Công tước của riêng em - Chương 14 - Phần 2

Bà Minchem liếc cô rồi nói, “Tôi sẽ không làm nhơ nhuốc tai cô bằng cách kể ra câu chuyện đó, thưa tiểu thư. Tôi chỉ nói rằng trong rất nhiều trường hợp cha lũ trẻ đã đưa chúng đến với một ít tiền để nuôi nấng con mình.”

“Rất tốt!” Lisette nói.

“Các cô gái khác trả tiền ăn ở bằng cách làm khuy áo và tóc giả,” bà Minchem nói. “Nhưng các cô gái này được đào tạo để trở thành những cô hầu tốt nhất của các quý bà, nên chúng học cách làm người Pháp.”

“Gì cơ?” Eleanor hỏi. “Bà vừa nói rằng chúng đang học cách làm người Pháp sao?”

“Chính xác,” bà Minchem nói.

“Đây là một trong những ý tưởng của tôi,” Lisette kêu lên, lại vỗ tay. Villiers nhận ra rằng anh sẽ khá là hạnh phúc nếu Lisette không bao giờ vỗ tay nữa. “Mọi cô hầu tốt nhất đều là người Pháp, đúng không? Nên tôi đã bảo bà Minchem rằng nhất định phải biến vài cô bé thành mademoiselle[22].”

[22] Mademoiselle: (Tiếng Pháp) tiểu thư.

“Nó tốn khá nhiều công sức,” bà Minchem nói nghiêm túc. “Nhưng giờ chúng đã học được, tôi nghĩ chúng sẽ tìm được những chỗ tử tế. Tất nhiên, chúng ta sẽ phải đặt cho chúng những cái tên hoa mỹ,” bà ta mở cửa ra.

Có sáu cô gái, cũng mặc váy trắng và ngồi thành vòng tròn, nhưng thay vì khâu vá, rõ ràng là chúng đang dự tiệc trà. Khi cửa mở, chúng nhổm dậy, xếp hàng, và nhún gối một cách đồng bộ.

“Nào các cô gái,” bà Minchem nói rõ ràng, “hãy chứng minh bản thân đi.”

Cô gái cao nhất bước lên trước và nhún gối trước Lisette. “Bonjour, mademoiselle. Comment allez-vous? Votre coiffe est très élégante[23].”

[23] Xin chào tiểu thư. Cô có khỏe không ạ? Bộ váy của cô thật thanh nhã (Tiếng Pháp).

“Chúng tôi tập trung vào ba thứ,” bà Minchem nói. “Dùng tiếng Pháp thành thạo, nâng cao khả năng phát âm thích hợp khi nói tiếng Pháp, và điệu bộ kiểu Pháp.”

“Điệu bộ kiểu Pháp?” Eleanor hỏi. “Làm sao người ta đo đạc được một thứ như thế?”

“Tính cách chung của người Pháp là phù phiếm,” bà Minchem tuyên bố. “Do sự phi thực tế của mình mà họ không thịnh vượng. Dầu sao đi nữa, họ rất giỏi trong vấn đề tóc tai quần áo. Chúng tôi dạy các cô gái phải thanh thoát, dễ kích động, và dễ bị đam mê trói buộc. Mô tả đi.”

Khi học sinh lớn nhất gật đầu, hai cô bé bước lên trước.

“Je m'appelle Lisette-Aimée[24],” một cô bé nói.

[24] Tên tôi là Lisette-Aimée (Tiếng Pháp).

“Je m'appelle Lisette-Fleury[25],” cô bé kia nói.

[25] Tên tôi là Lisette-Fleury (Tiếng Pháp).

“Thật đáng yêu!” Lisette kêu lên. “Cả hai đều mang tên của tôi!”

“Tất cả bọn chúng đều dùng cái tên Lisette,” bà Minchem nói để trả lời cái liếc mắt dò hỏi của Eleanor. “Như thế sẽ dễ dàng hơn cho các nhân viên.”

“Madame! Vos souliers sont salis. Permettez-moi de les nettoyer pour vous[26],” cô bé đầu tiên nói bằng giọng Pháp liến thoáng.

[26] Thưa cô! Giày của cô bẩn rồi. Hãy để tôi lau sạch cho cô (Tiếng Pháp).

“Madame! S'il vous plait, attendez. Vous ne pouvez être vue ainsi! Votre tenue est en complet désordre[6]!” cô bé còn lại nói, lên giọng cao vút.

[27] Thưa cô! Xin cô đợi đã. Cô không thể ra ngoài như thế. Trông cô lôi thôi quá.

“Pardonnez-moi[7],” cô bé đầu tiên kêu lên, gục người trong vòng tay của cô thứ hai.

[28] Xin hãy thứ lỗi (Tiếng Pháp).

“Đủ rồi,” bà Minchem nói.

Hai cô bé vội vàng tách ra và nhún gối chào y hệt nhau.

“Các cô bé này sẽ tăng thêm uy tín cho ngôi nhà,” bà Minchem nói, mở cửa. “Chúng tôi sẽ đưa chúng đến chỗ các phụ nữ quý tộc trong vài tháng tới.”

“Ở bà Minchem có vẻ gì đó hết sức kỳ dị,” Eleanor khẽ nói với Villiers khi họ theo hai người kia ra hành lang.

“Cô có nghĩ là hai cô bé Lisette ở cuối hàng trông giống nhau không?” Villiers hỏi.

“Chúng không giống hệt nhau và chắc chắn lớn tuổi hơn các con ngài, không phải sao?”

“Rõ ràng là các con tôi giống hệt nhau.”

“Vậy thì chúng chưa bị biến thành phụ nữ Pháp.”

“Cảm tạ Chúa vì ơn huệ nhỏ nhoi đó,” Villiers nói. Anh bắt đầu có một cảm giác bất an, giận dữ.

Trước mặt họ, Lisette rõ ràng là đã chán nghe bà Minchem lải nhải về công dụng của việc giặt là. Cô đột ngột quay phắt sang bên cạnh và đặt một tay lên nắm cửa.

“Xin cô nhất định phải để tôi dẫn đường!” bà Minchem quát lên.

Villiers quan sát hai người phụ nữ. Bà Minchem có đôi mắt nảy lửa và giọng nói của một người giới thiệu xiếc. Nhưng anh sẽ đặt cược vào Lisette. Càng quan sát cô nhiều, anh lại càng thấy cô có vẻ giống một thế lực tự nhiên hơn.

Hẳn là vậy, với một nụ cười quyến rũ hoàn toàn phớt lờ đôi má tím ngắt của bà Minchem, Lisette xoay tay nắm cửa và đi thẳng vào trong.

“Ôi,” Eleanor nói và vội vã lao tới.

Villiers nhân cơ hội đó mở một cánh cửa khác, cánh cửa gần anh nhất, và đi qua nó. Bên trong, một đám bé gái ngồi thành nửa vòng tròn trước cửa sổ, đầu cúi xuống làm việc. Anh dừng lại, cảm thấy thật ngu ngốc. Các cô bé bật dậy, nhưng do không có bà Minchem ở đó nên rõ ràng là chúng không biết phải nhìn đi đâu, có nên nhún gối chào hay không.

“Chào buổi sáng,” anh nói, đóng cửa lại sau lưng.

“Chào buổi sáng,” chúng đồng thanh, sau khi cô gái cao nhất gật đầu. Rồi chúng cùng nhún chào theo một kiểu cách chính xác đến lạ thường.

“Các cháu đang làm gì đấy?” anh hỏi một cách khó khăn. Theo như anh thấy thì không có cặp sinh đôi nào trong nhóm trẻ này hết.

Tất cả im lặng. “Khuy, thưa ngài,” cuối cùng cô gái cao nhất nói.

Người ta đều nghĩ khuy áo nhất định phải được làm ở đâu đó, nhưng Villiers chưa từng hình dung rằng chúng đến từ các trại mồ côi.

“Có cặp sinh đôi nào trong trại mồ côi này không?” anh đột ngột hỏi.

Một lần nữa, tất cả đều chớp mắt nhìn anh, cho tới khi cô bé cao nhất nói:

“Jane-Lucinda và Jane-Phyllinda được sinh cùng ngày, thưa ngài.”

“Chúng có cùng mẹ không?”

Tất cả cùng gật đầu.

“Chúng đâu rồi?”

“Phyllinda lại hỗn và họ bị…” cô bé nhỏ nhất nói to và đột ngột im bặt khi phải chịu ánh mắt dữ tợn từ cô bé cao nhất.

“Cháu chắc chắn là bọn cháu không biết, thưa ngài,” cô bé nói điềm tĩnh. “Bọn cháu là ốc sên và Jane-Lucinda và Jane-Phyllinda là nút vàng.”

“Ốc sên!”

Cô bé không cười. “Bọn cháu đang làm nút ốc sên, viền nút thắt kiểu Pháp. Thỉnh thoảng còn được gọi là nút chết,” cô bé thêm vào.

Villiers nhìn xuống một hàng những khuôn mặt nghiêm nghị. “Các cháu gọi mình là ốc sên sao?”

“Bọn cháu làm nút ốc sên.”

Anh gật đầu. “Và tên các cháu là?”

“Mary-Alice, Mary-Bertha, Mary…” Và nó cứ thế tiếp tục. Có sáu Mary.

Villiers cúi chào. “Ta có thể tìm các cô Jane ở đâu?”

Tất cả im lặng. “Hai cánh cửa nữa bên trái, thưa ngài,” cuối cùng cô gái nói.

“Nhưng ngài sẽ không…” cô gái nhỏ nói và dừng lại.

Trong hành lang mọi thứ đều im ắng. Đi thêm hai cánh cửa nữa ở bên trái, anh thấy một đám bé gái ngồi vòng tròn. Sự khác biệt duy nhất là các cô bé này đang mặc váy yếm nâu bên ngoài váy trắng.

“Các cháu là Jane à?” anh hỏi.

Chúng bật dậy, xếp hàng, và nhún chào. Anh nhìn đi nhìn lại cả hàng nhưng chẳng có khuôn mặt nào tương tự mình cả.

“Jane-Lucinda và Jane-Phyllinda đâu?” anh hỏi

Cô gái bé nhất trong hàng đút tay vào miệng nhưng ngoài ra không một ai nhúc nhích hết. “Bọn cháu thật sự không thể nói, thưa ngài,” cuối cùng cô bé cao nhất nói.

Anh nhìn xuống cuối hàng. Những đôi mắt khép nép, nhìn đờ đẫn cho tới khi anh nhìn vào cô bé nhỏ nhất, cô bé đang mút ngón tay. Mắt cô bé có màu xanh dương rực rỡ. Dè dặt, nhưng tỉnh táo.

Anh đi tới chỗ cô bé. “Tên cháu là gì?”

“Jane-Melinda,” cô bé nói quanh ngón tay.

“Bỏ tay ra khỏi miệng,” cô gái lớn nhất quát.

Jane-Melinda bỏ tay ra khỏi miệng, Villiers túm chặt cổ tay cô bé trước khi anh nhận thức được mình đang làm gì. Các ngón tay cô bé đang chảy máu, cả bốn ngón, và ngón thứ năm xước xát thê thảm.

“Chuyện quái quỷ này là vì sao?” anh hỏi, nhẹ nhàng bỏ tay cô bé xuống và xoay người về phía đầu hàng.

“Nút vàng bện tương đối khó làm khi mới học,” cô bé lớn nói.

Anh cầm đôi tay của cô bé tiếp theo trong hàng lên. Các ngón tay cô bé sưng phù, biến dạng và chảy máu nhẹ ở một số chỗ. Đột nhiên anh hiểu cái tạp dề nâu để làm gì.

Giữa vòng tròn là một rổ đầy nút, sáng rực rỡ trong ánh nắng. Trước mỗi cái ghế là một cuộn chỉ còn một nửa, một cục nút đang được cuốn bằng những sợi hình xoắn màu vàng nhìn rất sắc, dễ gây trầy xước.

“Nó là dây kim loại,” cô bé lớn nói, cúi gục đầu như thể thấy xấu hổ. “Đôi khi nó rất đau nhưng ngài phải cuốn thật chặt không thì cái nút sẽ bị rời ra.”

“Chúa ơi,” anh nói dưới hơi thở. Và rồi: “Hãy cho ta biết chỗ để tìm Lucinda và Phyllinda, ngay lập tức.”

Cô bé lớn nhất sợ chết khiếp, run rẩy. “Cháu không dám,” cô bé thở dốc. “Bà Minchem…”

Bên trái anh, cô gái nhỏ nhất cất giọng nói. Cô bé đã lại đút tay vào miệng nên khó mà hiểu nổi đứa bé đang nói gì.

“Jane-Lucinda đã hỗn với bà Minchem,” cô bé nói, đôi mắt xanh to tròn nhìn thẳng vào Villiers. “Nên bạn ấy bị đưa tới chỗ đó. Và tất nhiên Jane-Phyllinda phải đi cùng bạn ấy.”

“Đó là chỗ nào?” anh hỏi. Và nhận ra rằng giọng anh hẳn phải kinh khủng lắm, khi vài cô bé bước lùi lại.

“Chuồng,” cuối cùng cô gái lớn nhất thì thào.

“Chuồng lợn?” anh có thể thấy sự xác nhận trong mắt chúng nên lùi lại và cúi chào một cách thanh lịch. Anh không biết phải làm gì khác. Anh không có kẹo. Anh không có gì để tặng cho những đứa trẻ với ngón tay rớm máu này.

Rổ nút vàng bện dưới sàn nhà lấp lánh trước mắt anh đầy vô tội. Nhưng anh không thể để chúng lại để xoắn dây kim loại thêm nữa. “Đi theo ta, tất cả các cháu,” anh nói, quay ra cửa.

“G… Gì cơ?” cô bé cao nhất, Jane-gì đó nói.

“Theo ta,” anh nói nóng nảy. “Ta không thể bỏ các cháu lại đây,” anh ngoái lại và chìa tay ra. “Melinda.”

Cô bé lao về phía anh và đặt một bàn tay ấm, ẩm ướt vào tay anh. Anh cố không nghĩ đến máu và nước bọt mà chỉ kéo cửa, rồi ra ngoài.

Hành lang không còn là con đường im lặng mà anh đã lao qua trên đường từ phòng ốc sên sang phòng nút vàng nữa. Anh đi ra như một con vịt mẹ, dẫn theo một hàng các cô bé mặc váy yếm nâu đi lò dò và thấy một nhóm phụ nữ đang la hét đi qua lại.

Bà Minchem ở chính giữa, trông như vợ của Lot[29] sau khi biến thành muối: cứng đờ và cay đắng. Eleanor đứng trưóc mặt bà ta, la hét một điều gì đó. Cả cơ thể cô run lên vì giận dữ đến mức anh ngạc nhiên khi thấy bà Minchem chưa tan tành. Lisette đứng sang một bên, vây giữa một vòng tròn các cô bé mặc váy trắng.

[29] Theo kinh Cựu Ước, Thiên Chúa muốn diệt thành Sodom và Gomorrah vì tội ác của dân trong thành. Lot, cháu của Abraham, và gia đình là cư dân của thành Sodom. Thành Sodom và Gomorrah bị diệt, nhưng Lot và gia đình được cứu, vợ của Lot bị hóa thành tượng muối vì tiếc nuối của cải còn để lại trong thành.

“Các cô bé này là ai?” anh nói, nhìn xuống Melinda. Cô bé đã nhích sát vào anh ngay khi nhìn thấy bà Minchem, và lại đang mút bàn tay phải.

“Sarah,” cô bé nói khá là yếu ớt.

“Chúng làm gì?”

“Tóc giả,” một cô bé Jane khác nói. “Chúng làm tóc giả cho các các quý ông.”

Nghe có vẻ không khó bằng nút vàng bện. Villiers sải bước tới trước như thể anh luôn dắt một bé gái trong tay và có một dãy bé khác đi sau lưng.

Eleanor quay phắt lại. Mắt cô âm ỉ cháy, nhưng không mang vẻ phong tình. Mà trông cô giống một thùng pháo hoa sắp phát nổ hơn. “Villiers, ngài sẽ không tin được cái cách lũ trẻ này bị đối xử đâu!”

Rõ ràng là cô đã phát nổ.

Không may thay, bà Minchem cũng là một quả pháo đang phát nổ. Bà ta rống lên bằng cái giọng chói tai đến mức anh không hiểu được mấy.

Anh buông tay Melinda, vì anh cần bàn tay đó để rút kiếm của mình ra khỏi gậy. Nó trượt khỏi vỏ với tiếng so…oạt.

Tất cả im lặng ngay lập tức.

Đến là hài lòng.

“Bây giờ thì ta đã có được sự chú ý của mọi người rồi,” anh nói. “Ta có một câu hỏi. Phòng phạt ở đâu, bà Minchem? Hay ta nên nói, chuồng lợn ở đâu?”

Eleanor hít vào một hơi, nhưng điều thật sự làm anh hứng thú là cái cách bà Minchem phồng ngực lên. Nó là một bộ ngực vĩ đại. Nó chìa ra phía trước người bà ta như mũi một con thuyền cập bến vùng đất mới.

“Các ngài đang can thiệp vào các phương pháp dạy dỗ của tôi,” bà ta quát lên. “Vì sao lũ Jane lại bỏ việc?” bà ta đối mặt với cô bé Jane lớn nhất. “Sao cô dám, Jane-Jolinda? Cô sẽ không hoàn thành chỉ tiêu được đâu!”

Melinda ép sát vào chân Villiers.

“Các cô bé Jane sẽ không bao giờ làm một cái nút vàng nào nữa,” anh bảo bà ta. Anh khẽ khàng chống mũi kiếm xuống đất. Mắt tất cả mọi người dõi theo bề mặt sáng bóng của nó.

Bà Minchem không chút run sợ. Thay vào đó ba ta bước lên một bước. “Ngài dám dọa nạt tôi sao? Tôi, người chăm lo đến những đứa trẻ mồ côi bị ruồng bỏ của nước Anh? Tôi, người dành từng giờ từng phút khi thức để uốn nắn lũ trẻ bị kết án này thành một người mà xã hội có thể thấy hữu dụng? Tôi sao?” bà ta không còn rít lên nữa. Giọng bà ta chuyển sang tông trầm vang như một phu khuân vác ở bến tàu.

“Phải, chính bà đấy,” Villiers tuyên bố.

Bà ta cười anh. “Tôi làm công việc mà không ai khác muốn làm. Các cô gái của tôi sẽ không trở thành con mồi cho những kẻ như ngài. Chúng sẽ có nghề khi rời khỏi tôi. Ngài nghĩ mình có thể vào đây và lên mặt dạy dỗ, nhưng ngài thì có đạo đức gì cơ chứ?” bà ta quát lên.

Anh xoay xở để không chùn bước.

“Tôi thấy rằng ngài nghĩ mình bước vào đây như một hiệp sĩ mặc áo giáp sáng lóa, đến cứu những đứa trẻ mồ côi tội nghiệp. Ngài thật ngu ngốc, ngu ngốc! Ngài có biết tôi tốn bao nhiêu công sức mới dạy được cho chúng biết một nghề và sống có mục đích không? Và ngài… là một trong số những kẻ đó!”

“Những kẻ đó?” anh hỏi. Giờ đây Melinda đang túm chặt lấy ống quần anh, nên anh chuyển thanh gươm sang tay trái và đặt tay phải lên vai cô bé.

Mắt bà Minchem đã trở nên cuồng loạn. “Ngài là một trong số những tên đàn ông hoang dâm vô độ đã lấp kín mảnh đất này với đống con cái sinh ra từ những cuộc giao hoan trái phép, ghê tởm!”

Villiers kìm lại thôi thúc muốn bịt tai Melinda lại. Đáng tiếc là bà Minchem nói cũng đúng.

Eleanor xông tới để đối đầu với bà Minchem. “Huyết thống của những đứa bé này không thể biện minh cho cách đối xử của bà được,” giọng cô vừa mềm mại và vừa ghê gớm, nó cắt đứt giọng nói đinh tai của bà ta như một con dao. “Bà đã sai khi đôi xử với chúng như vậy, sai.”

“Cô thì biết gì về lũ nhóc này?” bà Minchem rít lên. “Nếu tôi không khắt khe với chúng, bắt chúng làm việc, chúng sẽ phản bội nguồn gốc của mình. Chúng sẽ thành những ả đứng đường, giống mẹ chúng.”

“Tôi sẽ không nói gì với bà nữa,” Eleanor nói, và giọng cô mang vẻ dứt khoát đầy hủy diệt. “Leopold, triệu người hầu của ngài đi. Bà Minchem sẽ rời ngôi nhà này và bà ta có thể cần người tháp tùng.”

Chỉ dùng một phần nghìn giây để thưởng ngoạn sự thật là cô vừa gọi tên chứ không phải gọi tước hiệu của anh.

Villiers quay sang nhìn cô bé Jane lớn nhất. “Người đánh xe của ta đang đợi ở sân, hãy gọi một người hầu nam đến đây,” cô bé chạy đi sau khi nhìn bà Minchem, bà ta đang run bần bật, như bề mặt một ngọn núi lửa đang sôi trào.

“Ngài… ngài…”

“Im đi,” Eleanor nói, cắt ngang lời nói của bà ta. “Bà có thể biện hộ trước tòa. Các cô bé này đã nghe đủ rồi và cả tôi cũng vậy.”

Villiers nghĩ đến việc đồng thuận, và quyết định làm thế sẽ mất oai.

“Lisette,” Eleanor nói, không hề cao giọng.

Lisette nhảy lon ton tới, trẻ con bám chặt lấy hai tay cô.

“Chúng ta cần một người phụ nữ tốt để bảo đảm những đứa trẻ này được yêu thương, ăn mặc đầy đủ, và vết thương của chúng cũng được chăm sóc. Chị có biết ai đó như thế trong làng hay trong nhà mình không?”

“Tôi chưa từng đối xử kém ân cần yêu thương với lũ nhóc này,” bà Minchem kêu lên.

Villiers trừng mắt nhìn làm bà ta lắp bắp dừng lại.”Ta đoán là các con của mình đang ở trong chuồng lợn, thưa bà. Bà có muốn chỉ đường không?”

“Các con ngài…”

“Con của ta,” anh xác nhận. “Sinh đôi. Hiện giờ mang tên Jane-Lucinda và Jane-Phyllinda. Hai con gái của ta, những đứa bé rõ ràng là đang bị nhốt trong chuồng.”

“Ngài có con sống ở đây sao?” Lisette kêu lên.

“Chuồng!” Eleanor nói. “Tức là chỗ ở của lũ lợn sao?”

Lần đầu tiên bà Minchem trông thấp thoáng run sợ. Bà ta hổn hển hít vào như một con rắn cố nuốt một con chim lớn. “Hai đứa bé đó phải bị tách khỏi những đứa khác vì chúng gây ra ảnh hưởng xấu,” quai hàm bà ta rắn đanh và bà ta khoác lên mình vẻ thách thức. “Chúng xấu xa, đặc biệt là Jane-Lucinda, và bất kỳ ai biết chúng đều đồng ý với tôi.”

“Con ta là ác quỷ,” Villiers nói một cách khôi hài. “Phải, có vẻ đúng rồi đấy. Giờ thì hãy giúp ta một việc đó là nói cho ta biết phải tìm chuồng lợn ở chỗ nào?” anh ngừng lại. “Ta không cần phải nói thêm là bản thân thật lòng hy vọng, vì muốn tốt cho bà, là cả hai cô bé đều khỏe mạnh.”

Bà ta lóe lên ánh mắt cố tỏ ra sao cho giống một cái búa tạ nhưng không làm được.

“Nó nằm sau chuồng bò,” một cô bé Sarah lớn đột nhiên nói, bước lên trước. “Cháu mới chỉ đến đó một lần.”

“Và ngài thấy con bé khỏe khoắn thế nào rồi đấy,” bà Minchem nói một cách ương ngạnh.

“Bà ấy luôn nói…” Melinda nói to, rồi ỉu xìu dừng lại sau khi bị bà Minchem trừng mắt.

“Sao, Melinda?” Villiers hỏi, nhìn xuống cô bé đang bám chặt vào chân anh.

“Bà ấy nói lũ lợn sẽ ăn thịt bọn cháu nếu bọn cháu ngủ,” Melinda nói, và càng ép chặt vào đùi Villiers hơn. “Và bà ấy đã bỏ Lucinda và Phyllinda ở trong đó suốt buổi tối,” cô bé hít thở thật manh. “Có khi bọ đã bị ăn thịt mất rồi.”

Villiers nhìn bà Minchem và bà ta rúm hẳn người lại. “Có thể bà muốn dành vài phút tới cầu nguyện là lũ lợn của bà không khoái các bé gái đấy,” anh gợi ý.

Anh chờ tới khi ra ngoài tầm nghe mới trấn an Melinda rằng lợn ăn chay. Nhưng khi anh và Eieanor, theo sau là nhiều đứa trẻ mồ côi khác, mở cái móc khổng lồ rỉ sét khóa cánh cửa dẫn vào chuồng lợn, và thò đầu vào trong nơi tối om hôi thối đó, anh cảm thấy vô cùng lo sợ.

Không có ai trong chuồng trừ ba con lợn to khổng lồ và một ổ lợn con. Con lợn nái lặc lè đứng dậy với ánh mắt giết người trong đôi mắt nhỏ tí xíu.

Giữa đống rơm bẩn thỉu là một chiếc giày nhỏ.

“Đó là giày của Jane-Lucinda!” cô bé Jane lớn nhất nói, òa ra khóc ầm ĩ.

Báo cáo nội dung xấu