Mảnh gốm vỡ - Chương 03

Chương 3

Mộc Nhĩ chạy vội tới nhà
ông thợ Min. Từ đầu ngõ đã nghe tiếng ông rủa mắng nó.

“Đúng là cái đồ vô tích
sự, nhọ mặt người mới về, rồi chẳng nói chẳng rằng quẳng xe đấy biến mất tăm.
Nhẽ ra củi phải được chở tới lò nung và dỡ xuống chứ.” Sáng nay, lúc trời mới
tờ mờ, ông Min đã phải đẩy xe tới lò và tự tay dỡ củi, rồi suýt lại bị thương
lúc trở về nhà vì trượt chân trong ánh sáng nhá nhem. “Thế mà gọi là trả công
à, còn tệ hơn không làm gì! Này cái thằng Mộc Nhĩ, có thật mày định trở thành
người hữu ích hay không? Nếu không, tốt nhất hãy quên béng cái thỏa thuận kia
đi...”

Cuối cùng, ông thợ cả
cũng ngừng lại để lấy hơi. Mộc Nhĩ không dám nhìn lên. Cu cậu cảm thấy mình như
một con quái vật hai đầu, một đầu xấu hổ, đầu kia thì phẫn nộ. Xấu hổ vì nó đã
không làm việc đến nơi đến chốn, phẫn nộ bởi ông thợ gốm không hề đưa ra một
chỉ thị đầy đủ. “Lấy đầy xe củi” - lệnh ra là như thế và nó đã không hề làm sai
sót. Chẳng lẽ nó phải tự đoán xem ông thợ già muốn những gì khác nữa.

Nhưng nỗi xấu hổ trong
lòng nó đã thắng thế. Thằng bé sợ bị đuổi việc trước khi có cơ hội học được
cách thức làm đồ gốm.

“Cháu xin lỗi vì đã làm
ông bực bội,” Mộc Nhĩ nói. “Nếu ông rộng lượng cho cháu cơ hội khác, ông sẽ
không phải thất vọng đâu ạ.”

“Hừm,” ông Min quay
người, đi về phía hông nhà. Mộc Nhĩ đứng ngây như phỗng mất một lúc, không biết
phải làm gì.

“Sao?” bác thợ bực dọc
quay lại. “Còn chưa đến đây hả, thằng ăn mày nhặt kia. Định đứng đó làm tượng
hả?”

Được tha thứ, Mộc Nhĩ hơi
vui một chút. Nhưng mà công việc bác Min giao đã làm cho niềm vui ấy tan biến
ngay; cũng giống như hôm qua - lại đẩy xe củi và lần này còn phải chất củi vào
lò nung.

Sáng nào Mộc Nhĩ cũng
xăng xái có mặt trước cửa nhà bác Min. Ngày nào ông cũng sai nó đẩy xe lên núi
chặt củi. Tối đến, nhờ được bác Sếu chăm sóc tận tình, vết thương trong lòng
bàn tay Mộc Nhĩ bắt đầu lành, lớp da non màu hồng dày hơn. Nhưng khi ngày làm
việc kế tiếp bắt đầu nó lại toạc ra và rỉ máu. Mộc Nhĩ dần quen - cái đau cũng
giống như người bạn không mời đến chỉ sau vài nhát rìu buốt nhói đầu tiên, đành
chịu thôi.

Sang ngày thứ ba, bác Sếu
ngỏ ý muốn đi cùng Mộc Nhĩ. Nó cuống cuồng tìm cách từ chối. Nó biết điều gì sẽ
xảy ra. Vì muốn bàn tay phồng rộp của Mộc Nhĩ được nghỉ ngơi, bác sẽ giằng lấy cái
rìu. Mộc Nhĩ rùng mình, hình dung cảnh bác Sếu tựa người vào cây nạng gắng sức
chặt củi. Không khéo bác sẽ làm hỏng cái chân lành mất thôi.

“Bác muốn giúp, con cảm
tạ vô cùng,” Mộc Nhĩ đáp. “Nhưng khi con trở về nhà đã thấy có mâm cơm dọn sẵn
thì có lẽ hay hơn. Bác có thương thì hãy giúp con bằng cách đó.”

Bác Sếu thuận lòng. Mộc
Nhĩ biết bác sẽ bỏ cả ngày để nghĩ cách biến một nắm rau dại và ít xương khô
thành cái ăn.

Vài ngày sau, Mộc Nhĩ đã
biết cách phân chia công việc để có thể nghỉ ngơi đôi chút. Sau một lúc cần mẫn
chặt cây, nó dừng tay rìu, chất số củi vừa chặt xong lên xe, nghỉ một chút
trước khi làm tiếp. Như thế tốt hơn cứ hùng hục chặt củi như điên suốt mấy giờ
liền, để lại một đống củi lớn ngổn ngang trông phát ớn, vừa tốn thời giờ chất
củi lên xe vừa mau xuống sức.

Trong những lúc nghỉ tay
ngắn ngủi, Mộc Nhĩ thoáng cũng tranh thủ kiếm được một chút thức ăn - vài cây
nấm dại ở chỗ này, một chút dương xỉ ở chỗ khác. Trong những lần cùng nhau đi
lên núi, bác Sếu đã dạy cho nó nhiều điều. Mộc Nhĩ biết nấm nào ăn ngon, nấm
nào độc. Chỉ nghe qua tiếng hót thôi là nó có thể gọi tên chim, biết phân biệt
dấu vết của hổ báo với hươu nai. Nó không bao giờ bị lạc đường, vì biết rằng
những dòng suối luôn chảy xuống chân núi, nơi có những con đường.

Ngoài những lúc trầm ngâm
ngắm núi non, Mộc Nhĩ thích nhất là công việc dỡ củi ở khu lò nung. Lò nằm ở
đầu làng bên kia, nếu tính từ nhà ông Min. Gần đó là một nhà kho rộng dựng sơ
sài. Mộc Nhĩ đẩy xe đến trước cửa kho rồi ôm củi đem vào trong cất cho khô ráo.
Củi chất ngang tầm tay với của người lớn, xếp thành những đống ngăn nắp hai bên
lối đi chính giữa. Mộc Nhĩ thích xếp củi của mình thật gọn ghẽ để những người
thợ gốm có thể rút từng thanh mà không làm cả đống củi đổ sập xuống.

Ở khu lò nung, nó thường
gặp những người thợ gốm thay phiên nhau đến sử dụng lò. Họ chỉ thường gật đầu
đáp lại lời chào của Mộc Nhĩ. Sang ngày thứ tư, một người trong số họ bắt
chuyện với nó: “Mày là thằng nhỏ mới vào làm cho ông Min, phải không?”

Mộc Nhĩ biết người thợ
gốm này - tên ông là Kang. Tóc đã điểm sương, nhưng ông còn trẻ hơn ông Min,
ánh mắt sắc sảo và tay chân vẫn còn nhanh nhẹn hơn ông Min, ánh mắt sắc sảo và
tay chân vẫn còn nhanh nhẹn. Mộc Nhĩ hạ càng xe xuống đất và cúi thấp đầu chào.

“Chà, đến lúc nước sôi
lửa bỏng nên ông già mới đi tìm người phụ giúp đây,” bác thợ Kang nói rổn rảng.
“Dạo gần đây, ông ấy không mang đủ phần củi phải nộp.”

Nói đoạn, bác Kang bước
tới, giúp Mộc Nhĩ dỡ củi khỏi xe. Nhờ thế, công việc của nó xong sớm hơn thường
lệ. Trên đường về nhà, cậu bé đưa mắt tìm kiếm thức ăn trong một đống rác ven
lề; cái lõi bắp cải tìm được sẽ góp thêm món vào bữa ăn tối.

Buổi sáng ngày thứ mười.
Tối hôm trước, Mộc Nhĩ đã trả chiếc xe đẩy về chỗ quen thuộc của nó bên hông
nhà ông Min và nán lại một chút nhưng ông không ra khỏi nhà, nên cuối cùng Mộc
Nhĩ đành bỏ đi. Món nợ của nó đã được trả đầy đủ.

Thao thức gần như suốt
đêm, Mộc Nhĩ cố moi óc tìm cách cầu thân với ông Min. Trong suốt chín ngày làm
việc, nó chưa một lần được chạm vào đất sét. Nó sẽ không bao giờ làm được một
cái bình nếu không tiếp tục qua lại với ông thợ gốm.

Đến gần nhà ông Min, Mộc
Nhĩ nhẩm lại lần cuối những lời nó phải nói. Nó hít vào một hơi dài và cố giữ
một lát để trấn tĩnh, sau đó gọi to: “Thưa sư phụ?”

Mộc Nhĩ rất ngạc nhiên
khi thấy chính vợ ông Min ra mở cửa. Dĩ nhiên ông Min có vợ. Trong những ngày
rình xem ông làm việc, thỉnh thoảng nó thoáng thấy bà vợ của ông ra sân vãi
thóc cho gà ăn hoặc đi gánh nước. Nhưng vì bà chẳng có liên quan gì tới đồ gốm
nên Mộc Nhĩ không chú ý tới bà. Trong những ngày đốn củi vừa qua, nó hoàn toàn
không thấy hoặc thoáng có ý nghĩ gì về bà.

Nó cúi đầu trước bà Min:
“Thưa, ông chủ có ở nhà không ạ?”

“Ông ấy đang ăn sáng,” bà
đáp. “Cháu có thể chờ ở đằng sau nhà.”

Mộc Nhĩ cúi đầu cảm ơn và
bước lùi lại, nhưng bà Min khẽ nói tiếp: “May mà có cháu đốn củi giúp. Ông ấy
không còn trẻ như hồi...” giọng bà lạc đi.

Mộc Nhĩ ngước nhìn lên.
Đôi mắt bà Min trong sáng và dịu dàng, khuôn mặt nhỏ nhắn chi chít những nếp
nhăn mờ mờ manh mảnh. Nó cụp mắt nhìn xuống, vì sợ bị coi là vô lễ. Giống mắt bác Sếu - nó thầm nghĩ và
tự hỏi tại sao.

Ông thợ Min đang rửa tay
trong một cái chậu dưới mái hiên thì Mộc Nhĩ ra tới sân sau.

“Mày làm gì ở đây vậy?” -
ông nói giọng gắt gỏng, không buồn ngước mắt lên. “Đủ chín ngày rồi, nợ mày
cũng đã trả xong. Nếu chỉ đến đây để nghe tao nói thế thì bây giờ mày về được
rồi đó.”

Mộc Nhĩ cúi đầu. “Cầu xin
sư phụ tha thứ cho sự xấc láo của con,” nó nói. “Con muốn được bày tỏ lòng biết
ơn...”

“Nào, nào,” ông thợ Min
sốt ruột. “Còn chuyện gì nữa đây?”

“Được làm việc tiếp cho
sư phụ sẽ là một ân huệ lớn đối với con,” Mộc Nhĩ bắt đầu đoạn văn mà nó đã
chuẩn bị rất chu đáo. “Nếu sư phụ xét...”

“Tao không thể trả công
cho mày.” Bác Min cộc cằn cắt lời Mộc Nhĩ. Nhưng những lời gắt gỏng ấy lướt qua
nó lại tựa như cơn mưa mát rượi tưới lên cánh đồng khô nẻ. Tao không thể trả công cho mày đồng
nghĩa với “Ừ”. Niềm vui dâng đầy trong lồng ngực như sóng cồn, buộc nó phải
hắng giọng một cách lễ phép trước khi nói tiếp.

“Được làm việc cho bậc
thầy như sư phụ đã là sự đền bù xứng đáng rồi ạ, con đâu dám nghĩ đến chuyện
công xá,” nó lúng búng trong miệng.

“Hàng ngày đến đây, từ
lúc chuông chùa đánh buổi sáng tới lúc mặt trời lặn,” ông Min phán.

Mộc Nhĩ đã quỳ trên mặt
đất từ lúc nào, cúi gập cả người xuống để tỏ lòng biết ơn. Nó chỉ ước sao được
phóng một mạch về gầm cầu báo tin cho bác Sếu.

“Hôm nay đất sét, không
củi.” Đó là mệnh lệnh của ông thợ Min vào ngày thứ mười.

Một lần nữa Mộc Nhĩ lại
đẩy xe, lần này là dọc theo con đường đất ven sông, tới bãi đào đất. Ở đây, những
tảng đất sét vuông vức đã được xắn lên, để lại những cái hố chữ nhật nằm so le,
dày đặc trên bãi sông.

Mộc Nhĩ dừng lại một lát
khi tới bãi đào đất. Nó đã nhiều lần đi ngang qua những cái hố này và lần nào
cũng say sưa ngắm chúng, những khối hình vuông vắn tạc vào bờ đất sét khiến nó
thích thú. Nhưng hôm nay nó có cảm giác như lần đầu tiên được gặp những người
đàn ông và những cậu bé làm việc ở đây.

Họ xắn lưỡi thuổng vào
đất mới lẹ làng làm sao, khó có ai theo kịp. Từng tảng đất được xắn gọn bằng
thuổng, bị bứng lên và ném vào xe đẩy hoặc vào thúng mủng gần đó.

Mộc Nhĩ nhìn cái thuổng
của ông Min đang trên vai nó. Sau đó nó lội xuống bãi đất ngập bùn và đứng ở
chỗ nước nông. Giơ cái thuổng lên cao quá vai, nó bổ xuống đánh phập một cái.
Lưỡi thuổng xắn ngọt vào lớp đất sét ướt. Mộc Nhĩ hài lòng nhìn đường cắt thẳng
thớm của lưỡi thuổng. Nó giật mạnh cán thuổng, sẵn sàng xắn nhát tiếp theo.

Nhưng cái thuổng không
nhúc nhích, Mộc Nhĩ nhíu mày và lôi lại lần nữa. Lưỡi thuổng bị đất ướt mút
chặt nên chẳng suy suyển gì. Mộc Nhĩ dùng cả hai tay lay cán thuổng. Lớp đất
dưới chân nó phát những tiếng lọp phọp, òng ọc như thể đang cố nuốt chửng cái
thuổng.

Rốt cục, Mộc Nhĩ buộc
phải cào bớt đất quanh lưỡi thuổng để nới lỏng nó ra. Tay chân cậu lấm lem bùn
đất. Cậu ngừng tay để xua một con muỗi, quệt lên má một vết bùn dài. Cuối cùng,
cậu đứng lên, lay cái thuổng lần nữa và giật thuổng lên.

Mất đứt buổi sáng Mộc Nhĩ
mới đổ đầy xe đất sét. Những tay đào đất khác đã về từ đời nảo đời nao, họ xắn
đất bằng những động tác nhanh gọn và bỏ lại Mộc Nhĩ một mình trong tuyêt vọng.
Nặng ghê! Đất sét ướt nặng hơn nó tưởng tượng rất nhiều. Mộc Nhĩ không thể dùng
thuổng bứng cả tảng đất sét lên; đành cắt mỗi tảng vài cục nhỏ hơn, mỗi lần bốc
một cục bỏ lên xe. Xong việc, nó cau có nhìn đống đất sét dị dạng trong xe,
thật khác một trời một vực với những khối đất vuông thành sắc cạnh của những
người thợ khác.

Hơn nữa, làm việc với cây
thuổng lại khiến vết phồng rộp trong lòng bàn tay lại toác miệng ra lần nữa.
Nhưng lần này không quá đau như lúc trên triền núi, bởi vì Mộc Nhĩ có thể đắp
những nắm bùn mát lạnh, mịn màng lên vết thương.

Tới lúc chiếc xe đã chất
đầy thì bùn cũng nhuộm người nó suốt từ đầu đến chân. Trán nó đóng một lớp bùn
dày cứng ngắc, đến nhướng lông mày cũng khó. Thằng bé mệt lử và ý nghĩ phải đẩy
chiếc xe nặng trĩu này về nhà ông Min khiến nó rùng mình.

Đúng lúc đó, một ý nghĩ
chợt lóe lên trong đầu nó - bữa ăn trưa! Nhọc nhằn vất vả suốt buổi sáng, nó đã
quên mất bữa trưa. Thợ học việc, thợ phụ, những người thợ tầm thường nhất trong
mọi nghề - dù họ là gì đi chăng nữa thì bổn phận của một người chủ là phải cho
họ một bữa ăn trưa. Bây giờ, Mộc Nhĩ không còn làm việc để trả nợ nữa, ông Min
buộc phải nuôi cơm nó. Ý nghĩ này đủ sức xua đuổi mọi mệt nhọc của thằng bé mồ
côi, tựa hồ tia sáng mặt trời xuyên thủng đám mây.

Nó bỏ xe lại trên đường
và nhảy ùm xuống sông, kì cọ, khỏa nước và lặn ngụp thât sâu ráng hết sức tống
khứ cáu ghét đi. Không đời nào nó chịu xuất hiện trong bữa ăn của ngày làm việc
đầu tiên với thân hình như vừa được móc từ dưới cống lên.

Ông Min liếc sơ xe đất.
“Làm gì mà lâu thế,” ông nói, khịt khịt mũi. “Từ giờ cho tới sau bữa trưa, tao
còn làm thêm gì được nữa.”

Ông bước vào nhà, không
đả động gì đến bữa ăn trưa. Nó còn chưa kịp thắc mắc thì bà vợ ông đã xuất hiện
ở ngưỡng cửa. Bà chìa ra một cái gói vải.

Mộc Nhĩ bước nhanh đến
cửa, cố kiềm chế để khỏi vồ lấy cái gói từ tay bà. Nó cúi đầu, chắp hai bàn tay
lại theo phong tục khi nhận cái gì đó từ tay người lớn.

Bà Min đặt gói vải vào
tay nó. “Ăn ngon, làm khỏe nhé,” bà nói.

Một cái gì nong nóng dâng
lên cổ họng Mộc Nhĩ. Nó ngẩng đầu lên. Ánh mắt bà cho thấy bà đã nghe được lời
cảm ơn của nó cho dù nó không sao nói được thành lời.

Mộc Nhĩ ngồi xuống tảng
đá dưới gốc cây bào đồng, tháo các nút buộc tấm vải ra. Bên trong là một cái
bát làm từ quả bầu khô chứa đầy cơm. Màu trắng nõn nà của những hạt cơm được tô
điểm bởi vài miếng cá khô mặn sẫm màu và vài lát kim chi - món bắp cải muối đậm
màu sắc của các gia vị như ớt đỏ, hành lá và tỏi. Một đôi đũa đặt ngay ngắn
ngang miệng bát.

Mộc Nhĩ cầm đôi đũa lên
và ngắm nghía bữa ăn hồi lâu. Có một điều mà nó biết rõ: sơn hào hải vị trong
cung vua cũng không thể ngon bằng bữa ăn đạm bạc trước mặt, bởi vì nó phải đổ
mồ hôi mới có bữa ăn này.

Buổi chiều, Mộc Nhĩ chở
thêm một xe đầy đất sét nữa cho ông chủ, sau đó quay về chỗ cây cầu, nơi bác
Sếu đã hầm một ít nấm dại cho bữa tối của hai bác cháu. Mộc Nhĩ hào hứng kể lại
công việc trong ngày của nó. Mãi tới khi bác Sếu đứng lên thu dọn chén đũa, Mộc
Nhĩ mới nhận thấy hình như thiếu thiếu cái gì đó.

Cái nạng. Đúng thế, sau
khi đưa bát cho Mộc Nhĩ ra cửa sông rửa, bác Sếu ngồi xuống với con dao và một
cành cây thẳng thớm cứng cáp, bắt đầu đẽo gọt một cây nạng mới. Mộc Nhĩ lau
bát, xếp gọn gàng lên bệ đá, rồi quay ra hỏi:

“Cái nạng cũ của bác đâu
mà phải làm cái mới?”

Bác Sếu ngừng tay dao, vẻ
nôn nóng. “Chà, chuyện vớ vẩn ấy mà,” bác trả lời. “Này, hôm nay cá bơn di cư
đấy.”

Bác Sếu chỉ nói có vậy,
nhưng Mộc Nhĩ nghe được nhiều hơn thế. Mặc dù Chulpo nằm bên bờ biển, nhưng nó
là làng gốm, không phải là làng chài. Đàn ông và trai tráng trong làng hiếm khi
bớt chút thời gian làm gốm để đi đánh cá.

Tuy nhiên, tất cả họ đều
thông thạo việc đánh bắt cá. Đám đàn bà con gái trong làng thường đi cào nghêu
sò lúc nước triều xuống.

Nói cá bơn di cư nghĩa là
bầy cá ngon tấp vào bờ gần hơn thường lệ; thậm chí có con sóng còn ném cá thẳng
lên bãi cát. Một cái tin như thế khiến khối người phải vơ vội lấy những cây sào
tre của mình. Nhưng bạn phải ở trong số những người đầu tiên ra bờ biển. Cá bơn
rất nhanh, nhoáy một cái đã tìm được đường trườn xuống nước. Chỉ những tay lanh
lợi nhất mới có cơi hội xúc được những con cá đang giãy đành đạch trên bãi cát.

Mộc Nhĩ bao giờ cũng là
kẻ đầu tiên phóng ra bãi biển khi nghe tin cá bơn di cư, và chưa bao giờ nó trở
về mà không có một hay hai con cá béo ngậy cho một bữa tiệc thịnh soạn nhưng
hiếm hoi của hai bác cháu. Bây giờ không cần hỏi, Mộc Nhĩ cũng biết bác Sếu đã
cà nhắc lần xuống bãi biển, loạng choạng một hồi trên bãi cát vốn hay đùa ác
với cái nạng, và chỉ còn cách tay trắng ra về.

Bác Sếu chuốt thêm mấy
nhát dao rồi giơ cây nạng ngang mặt, nheo mắt kiểm tra xem nó đã thật thẳng
chưa. “Chẳng chụp được con cá nào,” bác thủng thẳng nói và lại tiếp tục đẽo
gọt, “Ta tức mình đập cây nạng vào một tảng đá. Rốt cuộc bây giờ phải làm cái
mới!”

Mớ dăm gỗ dưới chân bác
Sếu cao dần. Mộc Nhĩ cúi xuống, lùa mấy ngón tay vào đống dăm, xấu hổ không dám
nhìn lên. Nó hình dung cảnh bác Sếu trên đường từ bãi biển trở về, chậm chạp và
đau đớn, cây nạng đã gãy, chẳng còn gì để chống mà đi cho vững. Đã vất vả như
vậy lại không bắt được lấy một con cá nào, hẳn bác khổ tâm lắm. Không hiểu sao
trong lúc nhấm nháp bữa trưa ngon lành nó lại quên phứt người bạn già! Nhẽ ra
nó phải để dành cho bác Sếu ít đồ ăn. Nếu đổi ngược lại, chắc chắn bác Sếu
không bao giờ quên nó.

Mộc Nhĩ hốt ít dăm bào
vào lòng bàn tay đoạn ném xuống sông. Nhìn mớ dăm bào trôi theo dòng nước, nó
lẩm bẩm, “Con rất tiếc về chuyện cá bơn.”

Bác Sếu nói: “Hẳn con lấy
làm tiếc về cái chân này chứ gì. Vì nó mà tối nay bác cháu ta không có cá ăn.
Nhưng theo ta, đừng phí thời giờ buồn phiền về những chuyện mà chúng ta không
thay đổi được.” Bác Sếu đứng dậy miệng làu bàu, rồi dựa hẳn người vào cái nạng
mới để thử.

Bác hài lòng, gật đầu với
Mộc Nhĩ. “Với lại sau khi giã từ trần thế, ta sẽ có một đôi chân khỏe mạnh,
không cần đến cái này nữa,” bác vỗ nhẹ lên cây nạng.

Vẫn còn tự giận mình, Mộc
Nhĩ lẩm bẩm trong họng: “Một số kẻ trong chúng ta sẽ có những bốn cái chân khỏe
mạnh cơ đấy”.

Bác Sếu vung cây nạng mới
quất Mộc Nhĩ một cái. “Mày nói gì vậy, thằng láo lếu kia? Vậy kiếp sau ta sẽ là
súc vật hay sao?”

Mộc Nhĩ cãi. “Không, con
tự nói về mình đấy...” Chợt nó im bặt rồi ngoác miệng ra cười. “Mà, cũng có thể
con sẽ là một con thỏ. Thỏ rất nhanh và khôn...”

“Mày nên nhanh nhẹn ngay
lúc này đi!” - bác Sếu vờ nạt, khua nạng lên như múa kiếm. Mộc Nhĩ nhảy tưng
tưng như con thỏ quanh cái hang lụp xụp của họ để né tránh những cú đâm ngang
chọc dọc của bác Sếu. Chỉ trong chốc lát, nỗi xấu hổ của nó đã bị quên lãng và
ngày hôm đó chấm dứt trong tiếng cười giòn giã.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3