấn đề tiếp tế cho Stalingrad, Tscherkassy, Crimée và Phi châu bằng đường hàng không đã cấu thành những chương buồn thảm cho câu chuyện lịch sử này. Những phi công dũng cảm của chúng tôi là những nạn nhân của bộ chỉ huy của họ.
Trái lại, không quân Anh- Mỹ ở mặt trận miền Tây và trên đất Đức đã sớm hoàn thành mục tiêu chỉ định.
BỨC TRƯỜNG THÀNH ĐẠI TÂY DƯƠNG
Bức trường thành Đại tây dương là một đồn lũy chạy dài theo bờ biển mà sức mạnh của nó hay biến đổi. Ở những vị trí mà bộ Tư lệnh tối cao Lục quân Đức ước đoán có cuộc đổ bộ, và trên những cứ điểm sinh tử dọc theo bờ biển Manche, trước hết là mũi Gris-nez ở cửa sông Seine, chỗ pháo đài phía Bắc mỏm Cotentin, trên những hòn đảo “anglo - normandes”, ở quân cảng Brest và Lorient, đồn lũy kiên cố hơn. Trái lại, lúc Thống chế Rommel nắm quyền tổng chỉ huy thì người ta hầu như bỏ ngỏ bờ biển Calvados nhất là chỗ bãi phẳng phía trước thị trấn Bayeux.
Năm 1941, Hitler đã hạ lệnh đặt tuyến phòng thủ chính dọc theo bở biển. Vì bờ biển quá dài, người ta khó thể dự trù việc thiết lập một hệ thống của những vị trí tăng cường. Bờ biển Manche, và nhóm đảo "anglo - normandes”, phía trước Saint-Malo, những đảo Jersey, Guernesey và Sercq nằm trong một kế hoạch thực hiện trong 8 năm thành những đồn lũy “vô cùng kiên cố”. Đó là ý định của Hitler. Vì vậy mới phát sinh ra những đội “trọng pháo tấn công” đặt tại mũi Gris-nez với những đội như Lindemann (3 giàn đại pháo 406 ly), đội Grand Electeur (4 giàn đại pháo 280 ly), đội Todt (4 giàn đại pháo 380 ly) và đội Friedrich- August (3 giàn đại pháo 303 ly). Tất cả những đội trọng pháo này phải được sử dụng để yểm trợ cho việc tổ chức chiến tuyến Manche.
Mùa xuân năm 1914, trên nhóm đảo nhỏ “anglo – normandes”, người ta đã đặt 8 giàn trọng pháo với những khẩu đại pháo 3 ly, trong khi đó thì suốt một phòng tuyến đài trên 1.000 cây số từ Dieppe đến Saint- Nazaire cũng chỉ có một số lượng tương đương với 37 khẩu đại pháo. Một sư đoàn bộ binh có thêm một trung đoàn thiết giáp và một trung đoàn cao xạ tăng cường được chỉ định võ trang cho những giàn trọng pháo ấy. Người ta không hề xây dựng phi trường, dù rằng những hòn đ “anglo – normandes” đáng lẽ ra chỉ có thể có một tầm mức quan trọng nếu nó là những phi trường quân sự. Rommel là một người phản đối kịch liệt việc dùng những hòn đảo làm thành lũy và ông ta yêu cầu rút bỏ những đồn quân vô ích ấy.
Toàn diện hệ thống thành lũy thiếu hẳn một ý thức điều khiển và thiếu vật liệu. Nó cũng chịu chung số phận về những khó khăn hành chánh - kết quả tất nhiên của sự lộn xộn về chỉ huy.
Vào năm 1944 các bờ biển chỉ có những đồn lũy dựng lên như những điểm tựa với những đài radar, những căn cứ chỉ huy, những giàn trọng pháo. Nhưng những công sự bảo vệ lại cũng chỉ là công sự thuộc loại chiến dịch, rất ít chỗ được xây bê tông vì thiếu vật liệu. Những điểm tựa lẻ loi đôi khi cách nhau bằng nhiều cây số. Hải quân đã quyết định rằng khoảng bờ biển giữa hai cửa sông Orne và Vire không cần đề phòng một cuộc đổ bộ vì nhờ địa hình địa vật của nó (có nhiều đá ngầm). Hơn một sư đoàn đã “bao sân” khu vực rộng chừng 50 cây số.
Sau cuộc thị sát khắp phòng tuyến lần đầu tiên vào mùa đông năm 1943 – 1944, Thống chế Rommel tỏ vẻ thất vọng về sức mạnh của “Bức trường thành Đại tây dương”, ông tìm cách tranh thủ thời gian nhờ vào sự làm việc của chính các đơn vị trú phòng, nhất là dọc theo bờ biển Normandie. Ông nghiên cứu lại những phương thức khả dĩ làm cho cuộc đổ bộ của địch gặp khó khăn thêm.
Tất cả những biện pháp liên quan tới việc phòng thủ bờ biển nghĩa là những sơ đồ và việc xây đắp đồn lũy, là do tay một kỹ sư, mà viên kỹ sư này lại không hiểu gì về chiến thuật chiến lược, không có được cái nhìn bao quát về tình hình chung của cuộc chiến cũng như chưa có một chút kinh nghiệm nào khả dĩ cho phép ông cộng tác với quân đội.
Từ 1941 đến 1943, người ta chưa thể hoàn tất được một kế hoạch phối trí về việc xây dựng thành lũy, mang chất liệu của cuộc phòng thủ bờ biển và nhằm mục đích thiết lập những giàn trọng pháo nói riêng, vì có sự chống đối về nguyên tắc làm chia rẽ Lục quân, Hải quân và tổ chức Todt. Rommel đề ra một sự cải tổ sâu rộng trong việc nghiên cứu những vấn đề này. Không những ông chỉ mang vào đó một sự hăng say lớn lao của cá nhân ông, mà còn đưa ra được những kiến thức phi thường về kỹ thuật, làm hoảng hồn những tay chuyên nghiệp. Những chỉ thị của ông có kèm theo họa đồ do chính tay ông vẽ, những chỉ thị này chứa đựng những phát minh và những dẫn ý căn bản.
Muốn làm cho cuộc đổ bộ của địch thêm khó khăn, ông đã cho đặt những chướng ngại vật ở mé bờ biển xếp thành những lớp san hô nhân tạo. Những con đường đổ bộ chỗ nước quá sâu sẽ được gài thủy lôi. Người ta chuẩn bị vô hiệu hóa các hải cảng.
Lằn mức của thủy triều dâng lên bãi biển trở thành đường phòng thủ chính và suốt khoảng chiều dài của bờ biển được biến cải thành từng loạt điểm tựa có gài thủy lôi. Nhưng hỏa lực của pháo binh – cách 18 hay 20 cây số mới có một pháo đội – không thể được tăng cường đúng mức, hết, vì thiếu bộ phận máy ngắm.
Trong lãnh vực này, Thống chế tìm ra những cách thức thích nghi và chấp nhận đề nghị của sư đoàn 21 thiết giáp chủ trương chế ra những bộ phận phóng đạn hàng loạt, bắn ra khơi một cách chính xác (giống như kiểu súng nhiều nòng của Nga: “Orgues à la Staline”). Nhưng vấn đề này được giải quyết quá trễ.
Để ngăn ngừa nguy hiểm trên những cuộc ném bom tập trung, người ta phân tán những công sự trú ẩn của binh lính và làm cho những công sự này thêm vững chắc. Chống lại những cuộc đổ quân bằng máy bay, người ta tổ chức một phòng tuyến trên đất liền nhằm khóa chặt vòng đai chiến lũy ngoài bờ biển, sâu vào phía trong từ 3 tới 5 cây số tùy theo địa hình từng chỗ. Cách bố phòng này nhằm ngăn chận sự liên lạc của địch giữa hai cánh quân từ biển vào và từ máy bay đổ xuống.
Chống quân nhảy dù và các máy bay lượn (Planeurs). Thống chế cho dựng những chướng ngại vật bằng những thân cây đốn xuống, ràng buộc với nhau bằng những dây kẽm, và thường là có gài mìn. Nhưng vì những công việc này đòi hỏi quá nhiều thời giờ và vật liệu nên nó chỉ hạn chế trong những khu vực thường bị máy bay chú trọng tấn công.
Rommel đã có ý tưởng rất rõ ràng về những cuộc hành quân không vận kể cả những khi thời tiết tỏ ra ít thích hợp với phi cơ; ông chỉ dẫn cho binh lính hiểu rõ như vậy. Ông đòi hỏi Hải quân phải đặt thủy lôi ngoài biển, nhưng thoạt đầu chỉ đặt được ở vùng biển Gironde thay vì ở vịnh sông Seine.
Việc gài thủy lôi, nói đúng ra đã được thực hiện dưới hình thức “rào cản sấm chớp”; những rào cản này sẽ được giăng ra lập tức trước một cuộc tấn công. Khi cuộc đánh chiếm mở màn thì tại bờ biển Normandie chưa có hàng rào thủy lôi. Riêng việc dùng thủy lôi tấn công do phi cơ thả xuống thì đã bị bộ tư lệnh tối cao quân lực gạt ra ngoài kế hoạch phòng thủ.
Những công việc thực hiện quan trọng đến nỗi phải nhờ vào sự hợp tác của dân chúng. Thống chế Rommel đề ra nguyên tắc là không một người dân Pháp nào tại địa phương bị cưỡng chế làm lao công, nhưng họ sẽ được trả tiền đàng hoàng khi họ tự nguyện làm việc. Những dân phu người Pháp phải được đối xử mọi mặt như người Đức. Riêng đối với việc bố trí những chướng ngại vật, phải nhận rằng dân chúng rất hăng hái tham gia vì ở những nơi nào có chướng ngại vật cuộc đổ bộ bằng máy bay sẽ khó xảy ra, kể cả những trận đánh trên bộ.
Có thể có ngập lụt tùy theo tính chất đất đai từng nơi. Người ta chỉ có thể chuẩn bị việc dự trữ nước ngọt trên phòng tuyến gần hải cảng le Havre, trong vùng lưu vực sông Dive và tại bờ biển phía đông của bán đảo Colentin, và việc chuẩn bị này đã được thực hiện. Trong mọi tình trạng về nguyên nhân, phải chú ý tới những thiệt hại gây ra bởi nước biển: vấn đề này theo kinh nghiệm của đệ nhất thế chiến, đòi hỏi trên mười năm làm việc.