Hitler và trận đánh Normandie - Chương 05 - Phần 1

5

VẤN ĐỀ ĐIỀU BINH KHIỂN TƯỚNG VÀ LỰC
LƯỢNG ĐỨC TẠI MT TRẬN MIỀN TÂY

HUẤN LỆNH CỦA HITLER

HUẤN LỆNH
CỦA HITLER ĐỐI VỚI MẶT TRẬN Miền Tây gồm những điều như sau:

Một trận
đánh quyết định tại vùng Tường thành Đại tây dương, nghĩa là trận đánh có tính
cách phòng ngự dọc theo bờ biển, nơi được hình dung như một chiến tuyến chính
và phải cố thủ với bất cứ giá nào. Mưu toan đánh chiếm của địch phải được bẻ gẫy
trước và trong khi cuộc đổ bộ diễn ra; những lực lượng đã đổ bộ được sẽ bị tiêu
diệt tại chỗ bằng một cuộc phản công thích ứng.

Tự do
chiến lược bị ngăn cấm tại mặt trận Miền Tây. Huấn lệnh buộc phải giữ từng tấc
đất. Cấm không được bàn tới những chiến lược trong đó phỏng đoán về những mưu
toan mà địch có thể sẽ áp dụng sau cuộc đổ bộ thành công tại vùng nội địa Pháp.

Hitler
gạt bỏ mọi sáng kiến của trí óc. Những kinh nghiệm tại các chiến trường khác đã
chứng tỏ rằng người ta chỉ chối bỏ sự tự do chiến lược vì ở trong thế bại.

Tổng tư
lệnh lực lượng Anh, sau cuộc thất bại trên lục địa Âu Châu, và sau vụ tháo chạy
khỏi Dunkerque tháng 6 năm 1940, cũng đã tự mình nghiên cứu những kế hoạch rộng
lớn nhằm đẩy lui những cuộc đổ bộ của Đức lên đất Anh. Những kế hoạch này phát
sinh từ những huấn lệnh chiến lược của Winston Churchill.

SỰ PHỐI
HỢP CHỈ HUY

Sự phối
hợp chỉ huy tại mặt trận miền Tây không đáp ứng đúng những định luật về chiến
lược mà cũng chẳng thỏa mãn những đòi hỏi của hoàn cảnh và của lý trí. Hitler
tưởng có thể áp dụng đối với chiến tranh cái nguyên tắc cách mạng mà ông vẫn
thường áp dụng đối với vấn đề phân cách quyền hành. Ông tự cho rằng đã vận dụng
được sự tranh chấp giữa các lực lượng khác biệt để phục vụ cho quyền lợi của
mình. Điều này không những chỉ kéo theo một tình trạng rối ren trong vấn đề chỉ
huy mà nó còn đưa dẫn tới sự hỗn độn. Dưới quyền của Tư lệnh mặt trận Miền Tây
(Thống chế Von Runstedt) có Binh đoàn B (Thống chế Rommel) trách nhiệm vùng
Pays-Bas - cửa sông Loire, và binh đoàn G (Đại tướng Blaskowitz) trách nhiệm
vùng cửa sông Loire – biên thùy Tây Ban Nha – Địa Trung Hải – dãy núi Alpes.

Tư lệnh
Hải đoàn mặt trận Miền Tây (đô đốc Krancke) nhận lệnh trực tiếp của Tư lệnh Hải
quân. Đệ tam không đoàn (Thống chế Sperrle) nhận lệnh của Thống chế Goering, tư
lệnh Không quân. Những cuộc hành quân trên biển và trên không vì vậy không thể
được điều khiển hoặc ra lệnh bởi Tư lệnh Binh đoàn B. Những vị tư lệnh này chỉ
được thông báo hạn chế về các hoạt động của hai binh chủng kia và thường là rất
trễ. Họ có thể đưa ra đề nghị mà không biết chắc chắn có được chấp thuận hay
không,

Ngoài
ra, Thống chế Rommel đã nhận huấn lệnh riêng của Fuhrer săn sóc việc tổ chức
phòng thủ chiến tuyến Miền Tây, từ Đan Mạch tới vịnh Gascogne, đến dãy núi
Pyrenees, qua vùng Địa Trung Hải tới chân dãy núi Alpes; thêm vào đó ông phải
lo thống nhất tất cả những biện pháp phòng thủ. Nhưng ông lại không có quyền tư
lệnh. Người ta chỉ cho phép ông báo cáo trực tiếp với Hitler hay với Bộ tư lệnh
tối cao của Quân lực. Ông vẫn phải thi hành lệnh của Tư lệnh mặt trận Miền Tây.

Những vị
chỉ huy quân sự tại Pháp (tướng bộ binh Karl Heinrich von Stulpnagel), tại Bỉ
và miền Bắc nước Pháp (tướng bộ binh Alexander von Falkenhausen) tại vùng
Pays-Bas (tướng không quân Christiansen), về phương diện quân sự, được đặt dưới
quyền của Tư lệnh mặt trận Miền Tây, nhưng về phương diện quản trị và áp dụng
chiến lược trong vùng, họ trực thuộc Tổng tư lệnh Quân Lực. Quyền cai trị trong
vùng chiếm đóng, kể từ mùa Xuân 1942, được hành sự bởi những sĩ quan mật vụ cao
cấp (S.S), những sĩ quan cảnh sát và an ninh: họ nhận lệnh từ Himmler những mệnh
lệnh mà các cấp chỉ huy quân sự không hề h biết. Bởi vậy, Tư lệnh mặt trận Miền
Tây luôn luôn bị đặt trước những sự việc đã rồi, trong tất cả những vấn đề lưu
đày và bắn giết - ấy là chỉ kể tới lãnh vực quan trọng này.

Ngoài
ra, tư lệnh tối cao của SS và cảnh sát còn kiểm soát quân đội bằng những nhân
viên an ninh.

Tình
hình chính trị tại Pháp không được tốt đẹp lắm sau những chuyện bất hòa xảy ra
giữa các giới chức của Đảng và những cấp chỉ huy của SS. Tòa đại sứ Đức tại
Pháp do Abetz điều khiển, do đó đã thành nơi chống chọi nhau vì tình trạng hòa
bình chưa có giữa Pháp và Đức. Tình trạng luật lệ của chế độ chiếm đóng được
duy trì, bất chấp những vi phạm đầy dẫy. Abetz nhận chỉ thị của Tổng trưởng Ngoại
Giao Ribbentrop và hợp tác với chính phủ Vichy. Nhưng ông ta khước từ mỗi khi
Hitler và Himmler nhận xét ông là người đắc lực. Thống chế Pétain già nua cảm
thấy bị lừa gạt bởi những giới chức chính trị và đã nhiều lần nói rõ điều này với
bọn lính Đức.

Tổ chức
Todt cũng vậy, cũng làm việc tùy theo cái mà người ta gọi là “những mệnh lệnh của
Fuhrer”, theo chỉ thị của Tổng trưởng Quân trang và Quân giới, và còn theo những
chỉ thị khác của Tư lệnh lục quân Đức. Cũng ở điểm này, Tư lệnh mặt trận miền
Tây chỉ có thể góp ý kiến chứ không có quyền ra lệnh. Một bằng chứng hiển nhiên
của sự hỗn tạp này xuất hiện trong sự khác biệt về cách trang bị các đồn lũy ở
miền duyên hải và những hòn đảo trong biển Manche.

Chính
Binh đoàn B với vùng trách nhiệm phòng thủ khoảng chừng 2.00 cây số cũng không
được quyết định gì trong việc xây đắp các công sự phòng thủ. Binh đoàn cũng vẫn
phải đắm mình vào mê lộ bất tận của các cơ quan Hành chánh. Tất cả những sự
trình bày của Binh đoàn này vẫn ở trong tình trạng không có kết quả. Tổ chức
Todt thuộc loại siêu tổ chức và siêu trang bị. Họ xây đắp đồn lũy thường là tùy
hứng, không chú trọng tới những đòi hỏi khẩn thiết về quân sự. Tổng trưởng
trang bị Speer đã cố gắng, nhưng quá trễ, kiểu chính tất cả các điều ấy.

Trong
cuộc tháo lui từ đất Pháp, thường xảy ra tình trạng những cấp chỉ huy cao cấp
SS và những bộ chỉ huy không quân không đếm xỉa gì đến hoàn cảnh quân sự, bỏ
giáo cuốn cờ, rút vội đơn vị của mình đi, lấy cớ là cần thiết lập vị trí trong
khu vực chống đỡ tiếp giáp nước Đức. Bấy giờ, người ta chứng kiến thấy một cuộc
trốn chạy thực sự mà Bộ tư lệnh Binh đoàn đã tìm cách tránh không cho xảy ra
trong khu vực trách nhiệm của mình với tất cả mọi sự hy sinh. Sự vô trật tự thảm
hại này thường hay làm cản trở việc thi hành những huấn lệnh giờ chót của Bộ tư
lệnh tối cao mặt trận miền Tây.

Thống
chế Rommel, bằng vào các kinh nghiệm mà ông đã thu thập được trong vùng Địa
Trung Hải, qua những thí dụ do Đồng minh cung cấp trong thời đệ I và đệ II thế
chiến: Vị Tổng tư lệnh Hoa Kỳ, tướng Eisenhower, để tổ chức cuộc đổ bộ, đã nhận
được quyền chỉ huy thật sự tất cả các lực lượng hải lục, không quân Anh – Mỹ. Bằng
văn thư và bằng lời nói, Rommel yêu cầu được đặt dưới quyền ông, trong khu vực
do ông chỉ huy, ba binh chủng Hải lục Không quân và tổ chức Todt, nhằm thực hiện
sứ mạng một cuộc tử thủ.

Đề nghị
này, dù được nhắc đi nhắc lại đôi ba lần, vẫn bị từ chối phũ phàng. Hitler chủ
trương lối chỉ huy bập bềnh ấy: ông ta không muốn để cho quyền hành rộng lớn
rơi vào tay một người, nhất là rơi vào tay của Rommel. Quyền lợi quốc gia đã bị
hy sinh cho sự ngờ vực của Bộ tư lệnh tối cao.

Đúng là
vì cái duyên cớ chia để trị ấy mà mặt trận Miền Tây mất tính chất thuần nhất của
nó và bị rơi vào tình trạng hỗn loạn vô chính phủ.

THỐNG
CHẾ ROMMEL VÀ BỘ THAM MƯU BINH ĐOÀN B

Bộ tư lệnh
của Binh đoàn B đóng sát chiến tuyến trong lâu đài La Roche-Guyon, ở mé tây
Ile-de-France, trên khúc lượn rộng lớn của sông Seine, vòng lên mạn Bắc, giữa
Mantes và Vernon, cách Ba Lê 60 cây số về phía hạ lưu. Lâu đài của dòng quận
công La Rochefoucauld là một dinh thự vương giả ở vùng Normandie, đã có từ năm
1.000 ; hậu diện quay ra phía những mỏm núi đá. Những di tích của lầu thành
ngày xưa, với tòa vọng lâu đứng xa nhìn rõ, vây quanh ngọn đồi một cách hùng vĩ.
Chỉ riêng có bộ tham mưu hành quân gọn nhẹ là đóng trong lâu đài, vì Thống chế
vẫn để cho gia đình quận công ở lại, không bắt di cư. Trong gian phòng “Salle
des Gardes” người ta có thể nhìn thấy chân dung vị quận công danh tiếng La
Rochefoucauld, vị thống chế và là tác giả tập Cách Ngôn, một tác phẩm mà ảnh hưởng
chẳng có liên quan gì tới chỗ này. Quận công La Rochefoucauld-Liancourt, một
nhà từ thiện và lỗi lạc về chính trị, cũng đã ra đời trong lâu đài này.

Thống
chế ở một căn nhà nhỏ vuông vức có sân thượng trồng đầy hoa hồng. Phòng làm việc
của ông trang hoàng công phu theo một kiểu cách rất đẹp, với những đồ thủ công
hoa mỹ thuộc loại Gobelins, và một chiếc bàn viết thời trung cổ, khảm xà cừ -
chiếc bàn mà hồi năm 1685, Tể tướng Louvois đã ký chỉ dụ bãi bỏ sắc luật
Edit-de-Nantes liên quan tới những hoạt động của Cơ đốc giáo: gian phòng làm
cho người ta cảm thấy rõ nền văn hóa cổ thời của nước Pháp. Khi cuộc đổ bộ của
phe Đồng Minh đã mở màn, và khi những cuộc oanh tạc của đối phương ngày một gia
tăng, Rommel đồng ý cho Quận công được mang đi chôn giấu những đồ cổ, dưới những
tảng đá trong ngôi nhà thờ. Những đồ cổ này về sau còn nguyên vẹn và vẫn còn y
nguyên chỗ đó.

Bộ tham
mưu của Binh đoàn chỉ vỏn vẹn là một ban tham mưu gọn nhẹ đảm trách công việc.
Nó gồm có Trung tướng tham mưu trưởng Hans Speidel, Đại tá von Tempelhoff,
phòng hành quân “IA”, đại tá Staubwasser, phòng tình báo “IC”, Đại tá Freyberg,
phòng đầu vụ và tư lệnh các binh chủng: Đại tá Lattmann (pháo binh), Trung tướng
Meise (công binh), Trung tướng Gehrke (truyền tin), Phó đề đốc Friedriech Ruge,
sĩ quan Hải quân biệt phái. Ngoài ra, ban tham mưu này còn có một sĩ quan của Bộ
tham mưu Không quân, một vài sĩ quan tùy viên và một phóng viên chiến trường. Bộ
phận Tổng hành Dinh – một b phận không có quyền hành gì – đã bị giải tán trước
khi cuộc đổ bộ mở màn. Họ được giao cho tham mưu trưởng đặc trách về nước Pháp
để nơi đây sử dụng tùy nghi. Riêng về sĩ quan giám sát của Đảng Quốc Xã, binh
đoàn đã sái lệnh, không cho họ ở trong bộ tham mưu. Sự kiện này, về sau, tham
mưu trưởng Binh đoàn bị khiển trách trong các cuộc điều tra của Gestapo. Tháng
8 năm 1944, khi nắm quyền chỉ huy, Thống chế Model liền thiết lập ngay trong bộ
tham mưu cơ quan giám sát chính trị này, một cơ quan có quyền báo cáo trực tiếp
về cho Himmler và Bormann.

Trong nội
tình Bộ tham mưu, công việc tỏ rõ dấu hiệu của một sự ăn ý hoàn toàn và sự tế
nhị của từng cá nhân; nơi đây có được cái cảnh “trong ấm ngoài êm” và trạng
thái thăng bằng hoàn hảo về tinh thần. Những cộng sự viên tận dụng được mọi khả
năng sáng kiến. Trong những tuần lễ “bình yên” trước khi có cuộc đánh chiếm của
quân Đồng Minh, Thống chế làm việc thật hăng say, vất vả. Gần như ngày nào ông
cũng đi tới các đơn vị, không cần có đoàn hộ tống hùng hậu mà thường thường chỉ
đi với viên sĩ quan tùy viên duy nhất là đại úy Laing, hoặc với phó đề đốc
Ruge; ông phó đề đốc này là con người hào hiệp, trí thức nên được Thống chế tín
nhiệm đặc biệt. Buổi sáng, Thống chế ra đi từ lúc 5,6 giờ, sau khi ăn sáng với
viên tham mưu trưởng và hỏi han ông này những điều quan trọng nhất. Nghỉ ngơi một
lúc buổi trưa tại một tiền đồn, rồi ông đi cho tới chiều. Khi ông về thì những
cuộc thảo luận lại bắt đầu cho tới bữa ăn tối, bữa ăn đơn giản như của một nhân
viên thứ cấp. Thống chế ngồi ăn chung với những cộng sự viên thân tín của ông,
thường thường khoảng chừng mươi người, và thêm vào đó có một số khách được mời
dự. Ông rất điều độ, uống rượu ít và không bao giờ hút thuốc. Ngồi vào bàn ăn,
ông nói đủ thứ chuyện. Sau bữa ăn, ông cùng với viên tham mưu trưởng và Phó đề
đốc đi dạo trong khu vườn xinh đẹp và gợi cảm của tòa lâu đài. Ông thích đứng
dưới hai cây bách hương ngắm cảnh yên tĩnh của vùng thung lũng sông Seine và
khung trời phía tây. Sau những cuộc thảo luận tiếp nữa, ông đi ngủ rất sớm.

Trong
khi đi thăm tiền đồn, ông giải thích tình hình và dự án hoạt động cho sĩ quan
và binh lính nghe. Ông khéo léo giữ một thái độ vừa phải, không khen nhiều,
không chê quá… Ông nhấn mạnh tới sự quan trọng đặc biệt về tác phong của quân
lính đối với dân chúng. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần những điều luật về nhân
đạo phải được áp dụng trong thời chiến cũng như thời bình. Ông chú ý tới sự tôn
trọng đúng mức quyền sống của con người; ông gây một tinh thần hào hiệp, một
tinh thần đang bị thiếu sót trong thời đại của chúng ta và đã bị coi như yếu đuối
theo tâm lý của Hitler[5].

[5] Đọc “Rommel, con cáo già ca
sa mạc”. Bản dịch Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên, Sông Kiên xuất bản.

SỰ PHÂN
PHỐI CÁC LỰC LƯỢNG CỦA ĐỨC TRONG MÙA XUÂN 1944

Lục
quân

áng 4
năm 1944, dưới quyền của Thống chế Rommel, Tư lệnh Binh đoàn B có hai lộ quân với
tám Bộ tổng chỉ huy, 24 sư đoàn bộ binh, 5 sư đoàn không quân. Những lực lượng
này được phân phối như sau:

Tư lệnh
vùng Pays-Bas với một bộ tổng chỉ huy (bí số: EXXXVIII), hai sư đoàn bộ binh
(347, 709) và một sư đoàn không quân (sư đoàn 16).

Tư lệnh
vùng này là tướng không quân Christiansen; quân sĩ gọi ông là “ Krischan”.
Trong Đệ I thế chiến, ông là người được chú ý trong bộ chỉ huy của một hộ tống
hạm và đã được khen thưởng; sau ông chuyển sang ngành không lực Hải quân. Từ
năm 1933, ông được thăng chức Đại tướng hiện dịch và được bổ nhiệm nắm giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong binh chủng Không quân. Ông là một nhà hàng hải đầy
chân tình, một mẫu người tốt, nhưng kinh nghiệm, học vấn và kiến thức chưa đạt
tới tầm vóc của cấp tư lệnh lộ quân; riêng về chiến lược bộ chiến ông không lý
hội được gì cả. Sự thăng bổ ông lên hàng tư lệnh lại càng dị thường; không cần
quan tâm tới những nhu cầu tối yếu về quân sự, Thống chế Goering chỉ muốn đặt một
người phụ tá đầy đủ tín nhiệm vào một chức vụ trọng yếu. Tham mưu trưởng của
Christiansen xuất thân từ ngành kỵ binh và từ bộ tổng tham mưu; đó là Trung tướng
von Wuhlisch, ông cố gắng bù đắp những nhược điểm của Christiansen. Ông này đã
để cho ông phát huy rộng rãi mọi sáng kiến của mình.

Lộ quân
thứ XV có bốn bộ tổng chỉ huy (LXXXIX, LXXXII, LXVII, LXXXI) sáu sư đoàn bộ
binh (sư đoàn 70 gồm những binh lính đau bao tử, nhưng điều đó không cản trở họ
chiến đấu dũng mãnh, sư đoàn 47, 49, 344, 348 và 711) hai sư đoàn không quân
(sư đoàn 17 và 18) dàn ở tuyến đầu. Tám sư đoàn bộ binh (sư đoàn 64, 712, 182
–trừ bị, 326, 331, 83, 89, 346) và một sư đoàn không quân (sư đoàn 19) dàn ở hậu
tuyến

Tư lệnh
Lộ quân thứ XV đại tướng Von Salmuth, là một người giàu kinh nghiệm về chiến
thuật, chiến lược trong thời bình cũng như trong thời chiến. Ông từng là Tham
mưu trưởng của Thống chế Von Bock tại chiến trường miền Tây năm 1940 và năm
1941, tại chiến trường Miền Đông, ông đã điều động quân đoàn thứ XXX đến tận
vùng bán đảo Crimee; trong mùa đông sôi động năm 1942 -1943, ông chỉ huy Lộ
quân thứ II gần Kursk. Chính ở đấy ông đã bị cắt chức tư lệnh vì tinh thần
‘đoàn thể’ của ông bị ngờ vực, điều gia dĩ rất là bất công. Là một kẻ chống đối
chế độ Quốc xã, ông cảm thấy trước được ngày thảm bại của chế độ.

Lộ quân
thứ VII, với ba bộ tổng chỉ huy (LXXXIV, LXXIV, XXL) về sau này có đệ nhị Lữ
đoàn dù, 7 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 716, 352, 243 – không được đầy đủ, sư đoàn
319- trên những hòn đảo ngoài biển Manche, sư đoàn 266, 343, 265) dàn trên tuyến
đầu, và hai sư đoàn bộ binh (84 và 353) một sư đoàn không vận (sư đoàn 91) và
sau đó có hai sư đoàn dù dàn ở hậu tuyến

Tư lệnh lộ quân là Đại tướng
Dollmann, xuất thân từ ngành pháo binh. Ông am hiểu tường tận về tham mưu và chỉ
huy; nhưng về chiến trường, ông chỉ mới có kinh nghiệm trong trận vượt sông
Rhine thượng, một đánh kể ra không phải là trận sinh tử trên chiến trường Miền
Tây, năm 1940. Sức khỏe của ông khá yếu kém.

Những phương thức của Hitler
đã làm đau đớn sâu xa lương tri của một con người và lương tri một người quân
nhân nơi ông. Ông chết ngày 29 tháng 6 năm 1944 tại Bộ chỉ huy vì chứng bệnh tắc
mạch máu. Trước đó ít ngày, Hitler đã quyết định thay thế tướng Dollmann nhưng
Rommel không đồng ý.

Về phần lực lượng thiết giáp,
tại vùng trách nhiệm của Binh đoàn, có ‘tướng thiết giáp mặt trận Miền Tây’, với
một bộ tổng chỉ huy (lữ đoàn 1 thiết giáp SS) và 5 sư đoàn xe bọc sắt (sư đoàn
1 SS, 12 SS, 2, 21, 116)

Ở Pháp, về phía nam sông
Loire, có lữ đoàn thiết giáp hạm LXIII với sư đoàn 9 và 11, cùng sư đoàn 2 và
17 thiết giáp hạm SS, những đơn vị này đang nằm dưỡng quân hoặc đang trong tình
trạng tổ chức lại.

Tướng ‘thiết giáp mặt trận
Miền Tây’, đại tướng bá tước Geyr von Schweppenburg, đóng ở Ba Lê; ông có một bộ
tham mưu điều nghiên mà theo sự dự liệu sẽ trở thành bộ tham mưu hành quân. Đối
với tất cả những vấn đề huấn luyện và tổ chức, ông tùy thuộc Đại tướng
Guderian, tổng thanh tra lực lượng thiết giáp; về hành quân, trước hết, ông lệ
thuộc vào Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây.

Đại tướng bá tước Geyr von
Schweppenburg là một người vượt trên khỏi mức bình thường; ông xuất sắc trong
lãnh vực quân sự cũng như chính trị, và theo tư cách lý thuyết gia ông có nhiều
kinh nghiệm về chiến tranh cơ giới. Hồi trước đây, với tư cách là tùy viên quân
sự tại Luân Đôn, ông đã không ngần ngại và kiêng nể gì khi báo động sự tách
riêng ngày càng gia tăng của nước Đức. Cũng bởi những lời khuyến cáo ấy mà ông
đã bị triệu hồi.

Chiều dài của phòng tuyến Đại
tây dương ước độ 4000 cây số, chứa đựng 60 sư đoàn bộ binh trấn nhậm. Những sư
đoàn này gồm nhiều thành phần già cỗi; những bộ tham mưu từng trải chiến trận rất
yếu. Sự huấn luyện thường được giao cho các cấp chỉ huy đủ mọi cấp bậc, phần
đông là lớn tuổi, nên không thích hợp với sứ mạng của họ. Về phương diện vật chất,
những sư đoàn này trang bị rất yếu kém không khác gì thời Đệ I Thế chiến. Được
phú dữ (trang bị?) một kỵ binh chẳng lấy gì làm đông đảo, họ hầu như nằm im bất
động; chính họ đã phải cố gắng để có thể tự mình lo việc tiếp liệu. Những đơn vị
này không thể nào có được tầm vóc ngang với kẻ địch của họ, một kẻ địch xuất hiện
bất thần, cơ giới hóa, lẹ làng trong giả thuyết khi những cuộc đụng độ diễn ra
dưới hình thức chiến tranh di động. Rommel đã nhiều lần lưu ý Bộ Tổng Tư lệnh Lục
quân về các sự thiếu sót này; ngay cả khi trước mặt Hitler, ông cũng không ngần
ngại biểu lộ rằng những sư đoàn ấy là những sư đoàn vô dụng trong một cuộc chiến
tranh tân kỳ. Tất cả những lời trình bày của ông đều bị gạt ra một bên. Hitler
cổ võ một chiến thuật đưa đến cho người lính sự tự sát sau những công sự phòng
thủ của họ; họ không cần phải di động.

Những đơn vị thiết giáp chưa
được tổ chức lại hoàn bị và sự huấn luyện vẫn còn dở dang. Thiếu cấp chỉ huy và
thiếu khí cụ. Dầu vậy khả năng chiến đấu của các sư đoàn thiết giáp cũng vượt
trên khả năng chiến đấu của các sư đoàn bộ binh đóng trong vùng. Tuy nhiên, nó
chỉ tiến bộ được chừng 30 phần trăm so với khả năng chiến đấu của những đơn vị
thiết giáp hồi năm 1940 - 1941. Trước hết sự huấn luyện của nó thiếu sót ở vấn
đề thích ứng với loại vũ khí của không quân, một sự thiếu sót đã nhiều lần kêu
ca. Trái lại, ở về phía địch quân, loại vũ khí của không quân lại rất được phát
triển.

Bộ tư lệnh không quân cũng tỏ
ra không am tường gì mấy những đòi hỏi này. Vốn dĩ đã thiếu sự thống nhất chỉ
huy nên người ta không thể tổ chức những sự diễn tập phối hợp giữa cấp chỉ huy
và binh sĩ, giữa bộ binh và không quân, đặc biệt là trong lãnh vực truyền tin.

Hải quân

Hải quân đã phải chịu đựng
trong suốt cuộc chiến một tình trạng bi đát, lúng túng: tình trạng muốn thực hiện
ý định mà không thể thực hiện được. Do nơi sức mạnh và vị trí chiến lược, Hải
quân chỉ có thể là một lực lượng phụ thuộc. Chiến trường càng mở rộng, nó càng
phải làm tròn những sứ mạng mới, những sứ mạng vượt khỏi huấn thị lúc đầu của
Hitler, hạn định trong vùng lục địa.

Khi Đô đốc Reader bị cất chức, mặc dù ông đã cố
ý không dính dáng gì đến chính trị, thì bên cạnh Hitler thiếu hẳn sự thăng bằng
về quyền năng. Thực vậy, Hải quân chiến đấu là một binh chủng đã từ chối không
theo những nhận thức về chính trị của Bộ tư lệnh tối cao một cách mạnh mẽ hơn cả
Lục quân nữa. Tình trạng này xuất hiện cùng với sự bổ nhiệm Thủy sư Đô đốc
Doenitz kế vị Đô đốc Reader; vả chăng nó trái ngược với ý muốn và lời khuyên của
Đô đốc Reader. Nếu ở vào một vài khía cạnh nào đó, ngành Hải quân đã bị đánh
giá quá cao thì cái lý do sâu sắc là, từ sau khi Blomberg ra đi, không còn có sự
phối hợp thực sự trong vấn đề chỉ huy của quân lực, và không một giới chức thẩm
quyền nào có thể định nghĩa rõ ràng được sứ mạng của ba binh chủng. Sự thiếu thống
nhất trong cách điều nghiên những vấn đề chiến lược tổng quát cũng đã cho thấy
nó khá nguy hiểm. Cũng như binh chủng Không quân, Hải quân an phận thủ thường
và không mấy khi tỏ lộ sự hiểu biết cần thiết của họ đối với những đòi hỏi về một
chiến lược thống nhất. Sau này dù họ tiến gần tới Đảng Quốc xã thì cũng chỉ để
giữ gìn các đặc quyền của họ, mặc dù một số đông sĩ quan Hải quân đã tỏ ra thật
sự là những người bạn tốt trong những sự giao thiệp trực tiếp với Quân đội.

Tư lệnh Hải đoàn mặt trận Miền
Tây, Đề đốc Krancke (có phó Đề đốc Hoffmann làm tham mưu trưởng) tỏ ra bảo thủ
tính chất độc lập của mình, sau những huấn lệnh của Đô đốc Doenitz, ông không
có thể tự giải quyết được một cuộc tiếp viện rộng lớn khi biến cố xảy đến.
Trong khi những đơn vị hải quân đóng tại Ba Lê - ước độ 5000 người – đáng lẽ ra
phải được đưa đến tiền tuyến đang bị nguy, thì Hải đoàn lại đề nghị, vào buổi
chiều ngày 20 tháng bảy 1944[6], dùng họ vào công cuộc giải thoát sở an ninh
(S.D) đã bị vị tư lệnh quân sự ở Pháp bắt giữ: thực tế đó là đưa họ chống lại
Quân đội.

[6] Sau khi cuộc mưu sát Hitler đã xảy ra vàhất bại - đọc
"Những trận đánh lịch sử của Hitler" - Sông Kiên xuất bản.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3