Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 15 - 16
15 - TRẬN KỊCH CHIẾN Ở HỒ
ĐIỂN TRIỆT
Mùa
xuân năm 542, Lý Bí (còn có tên gọi khác là Lý Bôn) đã dựng cờ khởi nghĩa, tập
hợp và lãnh đạo nhân dân cả nước quét sạch quân đô hộ nhà Lương ra khỏi bờ cõi.
Hai năm sau (năm 544), ông lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý NamĐế, đặt quốc
hiệu là Vạn Xuân và niên hiệu là Thiên Đức (cũng có sách viết là Đại Đức). Từ
đây, một chính quyền độc lập và tự chủ được thiết lập, nhưng cũng từ đây, sau
cơn hốt hoảng nhất thời, nhà Lương đã liên tiếp tổ chức những cuộc đàn áp có
quy mô lớn. Một trong những viên tướng khét tiếng tàn bạo nhất của nhà Lương là
Trần Bá Tiên được giao nhiệm vụ chỉ huy các cuộc đàn áp này. Bên cạnh Trần Bá
Tiên là một loạt những tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm trận mạc như Dương Phiêu,
Tiêu Bột... Bởi cuộc tấn công ồ ạt của Trần Bá Tiên, nghĩa quân Lý Bí bị thua
hai trận lớn ở Chu Diên (đất này nay thuộc Hà Tây) và ở cửa sông Tô Lịch. Lý Bí
rút về Gia Ninh (nay thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc). Trần Bá Tiên cho
quân vây đánh Gia Ninh, Lý Bí lại phải rút về Điển Triệt (nay thuộc huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Vùng Điển Triệt có hồ Điển Triệt rất rộng. Nay hồ này
vẫn còn. Cũng có người gọi là hồ Tứ Yên vì ngày nay, hồ nằm ở khu vực xã Tứ
Yên. Năm Bính Dần (546), trận kịch chiến giữa lực lượng của Lý Bí với quân đội
nhà Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy đã diễn ra tại hồ Điển Triệt.SáchĐại
Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ, quyển 4, tờ 16-b) chép rằng:
“Mùa
xuân, tháng giêng (năm 546), bọn Trần Bá Tiên đã chiếm được thành Gia Ninh, Nhà
vua (chỉ LýNamĐế) đành phải chạy vào đất của người Lão (từ chỉ
chung đồng bào các dân tộc ít người) ở Tân Xương. Quân nhà Lương đóng ở cửa
sông Gia Ninh.
Mùa
thu, tháng tám, nhà vua đem hai vạn quân từ đất Lão ra đóng ở hồ Điển Triệt,
thuyền bè nhiều đến nỗi chật cả mặt hồ. Quân nhà Lương trông thấy thì sợ, không
dám tiến vào, cứ đóng ở khu vực gần với cửa hồ mà thôi. Trần Bá Tiên nói với
các tướng rằng:
-
Quân ta ở đây đã lâu, thế cô, không được tiếp viện, tướng sĩ thì mỏi mệt. Một
khi đã tiến sâu vào nước người mà thua trận thì đừng mong sống sót. Nay, nhân lúc
họ bại trận mấy phen liền, dân Di Lão lại ô hợp, đánh họ thật không khó, cho
nên, đây chính là lúc phải ra tay liều chết để đánh bằng được, bởi vì nếu vô cớ
mà dừng lại thì lỡ hết cả thời cơ.
Các
tướng (dưới trướng Trần Bá Tiên) đều im lặng, không ai tỏ vẻ hưởng ứng. Đêm hôm
ấy, nước sông lên mạnh, dâng cao đến bảy thước, ồ ạt tràn vào hồ. (Trần) Bá
Tiên đem quân bản bộ của mình, theo dòng nước mà tiến vào trước. Quân nhà Lương
đánh trống reo hò theo sau. Nhà vua vốn không lo phòng bị nên quân bị tan vỡ
nhanh chóng, buộc phải lui vào động Khuất Lão (đất này nay thuộc huyện Tam
Thanh, tỉnh Phú Thọ) để chỉnh đốn quân ngũ. Sau, vua ủy quyền cho tướng là
Triệu Quang Phục trông coi việc nước và chỉ huy việc đánh quân của (Trần) Bá
Tiên”.
Lời bàn:Lý Bí
là bậc có chí cả hơn người, vung gươm diệt giặc để tạo nền thái bình cho xã
tắc, công đức thật là lớn lao. Tiếc thay, khi sự nghiệp lớn chưa thành, ông đã
sớm mất cảnh giác và thiếu sự triệt để. Quân nhà Lương thắng không phải bởi cái
tài của chúng mà là ở chỗ dở của ông đó thôi.
Về
sự đại bại của Lý Bí, hai cây đại bút của sử học nước nhà thời Trần và thời Lê
là Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đều có lời bàn. Xin được giới thiệu hai lời bàn đó
như sau:
-
Lời của Lê Văn Hưu: “Binh pháp cổ có câu rằng, nếu có ba vạn quân sức lực đồng
đều, cả thiên hạ không ai địch nổi. Nay Lý Bí có năm vạn quân mà vẫn không giữ
được nước, ấy là bởi Lý Bí không có tài làm tướng, hoặc giả là bởi quân lính
mới họp lại, chưa quen trận mạc chăng? Không, Lý Bí cũng là bậc tương đối có
tài, ra trận cũng có thể chế ngự được đối phương để giành phần thắng, nhưng
không may là gặp phải Trần Bá Tiên có tài cầm quân đó thôi”.
-
Lời của Ngô Sĩ Liên: “Tiền LýNamĐế dấy binh trừ bạo, rất thuận với
đạo lớn của trời, vậy mà cuối cùng lại bị bại, ấy là vì trời chưa muốn cho nước
nhà được trị bình chăng? Than ôi, nhà vua không chỉ vì gặp phải Trần Bá Tiên là
kẻ có tài cầm quân, mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng cao trợ sức cho giặc
nữa. Đó há chẳng phải tại trời hay sao?”
16 - SỰ TÍCH ĐẦM DẠ TRẠCH
Ở
huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yênngày nay, có khu đầm lầy rất rộng, với
nhiều tên gọi khác nhau như: đầm Dạ Trạch, Nhất Dạ Trạch (cái đầm hình thành
sau một đêm), Mạn Trù Châu (bãi Giăng Màn), Tự Nhiên Châu (bãi Tự Nhiên),v.v.
Tuy nhiên, tên gọi phổ biến và quen thuộc nhất vẫn là đầm Dạ Trạch. Sự tích đầm
Dạ Trạch khá li kì. Nay, xin được trích từ sáchLĩnhNamchích
quáiđể giới thiệu về đầm Dạ Trạch, còn lời bàn về câu chuyện li kì
này, xin kính nhường bạn đọc.
“Vua
Hùng Vương thứ ba sinh hạ được một người con gái, đặt tên là Tiên Dung. Tiên
Dung lên mười tám tuổi, dáng người xinh đẹp, chỉ thích ngao du thiên hạ, không
muốn lấy chồng. Nhà vua yêu chiều nên cũng để nàng thỏa thích. Hàng năm, cứ vào
khoảng tháng hai hoặc tháng ba, Tiên Dung sắm sửa thuyền bè, chu du ra tận
ngoài biển, có khi mải vui quên cả ngày về.
Bấy
giờ ở làng Chử Xá, có hai cha con rất hiền từ và hiếu thảo là Chử Vi Vân và Chử
Đồng Tử. Chẳng may nhà họ gặp hỏa hoạn, của cải cháy hết, hai cha con chỉ còn
lại một chiếc khố bằng vải, ra vào phải thay nhau mà mặc. Đến lúc cha già lâm
bệnh, gọi con là Chử Đồng Tử tới, nói rằng:
-
Cha chết cứ để trần truồng mà chôn, con hãy giữ khố lại, có thế mới mong khỏi
xấu hổ.
Nhưng
khi cha mất, Chử Đồng Tử cứ chôn khố theo cho cha, còn mình thì chịu cảnh đói rét
trần truồng, rất khổ sở. Chử Đồng Tử thường ra sông câu cá, hễ thấy có thuyền
buôn đi qua thì đứng ngâm mình dưới nước mà xin ăn.
Thế
rồi hôm đó, không ngờ thuyền của Tiên Dung tới. Nghe có tiếng chiêng trống, sáo
kèn náo nhiệt và thấy nghi trượng cờ quạt, Chử Đồng Tử hoảng sợ lắm. Nhân thấy
trên bãi cát ven sông có mấy khóm lau lơ thơ vài ba gốc, Chử Đồng Tử bèn vào
moi cát vùi thân, nấp ở đó. Phút chốc, thuyền của Tiên Dung tới. Nàng dừng lại
và lên bờ dạo chơi rồi hạ lệnh cho quây màn chung quanh khóm lau làm nơi tắm
gội. Tiên Dung vào màn cởi áo tắm rửa, dội nước khiến cho cát trôi, lộ ra thân
hình của Chử Đồng Tử. Tiên Dung kinh ngạc, nhìn một lúc lâu, biết đó là người
con trai, liền nói:
-
Ta vốn không muốn lấy chồng. Nay gặp người con trai này trần truồng trong chỗ
tắm gội này, ắt là do trời xui như thế. Thôi, chàng hãy mau dậy cùng tắm rửa
đi.
Tiên
Dung ban cho Chử Đồng Tử áo quần rồi bảo xuống thuyền, cùng dự tiệc vui vẻ.
Người trong thuyền, ai ai cũng cho là cuộc kì ngộ xưa nay chưa từng có. Chử
Đồng Tử nói rõ vì sao mình lại làm như thế. Tiên Dung bùi ngùi than thở, bảo
chàng cùng kết duyên vợ chồng.
Chử
Đồng Tử cố từ chối nhưng Tiên Dung nói:
-
Sự thể gặp nhau là do trời xui ra thế, xin đừng chối từ làm gì nữa.
Những
kẻ theo hầu về tâu với Hùng Vương. Hùng Vương giận dữ, nói rằng:
-
Tiên Dung không hề biết tiếc danh tiết là gì. Nó đã không hề biết tiếc của cải
của ta, rong chơi khắp chốn, lại còn hạ mình lấy kẻ nghèo hèn, thế thì còn mặt
mũi nào mà nhìn ta nữa. Từ nay cứ mặc nó, muốn làm gì thì làm, không được trở
về nữa.
Tiên
Dung nghe được tin ấy, sợ không dám về, bèn cùng Chử Đồng Tử mở phố xá, lập
quán chợ để mua bán với dân, tạo ra chợ lớn, tức chợ Thám bây giờ (chợ Thám
thuộc Văn Giang, nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Con buôn nước ngoài tới lui buôn
bán, ai ai cũng kính thờ Tiên Dung, tôn Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa.
Một
hôm, có con buôn đến nói với Tiên Dung rằng:
-
Nếu quý nhân bỏ ra một dật vàng (mỗi dật tương đương với hai mươi tư lạng) cùng
con buôn ra ngoài buôn bán, thì sang năm sẽ sinh lợi đến mười dật.
Tiên
Dung nghe vậy, lấy làm mừng, bèn nói với Chử Đồng Tử:
-
Duyên vợ chồng là do trời định, còn như cái ăn cái mặc của ta là do ta tự làm.
Nay thử mang một dật vàng theo bọn con buôn ra ngoài mua vật quý về sống xem
sao.
Chử
Đồng Tử bèn theo người khách buôn ấy đi buôn bán, xuôi ngược khắp cả xứ người.
Một hôm qua núi Quỳnh Vi (tên một quả núi chỉ có trong thần thoại), nhân khi
khách buôn ghé vào lấy nước, Chử Đồng Tử bèn lên núi dạo chơi, thấy trên đó có
một cái am nhỏ, trong am có một vị sư tên là Phật Quang. Phật Quang truyền phép
cho Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử bèn đưa tiền cho người khách buôn đi mua hàng, còn
mình thì ở lại học phép thuật. Sau, khách buôn trở lại am đón Chử Đồng Tử cùng
về. Sư Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử một cái gậy, một chiếc nón lá và dặn:
-
Tất cả các phép thần thông linh ứng đều đã ở cả đây.
Chử
Đồng Tử về, đem chuyện học đạo kể hết cho Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bỏ cả
quán chợ và nghề buôn, cùng Chử Đồng Tử đi chu du tìm thầy học đạo. Có hôm đi
xa, tối đến vẫn chưa kịp về nhà, đành nghỉ tạm dọc đường, dựng gậy rồi úp nón
lên để làm chỗ che thân, chẳng dè vào đến canh ba thì các thứ lầu vàng gác tía,
thành quách, lâu đài, kho tàng, miếu mạo cùng vô số vàng bạc châu báu, giường
chiếu trướng màn, tôi tớ nam nữ và thị vệ... hiện ra la liệt trước mắt. Sáng
hôm sau, ai ai trông thấy cũng đều kinh ngạc, bèn đem hoa quả cùng các thức ăn
ngon tới dâng, xin làm bề tôi. Từ đó, (Chử Đồng Tử và Tiên Dung) có đủ trăm
quan văn võ và binh sĩ túc vệ, dựng thành một nước riêng.
Hùng
Vương nghe tin ấy, cho là con gái có ý làm loạn, bèn đem quân đi đánh. Quân của
Hùng Vương sắp tới nơi, quần thần xin đem binh lính ra chống cự. Tiên Dung cười
nói:
-
Việc này không phải do ta làm mà là do trời khiến vậy. Sống chết có trời, làm con
ai chống lại cha bao giờ. Xin hãy thuận theo lẽ, cứ để mặc cho (quân của vua
cha) chém giết.
Lúc
ấy, những dân mới theo đều sợ mà chạy tứ tán, chỉ có dân cũ ở lại cùng Tiên
Dung. Quân của Hùng Vương đến, vì trời đã tối nên dựng dinh trại ở bãi Tự Nhiên,
phía bên kia bờ sông. Đêm ấy, trời nổi gió to, cây bật gốc, cát bay mù mịt,
quân của Hùng Vương rối loạn. Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử và bộ hạ phút chốc bay
lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụt xuống thành một cái đầm rất lớn. Sáng sớm hôm
sau, người ta chẳng thấy lâu đài thành quách đâu nữa, cho đó là điều linh dị,
bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế. Người ta nhân đó gọi đầm ấy là Nhất Dạ
Trạch, bãi cát ấy là bãi Tự Nhiên hoặc bãi Màn Trù và chợ ấy là Hà Thị”.