Hitler và trận đánh Normandie - Chương 03
3
TÌNH HÌNH NỘI BỘ CỦA QUÂN ĐỨC
TÌNH
HÌNH QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ BỊ LUNG LAY làm cho cơ cấu tổ chức của Quân lực Đức –
cơ cấu nội bộ – phải chịu đựng nhiều biến đổi sâu rộng.
Ngày 2
tháng 8 năm 1934, Hitler đảm trách quyền chỉ huy tối cao và xác định sự nhập cuộc
của ông trong bức thư ngày 20 tháng 8 năm 1934 gửi cho Đại tướng Von Blomberg:
“Hôm
nay, sau khi đạo luật mùng 2 tháng 8 được phê chuẩn, tôi muốn tỏ bày cùng Đại
tướng và nhờ Đại tướng tỏ bày cùng Quân đội những lời cảm ơn của tôi đối với lời
tuyên thệ trung thành mà Đại tướng đã dành cho tôi trong cương vị Quốc trưởng
và Tổng Tư Lệnh Tối cao của Quân lực. Cũng như những sĩ quan và binh lính đang
phục vụ tân Quốc gia “nơi chính bản thân tôi”, tôi sẽ luôn luôn tự coi như bổn
phận tối thượng để hành động nhằm bảo vệ và giữ vững uy thế bất khả xâm phạm của
Quân đội. Như thế tôi sẽ làm trọn lời di chúc của cố Thống chế Hindenburg; tôi
sẽ trung thành với ý nguyện của chính tôi là đặt Quân đội vào trong lòng Dân tộc
và chỉ có Quân đội mới được quyền võ trang. Adolf Hitler, Fuhrer và
Reichskanzler.”
Lời
tuyên thệ này, mà Hitler cũng đã từng thề trước Quốc trưởng Von Hindenburg, được
ông ta giữ cho tới ngày 4 tháng 2 năm 1938; cho tới ngày này ông vẫn từ chối
không đưa chính trị vào quân đội. Kể cả những năm đầu nắm quyền bính, ông cũng
tự kềm chế không phán xét những vấn đề quân sự.
Âm mưu
chiếm quyền của lực lượng bán quân sự S.A bị phá vỡ bởi những biến cố ngày 30
tháng 6 năm 1934. Nhưng đến năm 1937, Heinrich Himmler, lãnh tụ SS, nhờ sự võ
trang các đơn vị SS, đã tạo ra được cái thế “lưỡng đầu chế” giữa Quân đội và lực
lượng Waffen SS, đồng thời đưa yêu sách cho Bộ Tổng tư lệnh về các vấn đề chính
trị và quân sự của lực lượng SS. Như vậy là Hitler đã chối bỏ lời hứa “chỉ có
quân đội mới được quyền võ trang”.
Tổ chức
Waffen SS được thừa nhận với những ưu thế của một đội vệ binh, nó được hứa hẹn
trở thành quân đội tương lai trong thời bình. Nhân số của cái Quốc gia trong Quốc
gia, quân đội trong Quân đội này đã đếm được tới 700.000 người khi chiến tranh
vừa kết liễu.
Cái ưu
thế của quân đội theo truyền thống lịch sử đã bị chấm dứt ngày 4 tháng 2 năm
1938 bằng một âm mưu bôi lọ Đại tướng Nam tước Von Fritsch và vào thời kỳ
Hitler nắm quyền Tổng tư lệnh tối cao quân lực. Tiếp theo đó là một thái độ thụ
động rất nguy hiểm của một số chỉ huy trưởng quân sự.
Những
tướng lãnh này – cũng như những nhân vật ngoài đời sống dân sự - thường là những
con cưng của chế độ trong thời kỳ vàng son của họ. Họ đâu có nhìn thấy những gì
sẽ đập vào lưng họ sau này. Bằng một thủ đoạn khéo léo và thận trọng, người ta
lạm dụng dần dần những đức tính truyền thống của Quân đội. Chỉ riêng có tướng
Beck là đã từng đôi ba phen tranh đấu, và đặc biệt nhất là vào năm 1938, ông
không sợ liên lụy tới tính mạng và địa vị, dám chống đối lại những sự vận động
thầm kín tai hại của một vị Quốc trưởng độc đoán và bao biện. Các thắng lợi đoạt
được trong lãnh vực chính trị đối ngoại tại Munich (Hội nghị Munich họp vào
tháng 9 năm 1938 gồm các nhà lãnh đạo Anh, Pháp, Đức, Ý, quyết định về vấn đề đất
đai giữa Tiệp khắc và Thụy điển), nhờ phe Đồng minh, đã làm Đại tướng Beck và
người kế vị ông là tướng Halder phải bó tay.
Với đà
chuyển động của chiến tranh, nhất là từ năm 1944, Hitler cố gắng biến Quân đội
thành một “tổ chức chính trị”. Sức mạnh của Quân đội này trước đây dựa vào sự vững
chắc của các thành viên trong mục tiêu hoạt động bất vụ lợi đối với Tổ quốc.
Nhưng hiện giờ thì đa số các tướng lãnh chỉ huy đã bắt đầu thừa nhận uy thế của
Hitler, nhất là sau những kinh nghiệm chiến trường tại Ba lan, Na uy, Pháp và
vùng Balkans. Sự suy tôn Hitler là “đại nguyên soái của mọi thời đại” phát xuất
từ đó. Hitler và Goebbels biết khéo léo động viên tâm lý quần chúng và chủ
trương tiến tới chế độ “quân phiệt cách mạng”. Đến nỗi rằng, một nhóm sĩ quan,
say sưa giấc mộng làm người hùng Nã phá Luân đã trở thành “công chức”, trong
khi ngày xưa trong Quân đội, quan niệm của Washington đã nắm giữ phần ưu thắng:
“Chỉ những tay anh hùng mã thượng mới xứng đáng vào hàng sĩ quan!”
Tuy
nhiên, một số đông sĩ quan các cấp thấp nhất là khối sĩ quan tham mưu, đã kín
đáo chống lại sự nhiễm độc chính trị của Quân đội; theo ý họ thì chính trị
trong Quân đội chỉ có thể đưa đến chỗ cắt đứt những dây liên lạc thân tín từng
thắt chặt tình đoàn kết giữa cấp chỉ huy và binh lính. Họ cũng không tán thành
việc Hitler nắm quyền chỉ huy Quân đội. Chúng ta hãy thêm vào trong vấn đề này
sự độc đoán, bản năng thống trị của chính Hitler. Ác hại thay, tính khí đặc biệt
ấy không phải chỉ xuất hiện trong các mệnh lệnh ban cho các ủy viên và cho Bộ
chỉ huy mà ngay trong lãnh vực điều hành quân pháp nữa. Mùa Đông năm 1943-1944,
mọi người ngạc nhiên vì sự nhồi nhét vào trong Quân đội một lớp sĩ quan chỉ huy
thuộc thành phần đảng viên Quốc xã (N.S.F.O). Đây là những cấp chỉ huy chính trị
mặc quân phục, tương tự như những Chính ủy của Hồng quân Nga sô. Như vậy là
Hitler muốn bắt chước Nga chứ không theo kinh nghiệm của Lazare Carnot – người
đã muốn, lúc thành lập quân đội cách mạng Pháp trong thời kỳ nhân dân vùng dậy,
tách biệt mọi chính trị khỏi cơ cấu chỉ huy trong quân đội.
Lôi kéo
quân đội vào trong mê hồn trận của các phe phái, tiêu diệt sự trung thành và niềm
tin đối với truyền thống cũ bằng chế độ ủy viên Quốc Xã, đào xới tới cội rễ quyền
lực của Quân đội, Hitler đã đập nát cơ cấu nội bộ và uy tín đối ngoại của quân
đội. Những sĩ quan “lập trường bấp bênh” đều bị giải ngũ. Người ta chối bỏ
nguyên tắc mà từ thời vua Fréđêric-le-Grand đã áp dụng ngay trong lãnh vực quân
sự là bảo đảm tự do của những nhân vật có trách nhiệm. Kết cuộc, người ta thấy
một người như Heinrich Himmler đã trở thành Tư lệnh của một Binh đoàn. Kiến thức,
khả năng quân sự, nhất là lương tri của một trách nhiệm tinh thần trước Thượng
đế và Dân tộc Đức bắt đầu bị biến dạng.
Những cấp
chỉ huy đã từng cố gắng biểu lộ nhân phẩm trong một quan niệm nhân bản cao cả,
nay nói chẳng ai nghe. Những đức tính trong vùng hào quang của thời Ludwig Beck
đã bị loại bỏ.
Những cấp
chỉ huy thuộc mọi đẳng cấp, giống như trong quân đội các nước đương thời trước
kia, chia ra làm ba nhóm:
- Những
người quân nhân tận tụy, nhắm mắt vâng lời, tính tình dung dị, bạ cả tin.
- Những
người lính đảng phái đầy tham vọng, xu thời.
- Những
người lính có lương tri phụng sự tình yêu Tổ quốc.
Chúng
ta sẽ phân tích ở đoạn dưới trạng thái tinh thần và kiến thức của ba nhóm này
theo quan điểm xã hội và tâm lý. Ở đây, chúng ta chỉ nói qua về nhóm thứ ba.
Trước
chiến tranh, một đám sĩ quan khá đông đảo, phần đông là ở Bộ Tổng tham mưu, đã
không chấp nhận đường lối đối nội và đối ngoại của Adolf Hitler. Sau nhiều lần
cúi mặt làm thinh trước những tội lỗi (thí dụ làm thinh trong vụ ám sát hai tướng
Von Schleicher và Von Bredow ngày 30 tháng 6 năm 1934) họ đã có ý định can thiệp
vào hồi năm 1938.
Nhưng
khi hai tướng Nam tước Fritsch và Beck bị khai trừ, thì chẳng còn có gì để gọi
là một sự phản đối: một ý chí tự giác, sức mạnh và khả năng. Đến cuối năm 1937
sang đầu năm 1938 dân chúng và Quân đội cũng đồng ý về những yêu sách mà Hitler
đã đề ra, mà trong lãnh vực đối ngoại – những yêu sách ấy đã có thể giải quyết
được trong tinh thần hòa bình. Thắng lợi hiển nhiên của Hitler tại Hội nghị
Munich được tiếp nối bằng bản Hiệp ước giao hảo với Pháp ký ngày 6 tháng 12 năm
1938. Ít ai ngờ đến những sự phát triển bên trong cũng như bên ngoài của sự
tham nhũng và lòng đạo đức giả, và có ý nghi ngờ Hitler không giữ lời hứa và muốn
chiến tranh.
Trong
thời gian chiến tranh, vấn đề trở nên khó khăn lạ lùng đối với các cấp chỉ huy
quân sự. Trong đại đa số trường hợp, những người lính ngoài mặt trận đã chiến đấu
dũng cảm; thật là bất công và vụng về khi muốn chối bỏ sự kính trọng đối với
người lính Đức – sự kính trọng mà người lính ở các nước văn minh, ngay cả nước
thù địch, luôn luôn được hưởng. Sự phê phán của lịch sử thường vượt qua những lời
chê bai nhất thời của một kẻ địch đã bại trận. Chưa ai từng nghĩ rằng mình muốn
lôi cổ những tên lính của những phe phái từng chém giết nhau trong chiến tranh
tôn giáo hồi thế kỷ XVI và XVII ra xử trước tòa. Không ai kết tội các viên Thống
chế và sĩ quan của Nã phá Luân – đúng ra là của nước Pháp – dù rằng bản thân Nã
phá Luân đã bị coi như kẻ xâm lăng và bị ô danh một thời vì tội đó. Những cuộc
hành hình tập thể do Quận công Albe chủ trương vào năm 1568 và tư cách của những
xứ Bắc Mỹ sau cuộc chiến tranh Nam-Bắc chỉ là những trường hợp ngoại lệ.
Một
thành phần sĩ quan vốn dĩ được đào tạo nhằm phục vụ một hình thức chế độ quân
chủ, không hề nghĩ đến việc ngẩng đầu lên chỉ trích việc lãnh đạo Quốc gia,
cũng như được chuẩn bị cho một ý tưởng theo đó một cuộc đảo chánh có thể trở
nên cần thiết. Điều này tạo cho họ một sức mạnh, khi mà vị quân vương tự cảm thấy
mình nhận trách nhiệm trước Thượng đế để nắm quyền chỉ huy Quân đội nhưng đó lại
là một nhược điểm, từ ngày mà một kẻ vô thần nắm giữ vận mạng của quân lực Đức.
Từ năm
1920 trở đi, khối sĩ quan của Reighswehr (tổ chức Quốc phòng Đức từ 1919 tới
1935) đã được đặt một cách cố ý ngoài vòng chính trị: thái độ này đã biểu lộ
trước những yêu sách của cơ cấu chính trị cũng như trước nhu cầu về an ninh của
các nhân vật lãnh đạo. Nhưng sự né tránh chính trị này thường không đề cập tới
sự phân biệt rõ ràng giữa chính trị đảng phái và chính trị thuần túy. Vì những
kinh nghiệm cần thiết không thể tập họp được nên ta không thể rút ra ở đó một sự
nhân xét xác đáng.
Dĩ
nhiên, các cấp lãnh đạo tối cao trong thời kỳ chiến tranh không thể đi từ sự phục
tùng đối với Thượng đế đến ý thức và sự phục tùng đối với những con người trần
tục. Nhưng tình trạng mập mờ này ở Đức không phải chỉ có giới hạn. “Một sự từ
khước phục tùng” và sự sửa soạn một đảo chánh đòi hỏi ở cấp lãnh đạo tối cao –
và chỉ cấp lãnh đạo này thôi – một cái nhìn sâu rộng đặc biệt, một sự can đảm
hiển nhiên.
Quyết định
ấy đáng lẽ ra có thể thực hiện dễ dàng đối với những phần tử ưu tú trong giới
lãnh đạo ấy, nếu họ đã không bị bó buộc phải đầu hàng vô điều kiện ở
Casablanca: đó đúng là một sự trở ngại khó đo lường đứng về phương diện tâm lý
đối với những kẻ cầm súng chiến đấu.