Ngang trái phủ Tây Hồ - Chương 02

2

Dinh quan đại tư đồ Lê Sát rộng hàng mấy mẫu. Bốn bề tường dày như
tường thành. Nhà sang như cung điện. Cột lim kén chọn kỹ như làm đình chùa.
Người ta nói, quan đại tư đồ, xây một lúc ba ngôi chùa lớn ở kinh đô, để che
lấp việc xây dinh thự cho riêng mình. Lê Sát cũng tự kiềm chế mình. Ông khẽ bảo
người được ủy thác làm dinh cơ cho ông, liệu xây dựng cho một vừa hai phải,
nhưng trò đời, người được giao việc ai chẳng muốn được lòng quan tể tướng, nên
lầu thưởng nguyệt, nơi đọc sách, chỗ tiếp khách, nhất nhất đều lộng lẫy, nguy
nga. Hôm nay, Lê Sát gọi Trịnh Hoàng Bá đến. Bá vốn là người nịnh Lê Sát để cầu
tiến thân, chính y cầm đầu vụ phao tin là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, hai
đại thần vua yêu mà bọn Lê Sát, Lê Ngân cũng phải nể sợ, có ý làm phản, do đó
Hãn và Xảo đều bị hại… Sau đó, bọn Trịnh Hoàng Bá lại bày mẹo cho Lê Sát khiến
vua ghét cả Trịnh Khả, đầy ra làm quan ở các đạo, không được ở trong triều…
Trịnh Hoàng Bá sau này, nịnh bợ nhiều lời lẽ lộ liễu, khiến Lê Lợi lúc sắp mất
nhận ra, có dặn các đại thần rằng: bọn tiểu nhân như lũ Trịnh Hoàng Bá, Đinh
Bang Bản là không nên dùng. Bang Bản có họ hàng với Đinh Thắng, lại mò đến cầu
cạnh. Đinh Thắng đem thư của Trịnh Hoàng Bá và Bang Bản đưa cho Lê Sát. Sát bèn
bảo Lê Quốc Hưng ở nội mật viện gọi về, ý muốn dùng. Trong khi chờ tâu vua ban
chức, Sát cho bọn Hoàng Bá, Bang Bản làm môn khách ở nhà để tiện bề sai khiến.
Bá và Bản xin được coi việc xây dựng dinh thự… Bọn chúng ra sức làm vừa lòng Lê
Sát.

Sát bảo Bá và Bản:

- Hôm nay, ta vào triều đình tâu xin cho việc phục chức cho các
người. Các ông thấy đấy: Trịnh Khả từ biên trấn vừa về, bọn Lương Đăng, Đinh
Thắng đã bâu lấy. Nguyễn Trãi vừa ở Côn Sơn về, bọn Lương Đăng, đám văn thần
như bọn Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, Bùi Ư Đài lại ngo ngoe… Lê Khuyển được
ta lôi về làm chỗ dựa thì như thiên lôi chỉ đâu đánh đấy. Lê Khắc Phục chống
đối ta ra mặt. Tư khấu Lê Ngân từ buổi đưa con gái vào cung làm Huệ Phi, thì có
việc qua mặt ta không hỏi. Người của ta vặn ông, ông nói: Ông Sát với ta bây
giờ cùng là quốc cữu, việc ta làm đúng việc gì phải hỏi quan tể cho rắc rối. Vả
lại nhiều việc quan đại tư đồ cứ tự ý làm, có hỏi ta đâu… Quyền lực giờ chia
năm sẻ bảy, Đức vua còn nhỏ, ham chơi, ta lo cho việc triều chính lắm!

Lê Sát ngừng một lát rồi tiếp:

- Ta muốn hai ông làm chân tay thân tín, nhưng cũng phải dần dần.
Ta định đưa các ông về ngự sử đài, làm việc cùng bọn Bùi Cầm Hổ, Bùi Ư Đài, cái
bọn quan can gián, việc gì ta làm, chúng cũng hay chõ mồm vào. Các ông ở bên
ấy, một mặt lấy lòng họ, nhưng là theo dõi hành vi của họ cho ta.

Trịnh Hoàng Bá ranh mãnh nói:

- Có lẽ quan tướng gờm Nguyễn Trãi nhất!

- Đúng thế. Người này đa mưu túc kế lại được lòng bọn nho sĩ… Bây
giờ ông ta lại nhận di chiếu làm thầy Đức vua, có nghĩa là, vài năm nữa khi nhà
vua khôn lớn, thế lực của ông ấy sẽ lấn bọn ta… Ta phải lo từ bây giờ mới được.

Bang Bản ngồi lặng thinh không nói.

Lê Sát mặc triều phục vào chầu, ông lên kiệu, lộng lẫy tàn lọng,
loa dẹp đường dài mấy phố còn vọng phía trước phía sau.

Vua thiết triều. Lê Ngân, Lê Sát ngồi chầu bên cạnh, hàng dưới là
Nguyễn Trãi, Trịnh Khả…

Vua phê chuẩn sứ bộ do Thái Quân Thực làm chánh sứ, và giao cho
Nguyễn Trãi lo sớ cầu phong với nhà Minh.

Bùi Thời Hanh xuất ban tâu:

- Tâu Hoàng thượng, thần xem thiên văn năm nay có thể có nhật
thực.

Vua hỏi:

- Có phải gấu ăn mặt trời không?

- Dạ phải!

- Như vậy tốt hay xấu?

- Tâu Thánh thượng, cơ trời không thể tiết lộ chỗ đông người.

Vua quay lại hỏi Lê Sát:

- Quan đại tư đồ thấy thế nào?

Lê Sát nói:

- Thần xin được bàn bạc với Bùi Thời Hanh!

- Khanh xem công việc thế nào rồi tâu lại cho Trẫm biết.

- Tâu Thánh thượng, ắt phải như thế. Nhưng điềm trời là chuyện tất
yếu xẩy ra. Lo việc triều đình không gì bằng lo phòng thủ tốt biên trấn. Mà,
tướng ra ngoài biên ắt phải là người tin cẩn. Thần tâu xin để quan Tư Mã Trịnh
Khả lên trấn giữ Lạng Sơn, cho Bùi Cầm Hổ là văn thần lo giúp việc phủ dụ dân
chúng. Thay Bùi Cầm Hổ, làm các việc ở Ngự Sử Đài, thần nghĩ là Phan Thiên
Tước!

Vua ngồi lâu đã chán, không muốn nghe các việc nữa, liền truyền:

- Việc đó tùy khanh!

Sát biết vua bây giờ chỉ nghĩ đến chuyện tan chầu để vào nghịch
ngợm trong vườn thượng uyển, liền tâu:

- Vừa qua, Đức Thái Tổ đã phạt tư mã Lê Nhân Chú. Em Chú là Lê
Khắc Phục, tỏ vẻ bất bình nói năng bừa bãi, để Phục coi quân ngự lâm e không
tiện, thần xin cho hắn xuống coi đám tù nhân.

- Chuẩn tấu!

- Thần nghĩ: Người cúc cung tận tụy nên dùng. Bọn Trịnh Hoàng Bá –
Nguyễn Quốc Khí trước tâu việc Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo có ý kia khác là
cũng do tấm lòng trung vua, tha thiết với vương triều! Sau đó Bá và Khí nói
thẳng bị nhiều người ghét, nên tâu lên nhiều việc chưa biết phải trái ra sao…
Thái Tổ để vừa lòng đôi bên đã biếm Bá và Khí làm quan ở lộ, trấn xa. Nay thần
nghị Ngự Sử Đài đang thiếu người có thể bổ sung vào chỗ ấy.

- Bùi Ư Đài vốn là một người nóng nẩy. Lê Sát từ nãy đến giờ toàn
tâu việc có ích cho mình, không nhường lời cho người khác! Thấy lúc có thể nói
được, Đài bước ra, nói:

- Tâu Thánh thượng, Ngự Sử Đài là chỗ của những người có học vấn
uyên bác. Đến thần đây, nghiền ngẫm những lời ghi chép ở trong triều ngoài nội,
đều được chỉ dẫn của các vị túc nho như các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng
Tuân. Thần sợ các ông Trịnh Hoàng Bá, Nguyễn Tông Chí không cáng đáng nổi!

Vua chưa kịp ban lời, thì Bùi Cẩm Hổ đã tâu rằng:

- Khi đức Thái Tổ băng hà người có dặn, bọn Trịnh Hoàng Bá là đồ
tiểu nhân, không thể tin cậy được, bọn chúng có ý sát hại hai gia đình Phạm Văn
Xảo và Trần Nguyên Hãn quá lộ liễu, trăm quan ở đây ai cũng biết, nay lại đưa
chúng vào chỗ Ngự Sử Đài, thần e là không phải chỗ, xin Thánh thượng xem xét.

Nguyễn Thiên Tích cũng tâu:

- Ngôn quan là những người nói lời trung thực, khi đã có một đôi
lần nghi ngại của trăm quan, thì không nên bổ nhiệm vào!

Vua nghe theo. Lê Sát hậm hực ra mặt.

Sau khi chầu vua về, Nguyễn Trãi ở lại cùng phái bộ xin cầu phong
làm việc với quan đại tư đồ Lê Sát. Cùng tiếp Trãi còn có đô đốc Lê Vấn, mặt
giận hằm hằm. Thấy Nguyễn Trãi bước vào, phong độ ung dung, lòng thanh thản đến
nỗi, khiến hai ông tướng võ hơi bất ngờ. Lê Sát cầm trong tay tờ tâu, hỏi:

- Ông Trãi, có phải hôm nay ông mắng Nguyễn Thúc Huệ không?

- Thưa quan đại tư đồ, quả như thế!

- Thúc Huệ có chuyện gì mà ông nặng lời thế!

- Việc đem đồ cống sang nhà Minh là một gánh nặng của triều đình.
Riêng hai người đúc bằng vàng, bao nhiêu sản phẩm có giá trị của đất nước đều
phải dâng nộp cả! Mà trong nước thì thiên tai, hạn hán, người có tâm huyết
không thể không đau lòng.

Đô đốc Lê Vấn còn chưa nguôi giận hỏi:

- Có phải ông mắng bọn ta vơ vét thuế má mất lòng dân, để trời
giáng họa phải không?

Nguyễn Trãi cười nói:

- Quan đô đốc lầm rồi, thuộc hạ dưới quyền tôi, có điều sai sót,
tôi cũng chẳng bao giờ nói nặng! “Tôi nói Thúc Huệ rằng: Bọn các ngươi là lũ
được lệnh vua đi vét thuế, đại hạn này là do các ngươi gây ra cả!”

Vấn tức lắm, xách hỏi:

- Sách vở nói rằng, làm trái luật trời để đến nỗi hạn hán là lỗi
vua và tể tướng. Ông chẳng lẽ không biết sao, mà mắng Thúc Huệ thế?

Nguyễn Trái thành thực nói:

- Lúc ấy nhìn mặt gian Nguyễn Thúc Huệ, tôi không kìm được, lỡ
lời. Huệ gian giảo lắm, tôi được biết, Huệ cố vơ vét thuế má, cống phẩm rất ráo
riết, mang về đem biếu các quan, tỏ vẻ mẫn cán, lại đẹp ý của vua, muốn việc
cầu phong được êm lành. Ngoài ra, Thúc Huệ và lũ người đi lo cống phẩm còn ngầm
ngấm đóng riêng hàng hòm của cải, hạng người như thế chẳng đáng giận sao. Tôi
mắng Huệ, chứ dám đâu nói các Ngài. Còn việc tâu lên cũng là muốn giãi bầy mong
phủ Tể tướng và Đức vua biết đến việc Huệ đã làm mà thôi!

Lê Sát và Lê Vấn thôi không nói gì cả. Nguyễn Trãi ra về. Vấn bảo
Sát:

- Ông có chữa lời tâu của Nguyễn Trãi không?

Sát cũng không thích thói muốn gì làm bằng được của Vấn, liền nói:

- Việc ấy ông để tôi làm.

- Ông không sợ Hoàng thương nghi chúng ta ăn của đút của Nguyễn
Thúc Huệ ư?

Sát xẵng giọng:

- Nó là nó, mình là mình! Can gì mà ông cứ ấm ức thế!

Rồi để nguyên tờ tâu của Nguyễn Trãi không chữa một chữ nào cả!

*

Nguyễn Trãi lòng buồn rượi. Thanh bình rồi, tưởng đuổi giặc Minh
xong, mọi việc được thi thố như lòng khao khát hóa ra thời bình còn khó hơn
thời chiến.

Trãi nhớ lại, trước khi Trần Nguyên Hãn bị giam, có đến thăm, Hãn
nói muốn về quê. Trãi ngạc nhiên hỏi:

- Sao anh lại sớm thoái chí thế.

Hãn cười rất to nói:

- Tôi tưởng ông đọc thiên kinh vạn quyển, giỏi hơn tôi, hóa ra ông
lại dốt hơn tôi. Quan văn dốt hơn quan võ à? Không có lý.

Nói rồi Hãn cười ầm lên!

Trãi đỏ tai, hỏi:

- Anh nói gì mà khinh bạc thế?

- Khinh bạc à? Thế ông không nghe nổi ư? Ông có biết Câu Tiễn
không? Cái thằng môi vừa dày vừa thâm, mắt trắng dã ấy… Lúc nó nếm cứt cũng nếm
được, lúc nó ép mình ăn mắm giòi cũng được. Nhưng khi nó được ngai vàng, thì
Văn Chủng là người thân cận trung thực nhất nó cũng hại. Phạm Lãi là người có
công đầu nó cũng gờm. Vì thế triều chính còn đâu vua tôi một lòng, người giỏi
phải ở hàng đầu, người có công phải được ban thưởng như thời chiến… Vàng bạc là
những thứ chói sáng lại làm đen lòng người, danh vọng là một loại đèn ma quái,
lúc sáng lúc tối mà nhiều người vẫn theo hướng chỉ đường của nó! Buồn thay!

Trãi thở dài, hỏi Hãn:

- Tôi ở đây chỉ còn anh là nềm vui, sao anh lại tách tôi ra khỏi
anh thế?

Hãn bớt hận đời, ngồi thừ ra. Trãi nhìn Hãn, càng thương càng quý.
Trước lúc ra về, Hãn mới nói:

- Lê Lợi cũng chẳng khác gì Câu Tiễn đâu. Anh lui về trang ấp
trước đây, em ở lại kinh đô, liệu mà giữ mình.

Trần Nguyên Hãn đi rồi. Ít lâu sau bọn Lê Sát cũng không tha, truy
hỏi, và sai người về tận quê Hãn bắt về triều hỏi tội, vu cho ông có ý kinh vua
làm phản. Ông đã ôm đá nhảy xuống ngã Ba Hạc mà tự tử. Cái chết của Trần Nguyên
Hãn khiến Nguyễn Trãi cũng bị liên lụy, gạn hỏi, bị Lê Lợi tức bực thậm chí
muốn hại luôn cùng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, song, bởi vì tiếng tăm của
Nguyễn Trãi lớn quá, giết Trãi, kinh động cả đô thành nên Lê Sát mới đành để
cho Nguyễn Trãi lui về Côn Sơn.

Trãi buồn lắm. Không muốn can dự vào việc triều đình nữa. Nhưng
khi vua Lê ốm, cho Nguyễn Mộng Tuân đích thân cầm mật thư đến triệu Trãi về.
Nghe chiếu vua xong, Mộng Tuân nâng Nguyễn Trãi dậy, mở ra đọc. Chữ vua run
rẩy, lệch cả hàng:

Gửi ông Trãi:

Ta ốm nặng không thể qua khỏi. Việc cũ rất khó nói. Ta đã biết
mình không phải với ông, và cả ông Hãn và ông Xảo nữa. Lúc làm vua, nghe bọn
quyền thần, ta không nhận ra; chỉ lúc gần đất xa trời mới hối tiếc kiếp người
của mình có nhiều điều lầm lỗi. Con ta nhỏ quá. Ông nên về. Ta mong ông lắm!

Lợi.

Nguyễn Trãi xem thư cắn môi, thừ người mắt rưng rưng muốn khóc.
Mọi bực bội, ông quên hết. Ông bảo Nguyễn Mộng Tuân:

- Sứ giả nhà vua chắc đói. Đáng lý tôi tiếp ông, song vua mong tôi
lắm. Ông hãy ăn một mình, để tôi dặn dò gia nhân rồi lên đường ngay.

Nguyễn Mộng Tuân nhìn bạn khẽ gật đầu!

Lần cuối cùng tiếp vua, ông càng thấy sự chân thành nhờ cậy. Với
Lê Lợi, ông vừa là nghĩa vua tôi, vừa là tình bạn cũ. Hồi vào yết kiến Lam Sơn,
dâng Bình Ngô Sách, Bình Định Vương Lê Lợi, không ngày nào không ngồi tâm đắc,
bàn bạc chuyện nước, chuyện đời riêng với ông…!

Ông về kinh đô muộn quá! Đó là những phút chót của đời Thái Tổ. Vua
chỉ nói được đôi lời rồi tắt thở! Nhưng quả thực, ông ta là một bậc anh hùng.
Tiếc rằng, chí lớn và sự từng trải của ông còn thiếu hụt một điều cần thiết:
học vấn.

Đời người là tổng hòa của những điều trái khoáy. Bước vào tuổi năm
mươi, Nguyễn Trãi vẫn còn những chí lự lớn. Ông coi lợi danh thật nhỏ. Ông cũng
chẳng muốn ganh đua quyền chức với ai! Danh vọng của ông tự tạo lấy. Nợ nước,
thù nhà coi như đã trả… Nếu học kiểu chơi năm hồ như Phạm Lãi, thì một Côn Sơn
của ông cũng đủ thanh nhàn.

Ông nhớ lại đêm gặp Nguyễn Mộng Tuân ở kinh thành sau buổi chầu
vua…

Nguyễn Mộng Tuân hỏi:

- Ông về lại kinh thành có còn được hăm hở bằng khi vào Lam Sơn tụ
nghĩa không?

Nguyễn Trãi cười:

- Nửa đời người rồi, bao nhiêu tinh hoa dồn cho phía trước cả, bây
giờ làm được gì thêm nữa đâu, hở ông bạn thân thiết của tôi!

- Tài của ông đến Hoàng Phúc phải gờm, Vương Thông phải sợ. Liễu
Thăng, Lý Khánh nộp mạng. Thái Phúc biết phận phải hàng. Bao nhiêu anh tài
Trung Hoa còn chịu thua ông, huống chi một cõi Việt nhỏ bé này!

- Ông nói thế là chỉ dẫn tôi vào cõi chìm đắm thôi!

Nguyễn Mộng Tuân rót trà thơm cho bạn rồi cầm tay ân cần nói:

- Ông Trãi, ông Trãi! Đuổi giặc rồi công việc đã xong đâu. Sao vội
về thế! Nếu không ra sức gắng gỏi thêm thì xương máu bao nhiêu người đổ xuống,
một sớm một chiều cũng uổng phí thôi! Ông chắc lòng dạ cũng như tôi… Nước mạnh,
dân giàu, nhân tài tụ hội đầy triều, người giỏi bịt miệng được kẻ quyền thần đó
mới là phúc lớn của quốc gia!

Nguyễn Trãi nói:

- Quả có thế, nhưng sự đời nhiều nỗi lắm! Lòng thành đâu có phải
lúc nào cũng thực thi được!

Nguyễn Mộng Tuân nói:

- Cột trụ là thứ đỡ được cả ngôi nhà. Kèo, xà dễ kiếm, cột trụ thì
soi cả rừng họa may chỉ được một vài cây!

Nguyễn Trãi cười tủm tỉm.

- Ông Nguyễn ơi, ông khinh bạc thế! Triều đình này cũng khối cột
trụ to đấy chứ!

Nguyễn Mộng Tuân nói:

- Đứng ở vị trí cột trụ thì nhiều, nhưng vững chãi bền bỉ được
cùng với ngôi nhà đẹp, đó mới là một điều khó!

Nguyễn Trãi gật gù nói:

- Ông không là cột trụ sao!

- Văn chương, tài trí nước Nam này, chỉ có một mình ông. Ông phải
ra giúp vua trẻ. Lê Sát có lòng nhưng không muốn ai được tin cậy bằng mình. Lê
Nhân Chú không thích ông ta, vua yêu đến thế, mà cũng bị giết, bởi vì Chú hay
đi lại với Quận Vương Tư Tề. Tư Tề có phải là người điên đâu. Chẳng qua là Lê
Sát đưa người phao tin Quận Vương trách vua cha mà ông thấy bị sơ thôi chứ! Lê
Sát tính việc xa lắm. Tư Tề có đánh giặc cùng Đức vua, biết mặt các đại thần,
lại là người trầm ngâm ít nói, có thể làm việc lớn. Xưa nay, vua giỏi thì tể
tướng không thao túng được. Mà Lê Sát thì thích quyền hành. Do đó mới có ý phù
trợ thái tử Lê Nguyên Long…

- Đức vua mới cũng đáng ngôi hoàng đế lắm chứ. Tôi cho rằng thiên
tư của ngài rất dĩnh ngộ!

- Đúng vậy, nhưng việc phế con trưởng, lập con thứ không phải là
điều tốt xưa nay. Vả lại vua mới non trẻ quá! Mà Hoàng Thái Hậu lại mất từ hồi
còn trẻ. Do đó, phò vua Thái Tôn, tức là Lê Sát được thỏa chí tung hoành. Ông
xem, chỉ ít lâu nữa, triều đình chỉ còn một loại để ông ta sai khiến!

Nguyễn Trãi thở dài:

- Trời ơi, ông Nguyễn, tâm huyết với quốc gia, ông còn gấp mấy
Trãi. Tài đức của ông kém gì Trãi sao ông không ra làm cột trụ…

Nguyễn Mộng Tuân nói:

- Đức ông cho tôi triệu bằng được ông về, chính là Người đã nghĩ
ra được những điều hợp với lẽ trời đất! Thái Tổ rất mong đất nước mãi thịnh
trị… Lời cáo Bình Ngô ông viết, Đại Việt là một cõi văn hiến. Mà, văn hiến là
sống, quyền lực là chỗ dựa. Quyền lực vì văn hiến mà duy trì đó là đời thịnh.
Quyền lực mà dập vùi người tài thì quyền lực trước sau cũng lụn bại, bởi người
tài, chính là gốc của văn hiến!

Trãi nói:

- Tôi mệt mỏi lắm rồi. Tài cán chỉ chuốc họa vào thân. Gió trăng
là kho vô tận của Trời Đất. Tôi chọn cái thứ hai, không chọn cái thứ nhất.

Tuân nhìn thẳng vào mắt Trãi:

- Vậy là ông chọn cái thênh thang của một mình ông, mà quên đại
nghĩa. Viết Bình Ngô đại cáo, chí lự chẳng lẽ lại tồi tệ vậy sao?

Nguyễn Trãi nhìn bạn, không lộ vẻ tức giận lại rất hòa nhã:

- Điều tướng bất như khích tướng. Ông xúi tôi làm việc gì bây giờ!

- Một ngày để Lê Sát lộng quyền là một ngày đất nước chịu thiệt
thòi và phải trả giá về sau không biết bao nhiêu mà kể. Kẻ võ biền cậy có mấy
nghìn quân ngự lâm, mà ép vua nhỏ. Bọn hoạn quan cậy thế gần vua, cũng định nối
bước Cao Cầu, nhăm từ nghề xu nịnh mạt hạng, để giữ ngôi cao nhất nước. Đám
người trung thực, hiểu biết, có thể phò vua giúp nước đang bị lấn át, vậy mà
ông điềm nhiên được sao?

Nguyễn Trãi thở dài:

- Chống trời chẳng có cột nào chống nổi. Vận nước thịnh suy, bĩ
thái là lẽ thường. Nhưng thôi kiếp người có một lần, tôi cũng chẳng tiếc gì
chút trăng trong, gió mát ở Côn Sơn, tôi nghe ông, về phò vua trẻ vậy!

Và Nguyễn Trãi về. Chỉ có mươi ngày mà hết đụng độ lớn, đến đụng
độ nhỏ. Đám văn thần, phần lớn là bạn bè và học trò của ông, tuy mừng rỡ ra mặt
nhưng mỗi người lại có một kiểu cách riêng. Họ nghe ông về kinh đô, lũ lượt đến
thăm, khiến Lê Sát cũng khó chịu. Ông thì luôn cẩn trọng giữ ý. Bùi Ư Đài, dẫu
có học nhưng thẳng ruột ngựa, tính nết chẳng khác gì một kẻ võ biền. Bùi Cầm
Hổ, Phan Thiên Tước, ỷ thế nắm được những bí mật của những việc lộng quyền, mà
ăn nói có nhiều khi sơ suất. Nói trước mặt vua, trước mặt triều đình để cho mọi
người biết phải trái, nhưng đại tư đồ, tư khấu vẫn là người ghi nhận, điều hành
mọi việc! Điều đáng gờm vẫn chính từ họ… Nguyễn Trãi mệt mỏi, uể oải trả lời
Nguyễn Mộng Tuân:

- Ông tài hoa, chí lự nào kém gì tôi, sao chỉ đẩy người ra đối
mặt, còn mình thì lại đứng ở sau cánh gà. Nghĩa lớn một người không làm nổi!
Ông luôn luôn nói điều ấy, để rồi xem, ông có phải là người dám ghé vai trước
những chuyện tày trời không?

Tuân biết Trãi bực bội vì mình nói quanh, không vì thế mà giận
bạn, chỉ nhẹ nhàng tự giễu:

- Nguyễn Mộng Tuân vốn chịu tiếng là kẻ nửa đời, nửa đoạn. Chính
vì chí hèn nên mới cậy cục đến ông. Chỉ mong ông hiểu cho đó là những lời tâm
huyết, vì tình bạn giữa tôi và ông, vì việc nước trước mắt và lâu dài, chứ
không có ý nghĩa gì khác!

Biết mình quá lời, Nguyễn Trãi thở dài và xin lỗi Nguyễn Mộng
Tuân.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3