Các Mặt Trăng của Sao Mộc - Chương 02 (Hết)

Tôi nói tôi cần đi
nhà vệ sinh. Tôi đến phòng y tá và tìm thấy một người phụ nữ tôi nghĩ là y tá
trưởng. Cô có mái tóc màu bạc, tử tế, và vẻ nghiêm trọng.

“Có phải là ba tôi
sẽ giải phẫu sau ngày mai không?” Tôi hỏi.

“Ồ, đúng vậy.”

“Tôi chỉ muốn nói
chuyện với ai đó về vấn đề này. Tôi nghĩ đã có một quyết định cuối cùng là tốt
hơn ông không nên. Tôi nghĩ đó là vì tuổi của ông.”

“Nhưng, đó là quyết
định của ông và của bác sĩ.” Cô ấy mỉm cười với tôi bình thản. “Thật khó để lấy
các quyết định này.”

“Những thí nghiệm
của ông thế nào?”

“A, tôi không nhìn
thấy tất cả.”

Tôi chắc chắn cô đã
có xem. Sau một lúc, cô nói, “Chúng ta cần phải thực tế. Nhưng các bác sĩ ở đây
rất tốt.”

Khi tôi quay trở
lại vào phòng, ba tôi nói, bằng một giọng ngạc nhiên, “Biển không bờ.”

“Ba nói cái gì?”
Tôi nói. Tôi tự hỏi nếu ông đã phát hiện ra bao nhiêu thời gian hay ít hơn ông
có thể hi vọng. Tôi tự hỏi nếu những viên thuốc đã đưa ông vào một trạng thái
phởn phơ không đáng tin cậy. Hoặc nếu ông muốn chơi trò đỏ đen. Một lần, khi
ông nói chuyện với tôi về cuộc đời của ông, ông nói: “Vấn đề là ba luôn luôn sợ
lấy cơ hội.”

Tôi hay kể với mọi
người là ông không bao giờ nói một cách tiếc nuối về cuộc đời ông, nhưng đó
không đúng sự thật. Chỉ là vì tôi không lắng nghe. Ông nói phải chi ông gia
nhập quân đội như một thương gia - ông sẽ khá hơn. Ông nói phải chi ông tự lập,
như một người thợ mộc, sau chiến tranh. Phải chi ông rời khỏi Dalgleish. Một
lần, ông nói, “Một cuộc sống lãng phí, phải không?” Nhưng ông nói chỉ cho vui
về ông thôi, bởi vì nó quá bi đát để nói. Khi ông trích dẫn thơ, cũng vậy, ông
luôn có một vẻ nhạo báng trong giọng nói, để che đậy sự phô trương và niềm vui.

“Biển không bờ”,
ông nói một lần nữa. “Phía
sau ông là vùng đảo Azores màu xám,/ Đằng sau các Cửa của Hercules;/ Phia trước
ông chỉ là những biển không bờ. Đó là những gì diễn ra trong đầu của ba đêm qua. Nhưng con có nghĩ ba có
thể nhớ loại biển gì không? Ba không thể. Biển cô đơn? Biển trống? Ba đã đi
đúng hướng nhưng ba vẩn không thể nhớ ra được. Nhưng lúc bấy giờ khi con bước
vào phòng và ba không hề suy nghĩ đến nó nửa, từ ngữ xuất hiện trong đầu ba.
Luôn luôn là như vậy, phải không con? Thật không hẳn tất cả đều đáng ngạc
nhiên. Ba hỏi tâm trí của ba một câu hỏi. Câu trả lời ở đó, nhưng ba không thể
nhìn thấy tất cả các kết nối mà tâm trí thực hiện để có được nó. Giống như một
máy vi tính. Không có gì bên ngoài hết. Con biết, trong trường hợp của ba điều
này đúng, nếu có bất cứ điều gì con không thể giải thích ngay lập tức, có một
sự cám dỗ lớn để - A, để biến nó thành cả một bí ẩn. Có một sự cám dỗ lớn để
tin vào - Con biết.”

“Linh hồn?” Tôi
nói, một cách nhẹ nhàng, cảm thấy một cơn vội vã kinh khủng của tình thương và
chấp nhận.

“Ồ, ba đoán con có
thể gọi như vậy. Con biết, khi ba mới bước vào phòng này có một đống sách báo ở
đây bên giường. Ai đó đã bỏ lại - một trong những loại báo lá cải ba không bao
giờ đặt mắt tới. Ba bắt đầu đọc. Ba sẽ đọc bất cứ cái gì. Có một loạt bài đăng
trong đó về những kinh nghiệm cá nhân của những người đã chết, nói một cách y
tế - chủ yếu là tim ngừng đập - và đã được đưa trở lại cuộc sống. Đó là những
gì họ nhớ về thời gian khi họ đã chết. Kinh nghiệm của họ.”

“Ba thấy thú vị hay
không?” Tôi hỏi.

“Ồ, thú vị. Ồ có
chứ. Họ bay lên trần nhà rồi nhìn xuống chính họ và thấy các bác sĩ đang làm
việc trên thân xác của họ. Sau đó họ bay xa hơn và nhận ra một số người mà họ
biết đã chết trước họ. Không hẳn họ nhìn thấy những người đó chính xác nhưng
giống như cảm nhận được họ. Đôi khi như có một tiếng ồn ào và đôi khi như có
một ánh sáng hoặc màu sắc xung quanh một người?”

“Hào quang?”

“Đúng. Nhưng không
có người. Đó là tất cả những gì họ cảm nhận được trong thời gian ấy, sau đó họ
thấy mình trở lại trong cơ thể và cảm thấy tất cả nỗi đau sinh tử và tiếp theo
đó - họ đã trở lại với cuộc sống.”

“Ba thấy nó có vẻ -
thuyết phục không?”

“Ồ, ba không biết.
Tất cả chỉ tùy theo con có muốn tin điều này hay không thôi. Và nếu con sẽ tin,
hay nghiêm túc, ba nghĩ con nên nhìn tất cả mọi vấn đề khác một cách nghiêm
trọng mà họ in ra trong những sách báo này.”

“Họ còn nói những
gì khác nữa?”

“Những chuyện vô lý
- phương pháp chữa trị ung thư, chữa trị chứng hói đầu, chuyện đau bụng về thế
hệ trẻ và những người ăn tiền xã hội. Những tin nhảm về ngôi sao điện ảnh.”

“Ồ, có. Ba biết.”

“Trong trường hợp
của ba, con cần phải để ý”, ông nói, “còn không con sẽ bắt đầu tự đánh lừa
con.” Sau đó, ông nói, “Có một vài chi tiết thực tế chúng ta cần phải giải
quyết,” và ông nói với tôi về di chúc của ông, ngôi nhà, miếng đất ở nghĩa
trang. Tất cả mọi thứ đều đơn giản.

“Ba có muốn con gọi
điện cho Peggy?” Tôi hỏi. Peggy là em gái tôi. Cô kết hôn với một nhà thiên văn
học và sống tại thành phố Victoria.

Ông có nghĩ về điều
đó. “Ba nghĩ chúng ta phải nói với họ,” cuối cùng ông nói. “Nhưng nói với họ
đừng lo sợ.”

“Dạ được rồi.”

“Không, chờ một
phút. Sam phải đi dự một hội nghị vào cuối tuần này, và Peggy dự định đi cùng
với anh ta. Ba không muốn họ thắc mắc về việc thay đổi kế hoạch của họ.”

“Ba có biết hội
nghị ở đâu không?”

“Amsterdam”, ông hãnh diện nói. Ông rất tự hào về Sam, và theo
dỗi những cuốn sách và bài viết của anh ấy. Ông sẽ chọn lên một cuốn và nói,
“Hãy nhìn xem, con thấy không? Và ba không thể hiểu một chữ nào trong đó!” với
một giọng kinh ngạc vừa hàm chứa một vẻ chế giễu.

“Giáo sư Sam”, ông sẽ nói. “Và ba đứa bé Sams.” Đó là cách ông
gọi mấy đứa cháu trai của ông, chúng thật giống cha trong trí não và gần như
trong cách huênh hoang dễ mến - một sự khoe khoan ngây thơ đầy năng lượng. Họ
đi học ở một trường tư với kỷ luật thời xưa và bắt đầu học toán ở lớp năm. “Và
những con chó”, ông có thể liệt kê thêm, “đã học được cách vâng lời ở trường.
Và Peggy...”

Nhưng nếu tôi nói, “Ba có cho rằng cô ấy cũng đã vâng lời khi
đi học không?” Ông sẽ ngưng trò chơi ngay. Tôi tưởng tượng khi ông gặp Sam và
Peggy ông nói về tôi cùng một cách - ám chỉ tánh yếu đuối của tôi như ông ám
chỉ tánh buồn tẻ của họ, nói những chuyện đùa nhẹ nhàng về tôi, không hoàn toàn
che giấu sự ngạc nhiên của ông (hoặc ông giả vờ không che giấu) rằng người ta
trả tiền cho những bài tôi viết. Ông phải làm như vậy để ông không bao giờ có
vẻ khoe khoang, nhưng ông sẽ ngưng ngay lại khi nói đùa quá lố. Và tất nhiên là
tôi tìm thấy sau đó, trong nhà, những thứ của tôi ông đã giữ - một vài tạp chí,
báo cắt, những thứ tôi không bao giờ bận tâm đến.

Bây giờ những ý nghĩ của ông di chuyển từ gia đình của Peggy
đến gia đình tôi. “Con có tin tức gì của Judith không?”, ông hỏi.

“Chưa có, ba.”

“A, còn khá sớm. Họ có định ngủ trong xe không?”

“Dạ có.”

“Ba đoán cũng đủ an toàn, nếu họ dừng lại ở đúng nơi.”

Tôi biết ông sẽ phải nói cái gì đó nửa và đó sẽ như là một lời
nói đùa.

“Ba đoán họ đặt một tấm bảng ở chính giữa, như những người
tiền phong?” Tôi mỉm cười nhưng không trả lời.

“Ba hiểu là con không có phản đối?”

“Dạ không,” tôi nói.

“Tốt, ba cũng luôn tin như vậy. Không bao giờ xen vào chuyện
của con cái. Ba cố gắng không nói gì hết. Ba không bao giờ nói gì hết khi con
chia tay với Richard.”

“Ba muốn nói cái gì? Chỉ trích?”

“Đó không phải là chuyện của ba.”

“Không,”

“Nhưng điều đó không có nghĩa là ba hài lòng.”

Tôi ngạc nhiên - không chỉ ở những gì ông nói nhưng ở cảm giác
của ông rằng ông có quyền, ngay cả bây giờ, để nói. Tôi phải nhìn ra ngoài cửa
sổ và xuống giao thông để tự kiểm soát.

“Ba chỉ muốn con biết,” ông nói thêm.

Đã lâu lắm, ông nói với tôi một cách nhẹ nhàng, “Thật buồn
cười. Richard khi lần đầu tiên ba gặp anh ta nhắc ba nhớ đến những gì ba của ba
thường nói. Ông đã nói nếu người đó thông minh phân nửa như anh ta nghĩ, thì
anh ta thông mình gấp đôi hơn sự thật.”

Tôi quay lại để nhắc ông về điều này, nhưng thấy mình nhìn vào
dòng trái tim của ông đang viết. Không phải như là có điều gì không ổn, một sự
khác biệt trong tiếng bíp và điểm. Nhưng nó có ở đó.

Ông thấy nơi tôi đang nhìn. “Lợi thế không công bằng,” ông
nói.

“Có chứ,” tôi nói. “Con cũng sẽ đòi được gắn vào máy nửa.”

Chúng tôi cười, chúng tôi hôn nhau đàng hoàng; tôi rời khỏi
phòng. Ít nhất ông đã không hỏi tôi về Nichola, tôi nghĩ.

BUỔI CHIỀU HÔM SAU tôi không đến bệnh viện, vì ba tôi cần làm
một số thử nghiệm nữa, để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Thay vào đó tôi sẽ gặp
ông vào buổi tối. Tôi thấy mình lang thang qua các cửa tiệm, thử quần áo trên
đường Bloor. Một mối bận tâm với thời trang và dáng người của tôi đã xâm nhập
vào tôi như một cơn đau đầu dữ dội. Tôi nhìn những người phụ nữ trên đường phố,
nhìn các quần áo trong cửa hàng, cố gắng khám phá một chuyển đổi nào có thể
thực hiện được với những gì tôi sẽ phải mua. Tôi nhận ra tại sao có nỗi ám ảnh
này nhưng rất khó khăn để loại nó đi. Có người đã nói với tôi rằng chờ đợi tin
tức về sự sống-hay-chết, họ đã đứng trước một tủ lạnh mở ra ăn bất cứ cái gì họ
thấy - khoai tây luộc lạnh, tương ớt, cả chén kem. Hoặc họ không thể ngừng chơi
những trò giải ô chữ. Chú ý thu hẹp vào một cái gì đó – vài giải trí – nắm lấy,
trở nên nghiêm túc một cách điên cuồng. Tôi lục tìm quần áo trên các mắc áo,
mặt thử vào trong phòng thay đồ nhỏ nóng bức trước tấm gương tàn nhẫn. Tôi đổ
mồ hôi, một hoặc hai lần tôi nghĩ tôi có thể ngất xỉu. Trở ra đường lại, tôi
biết tôi cần phải rời khỏi con đường Bloor, và quyết định đi đến viện bảo tàng.

Tôi nhớ một thời điểm khác, ở Vancouver. Đó là khi Nichola vào
mẫu giáo và Judith là một em bé. Nichola đã đi gặp bác sĩ vì bị cảm, hoặc có
thể để kiểm tra sức khỏe thường xuyên, và thử nghiệm máu cho thấy một cái gì đó
về bạch huyết cầu - hoặc là số lượng quá nhiều hoặc là nó to hơn bình thường.
Bác sĩ đòi thử nghiệm thêm, và tôi đã mang Nichola đến bệnh viện để làm. Không
ai đề cập đến bệnh bạch cầu nhưng tôi biết, tất nhiên, những gì họ đang tìm
kiếm. Khi tôi cho Nichola về nhà tôi nhờ người giữ Judith ở lại buổi chiều và tôi
đi mua sắm. Tôi mua chiếc váy táo bạo nhất mà tôi chưa từng có, một áo lụa màu
đen với những sợi dây được sắp xếp cột lại ở phần trên phía trước. Tôi nhớ buổi
chiều mùa xuân tươi sáng đó, đôi giày gót nhọn trong cửa tiệm, đồ lót in với
những đốm con báo.

Tôi cũng nhớ lúc về nhà từ Bệnh Viện St Paul qua Cầu Lions
Gate trên chiếc xe buýt đông người và bế Nichola trên đầu gối. Bé đột nhiên nhớ
tên gọi cây cầu bằng tiếng trẻ thơ và thì thầm với tôi: “Cầu - qua cầu.” Tôi
không tránh né chạm vào con tôi - Nichola mảnh mai và duyên dáng ngay cả lúc
đó, với một cái lưng đẹp và tóc mịn đen - nhưng nhận ra tôi chạm vào bé với một
sự khác biệt, mặc dù tôi không nghĩ có thể hiểu được bao giờ là cái gì. Có một
sự chăm sóc - không phải chính xác là một sự rút lui nhưng một chăm sóc – mà
tôi không cảm thấy gì nhiều. Tôi thấy các hình thức của tình thương có thể được
duy trì như thế nào với một người bị kết án nhưng với tình thương trong thực tế
được đo lường và kỷ luật, bởi vì bạn cần phải tồn tại. Nó có thể thực hiện thật
kín đáo để đối tượng đuợc chăm sóc như vậy sẽ không nghi ngờ, cũng như không để
bé nghi ngờ bản án của cái chết. Nichola không biết, sẽ không bao giờ biết. Đồ
chơi và những nụ hôn và những trò đùa sẽ ào đến bao phủ cho bé, bé sẽ không bao
giờ biết, mặc dù tôi lo lắng bé sẽ cảm thấy ngọn gió thổi giữa các vết nứt của
những ngày nghỉ lễ được chế tạo, những ngày bình thường được chế tạo. Nhưng tất
cả đều tốt. Nichola không có bệnh bạch cầu. Cô lớn lên - vẫn còn sống, và có
thể hạnh phúc. Biệt lập.

Tôi không thể nghĩ ra bất cứ cái gì trong bảo tàng mà tôi thực
sự muốn xem, vì vậy tôi đi ngang qua và vào hành tinh hệ. Tôi chưa bao giờ đến
đây. Chương trình sẽ bắt đầu trong mười phút. Tôi đi vào trong, mua vé, xếp
hàng. Có cả một lớp toàn học sinh, có thể vài lớp, với các giáo viên và bà mẹ
tình nguyện đi theo. Tôi nhìn xung quanh để xem nếu có người lớn nào khác đi
một mình. Chỉ có một thôi - một người đàn ông với khuôn mặt đỏ và đôi mắt sưng
húp, trông như thể ông nên vào đây để khỏi đi đến một quán rượu.

Bên trong, chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế thoải mái tuyệt
vời được nghiêng về phía sau để nằm xuống như trong một loại võng, chú ý hướng
đến vòm trần nhà, nó nhanh chóng chuyển màu xanh đậm, với một vành ánh sáng mờ
nhạt xung quanh. Âm nhạc tuyệt dịu, chỉ huy trổi lên. Người lớn chung quanh
nhắc nhở các em giữ im lặng, cố gắng không làm ồn với những túi khoai tây sột
soạt của họ. Sau đó, tiếng nói của một người đàn ông, một giọng nói chuyên
nghiệp hùng hồn, bắt đầu nói chậm chạp, xuất phát từ những bức tường. Giọng nói
nhắc nhở tôi một chút về cách xướng ngôn viên đài phát thanh sử dụng để giới
thiệu một tác phẩm âm nhạc cổ điển hoặc mô tả sự tiến hành của Hoàng Gia vào Tu
Viện Westminster nhân dịp một buổi lễ hoàng gia. Có một hiệu ứng thính phòng
vang lên thật nhẹ.

Trần nhà tối lấp lánh đầy sao. Chúng xuất hiện ra không phải
tất cả cùng một lúc nhưng từng cái một, đúng như cách các ngôi sao thực sự hiện
ra ban đêm, mặc dù nhanh hơn. Dải Ngân Hà xuất hiện, di chuyển gần hơn; các vì
sao bơi vào ánh sáng và tiếp tục đi, biến mất ở các cạnh của màn hình bầu trời
hoặc phía sau đầu của tôi. Trong khi dòng ánh sáng tiếp tục, tiếng nói trình
bày các sự kiện tuyệt vời. Một vài năm ánh sáng nửa, nó tuyên bố, mặt trời xuất
hiện như một ngôi sao sáng, và các hành tinh không nhìn thấy được. Một vài chục
năm ánh sáng nữa, mặt trời không nhìn thấy được, hoặc là, bằng mắt thường. Và
khoảng cách đó - vài chục năm ánh sáng - chỉ là khoảng một phần ngàn của khoảng
cách từ mặt trời đến trung tâm của thiên hà của chúng ta, một thiên hà, mà bản
thân nó chứa khoảng hai trăm tỷ mặt trời. Và là, lần lượt, một trong hàng
triệu, có lẽ hàng tỉ, thiên hà. Vô số lặp đi lặp lại, vô số các biến thể. Tất
cả những hình ảnh này quay cuồng trong đầu tôi, cũng như những cuộn sét đánh.

Bây giờ chủ nghĩa hiện thực đã bị bỏ rơi, thay vào đó sự giả
tạo quen thuộc. Một mô hình của hệ thống năng lượng mặt trời quay đi xa một
cách thanh lịch. Một con bọ sáng chói cất cánh khỏi mặt đất, hướng về sao
Mộc. Tôi đặt tâm trí tránh né và thu hẹp một cách nghiêm khắc để ghi lại những
sự kiện. Khối lượng của sao Mộc to gấp hai lần rưỡi tất cả các hành tinh khác
cộng lại. Vết Đỏ Lớn. Mười ba mặt trăng. Qua sao Mộc, một cái nhìn vào quỹ đạo
khác thường của Sao Diêm Vương, các vòng băng của sao Thổ. Trở lại Trái đất và
di chuyển vào sao Kim nóng và rực rỡ. Áp suất khí quyển chín mươi lần nhiều hơn
của chúng ta. Sao Thủy không trăng quay ba lần trong khi bay quanh mặt trời hai
lần; một sự sắp xếp kì lạ,
không hoàn toàn đáp ứng như những gì họ thường cho chúng ta biết - nó chỉ quay
một lần khi nó đi vòng quanh mặt trời. Không có bóng tối vĩnh viễn gì cả. Tại
sao họ lại đưa ra thông tin tự tin như vậy, chỉ để thông báo sau đó là nó hoàn
toàn sai lầm? Cuối cùng, hình ảnh đã từng quen thuộc trong các tạp chí: đất đỏ
của sao Hỏa, bầu trời sáng rực màu hồng.

Khi chương trình kết thúc tôi ngồi ở ghế, trong khi trẻ em
trèo qua tôi, không có một ý kiến về bất cứ điều gì họ vừa nhìn hoặc nghe thấy.
Họ vây quanh phiền nhiễu những người trông giữ đòi thức ăn và vui chơi giải trí
nửa. Một cố gắng đã được thực hiện để kéo được sự chú ý của các em, để chúng
ngưng uống nước ngọt trong hộp và ăn khoai tây chiên và thay vào đó bằng những
dự kiến biết và chưa biết khác nhau và những tính bao la khủng khiếp, và dường
như đã thất bại. Cũng là một điều tốt, tôi nghĩ. Đa số trẻ em có một khả năng
miễn nhiễm tự nhiên, và nó không nên bị xáo trộn. Đối với người lớn nào muốn
phàn nàn, những người thúc đẩy chương trình này, không phải là họ tự miễn nhiễm
đến mức mà họ có thể đặt vào các hiệu ứng thính phòng, âm nhạc, trang nghiêm
như ở nhà thờ, mô phỏng kinh sợ mà họ cho là họ phải cảm thấy? Kinh sợ - Cái
gì sẽ như vậy? Một cơn rùng mình khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ? Một khi bạn biết
nó là cái gì, bạn sẽ không muốn đến gần nữa.

Hai người đàn ông bước vào với chổi để quét các mảnh vụn khán
giả đã để lại. Họ nói với tôi chương trình tiếp theo sẽ bắt đầu trong bốn mươi
phút. Trong khi chờ đợi, tôi phải đi ra.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

“CON ĐI XEM BUỔI DIỄN ở hành tinh hệ,” Tôi nói với ba tôi. “Nó
rất là thú vị - về hệ thống năng lượng mặt trời.” Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn tôi
đã sử dụng từ ngữ: “thú vị”. “Nó hơi giống như một ngôi đền giả tạo,” tôi nói
thêm.

Ông đã bàn luận ngay. “Ba nhớ khi họ tìm thấy sao Diêm Vương.
Đúng tại nơi họ nghĩ rằng nó phải ở đó. Thủy, Kim, Trái đất, Hỏa”, ông đọc
tiếp. “Mộc, Thổ, Hải-không, Thiên Vương, Hải Vương, Diêm Vương. Có đúng không?”

“Dạ đúng,” tôi nói. Tôi cảm thấy vui vì ông đã không nghe
những gì tôi nói về ngôi đền giả. Tôi chỉ muốn nói một cách trung thực, nhưng
nó có vẻ bóng bẩy và cao cấp. “Ba nói cho con biết các mặt trăng của sao Mộc.”

“A, ba không biết những cái mới. Có cả một nhóm mới, phải
không?”

“Hai cái. Nhưng chúng không phải là mới.”

“Mới cho chúng ta,” ba tôi nói. “Con có vẻ khá tráo trở bây
giờ mà bà sắp sửa nằm dưới con dao.”

“Dưới con dao. Cả một biểu hiện.”

Ông không nằm trên giường tối nay, đêm cuối cùng của ông. Ông
đã được tháo ra khỏi bộ máy, và đang ngồi trong một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Chân
ông để trần, ông mặc một cái áo choàng bệnh viện, nhưng ông không có vẻ tự giác
hoặc không ổn. Ông có vẻ chu đáo nhưng hài hước, một người niềm nở.

“Ba chưa cho biết tên những cái cũ,” tôi nói.

“Cho ba thời gian. Galileo đặt tên cho chúng. Io.”

“Đó là một sự khởi đầu.”

“Các mặt trăng của sao Mộc là các thiên thể đầu tiên được phát
hiện với kính viễn vọng.” Ông nói điều này một cách nghiêm trọng, tựa như ông
có thể nhìn thấy câu đó trong một cuốn sách cũ. “Cũng không phải là Galileo đặt
tên chúng; đó là người Đức. Io, Europa, Ganymede, Callisto. Tất cả đó con.”

“Dạ.”

“Io và Europa, có phải họ là bạn gái của sao Mộc không ba?”

“Ganymede là một
cậu bé. Một bé chăn cừu? Ba không biết Callisto là ai.”

“Con nghĩ cô ấy cũng
là một bạn gái,” tôi nói. “Vợ của Jupiter - vợ của Jove biến cô thành một con
gấu và nhốt cô lên trên bầu trời. Gấu Lớn và Gấu Nhỏ. Gấu Nhỏ là em bé của cô.”

Loa phát thanh nói
đã hết giờ thăm viếng. “Con sẽ gặp lại ba khi ba ra khỏi thuốc mê,” tôi nói.

“Được.”

Khi tôi đi tới cửa,
ông gọi tôi, “Ganymede không phải là một người chăn cừu. Anh ta là người hầu
rượu của Jove.”

Khi tôi rời khỏi
hành tinh hệ chiều hôm đó, tôi đã đi qua viện bảo tàng để đến khu vườn Tàu. Tôi
nhìn thấy mấy con lạc đà bằng đá một lần nửa, các chiến binh, ngôi mộ. Tôi ngồi
trên một băng ghế nhìn về phía đường Bloor. Thông qua các bụi cây trường xanh
và hàng rào sắt cao tôi thấy nhiều người đi qua trong ánh sáng mặt trời của
cuối buổi chiều. Dù sao chương trình vũ trụ đã mang lại cho tôi những gì tôi
muốn - giúp tôi bình tĩnh lại, trút bỏ ra. Tôi thấy một cô gái nhắc tôi nhớ đến
Nichola. Cô mặc một chiếc áo khoác và mang một cái túi thực phẩm. Cô ấy thắp
hơn Nichola - không thực sự giống cô nhiều gì cả - nhưng tôi nghĩ tôi có thể
nhìn thấy Nichola. Cô sẽ đi bộ dọc theo một con đường nào đó có lẽ cách đây
không xa - nặng gánh, bận tâm, một mình. Cô là một trong những người trưởng
thành trong thế giới hiện nay, một trong những người mua sắm đi về nhà.

Nếu tôi nhìn thấy
cô ấy, tôi có thể chỉ ngồi và nhìn, tôi quyết định như vậy. Tôi cảm thấy như
một trong những người đã bay lên trần nhà, thưởng thức một cái chết ngắn gọn.
Một sự nhẹ nhõm, trong khi nó kéo dài. Ba tôi đã chọn và Nichola đã chọn. Một
ngày nào đó, có thể là gần đây, tôi sẽ có tin của cô ấy, nhưng nó cũng sẽ vậy
thôi.

Tôi định đứng dậy
và đi đến ngôi mộ, nhìn vào các chạm khắc, những hình ảnh bằng đá, khắp tất cả
con đường xung quanh đó. Tôi luôn có ý định đến xem và tôi không bao giờ làm.
Và lần này cũng vậy. Trời đã bắt đầu lạnh ở bên ngoài, vì vậy tôi vào trong để
uống cà phê và ăn một cái gì đó trước khi tôi quay trở lại bệnh viện.

HẾT

Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Du Ca – trangchic
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3