Việt Sử Giai Thoại (Tập 1) - Chương 05 - 06
05 - SỰ TÍCH THÁNH TẢN
VIÊN
SáchĐại
Việt sử kí toàn thư(ngoại kỉ, từ tờ 4a đến tờ 5a) chép rằng:
“Cuối
thời Hùng Vương, Nhà vua có người con gái gọi là Mỵ Nương, nhan sắc rất xinh
đẹp. Vua nước Thục nghe tiếng, bèn đến cầu hôn. Nhà vua đã muốn gả, nhưng Hùng
Hầu can rằng:
-
Chẳng qua họ muốn chiếm nước ta nên mượn việc cầu hôn để tạo ra cái cớ mà thôi.
Vua
nước Thục vì thế mà để bụng oán giận. Nhà vua muốn tìm người xứng đáng để gả,
liền nói với các bề tôi rằng:
-
Đứa con gái này là giống Tiên, cho nên, chỉ ai đủ tài đức ta mới cho làm rể.
Bấy
giờ, có hai người từ phía ngoài tiến vào, cùng lạy dưới sân xin cầu hôn. Nhà
vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng, một người là Sơn Tinh, một người là Thủy
Tinh, đều là ở trong cõi của Nhà vua cả. Nay, nghe tin Nhà vua có thánh nữ, bên
đánh bạo tới xin chờ mệnh của Vua. Vua nói:
-
Ta chỉ có một người con gái, làm sao lại có thể có đến hai người rể hiền.
Nói
rồi, bèn hạ lệnh cho hai người, rằng đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ tới
trước thì sẽ gả con cho người ấy. Hai người nghe xong, lạy tạ rồi ra về. Hôm
sau, Sơn Tinh đem các thứ châu báu bạc vàng cùng chim rừng thú núi tới dâng.
Nhà vua y hẹn, gả con cho Sơn Tinh. Sơn Tinh đón vợ về trên đỉnh cao của núi
Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến, nhưng muộn hơn, giận là đã đến trễ,
bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập rồi đem các loài thủy tộc đuổi theo.
Nhà vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chắn ngang khu vực thượng lưu sông Từ Liêm
(tức khúc sông Hồng, chảy qua Chèm, ngoại thành Hà Nội - NKT) để ngăn lại. Thủy
Tinh lại theo sông khác, từ vùng Lỵ Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi men sông
Hát và tràn ra sông Lớn (tức sông Hồng - NKT) mà ngoặt sang sông Đà để đánh lên
Tản Viên. Ở đâu (Thủy Tinh) cũng đào vực, đào chằm để chứa nước hòng đánh úp
Sơn Tinh. Sơn Tinh có phép thần biến hoá, sai người đan tre thành hàng rào chắn
nước, lấy cung nỏ bắn xuống, khiến cho các loài thủy tộc đều bị trúng tên mà
chạy trốn. Rốt cuộc, Thủy Tinh không sao xâm phạm được núi Tản Viên. Tục truyền,
từ đó Sơn Tinh và Thủy Tinh đời đời thù oán, hàng năm vẫn dâng nước đánh lẫn
nhau.
Núi
Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm. Mỵ
Nương đã lấy Sơn Tinh, khiến cho vua của nước Thục cũng tức giận, dặn lại con
cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm cho được nước ta".
Lời bàn:Chuyện
đầy những chi tiết bất hợp lí và hoang đường, nhưng giá thử ai đó có tài kể
ngược lại, bỏ hết những chi tiết bất hợp lí và hoang đường, thì... chuyện sẽ
chẳng còn là chuyện nữa.
Bồng
bềnh giữa những lời hư ảo chính là cái gì đó phản ảnh một cách vừa mơ hồ vừa
rất rõ rệt về năng lực trị thủy của cổ nhân. Sừng sững giữa thiên nhiên khắc
nghiệt, núi Tản Viên là biểu tượng của ý chí hiên ngang trước mọi thủy tai.
Chẳng
có gì khó khăn khi tìm chỗ đúng sai của cổ tích, nhưng, làm như vậy phỏng có
ích gì? Giữa bao la của trái đất, những người dân bé nhỏ vẫn tin là có thánh
thần. Thánh thần cao cả mà vô tư, luôn cứu giúp tất cả những người lao động
chân chính. Và đối với ngàn xưa, đó quả là một sức mạnh tinh thần hết sức lớn
lao. Mà… sức mạnh tinh thần, có khi lại khoác áo cổ tích đầy vẻ hoang đường.
Trước
mọi thủy tai, xin bạn hãy trông vời về đất tổ, nơi ấy có Sơn Tinh tức thánh Tản
Viên, bạn tin hay không tin cũng vậy, khi thành kính hướng về đất tổ, nhất định
bạn sẽ tự cảm thấy có một nguồn sức mạnh vô hình nào đấy, khiến bạn tư tin và
phấn chấn hẳn lên. Cứ đợi thử mà xem!
06 – HUYỀN THOẠI VỀ LOA
THÀNH
Loa
Thành hay Cổ Loa Thành, còn có tên khác là Tư Long Thành, người Trung Quốc
thường gọi là Côn Lôn Thành, chính là kinh thành của nước ta thời An Dương
Vương. Di tích Loa Thành nay vẫn còn ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội.
Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp theo kiểu xoáy hình
trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng, dài tổng cộng hơn mười sáu
cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn nhất của nước nhà thời cổ đại, là
chứng tích bất diệt của ý chí và năng lực sáng tạo của tổ tiên ta. Việc đắp
thành khó khăn này đã được tiến hành như thế nào? SáchĐại Việt sử kí
toàn thư(ngoại kỉ, quyển 1, từ tờ 6a đến tờ 7b) chép rằng:
“Thành
này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở, khiến Nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn
trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi
công đắp lại".
…
Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi
cười mà nói rằng:
-
Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?
Vua
liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói:
-
Cứ đợi Giang sứ đến.
Xong,
cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông,
từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang sứ, bàn được chuyện tương
lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên
nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:
-
Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước
phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ,
ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hóa thành.
Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một
con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm
tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho
sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ
tự nhiên xây được bền vững.
Nhà
vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán
nói:
-
Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc họa.
Nhà
vua cười nói:
-
Sống chết đều có mệnh số cả, ma quỷ mà làm gì nổi?
Nói
rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa,
rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe
tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin Vua đuổi theo chúng. Tới
núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán.
Sáng sớm, chủ quán tưởng Nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để
đem đi chôn. Thấy Nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:
-
Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.
Vua
xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo.
Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương
người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn.
Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về.
Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:
-
Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy
gì mà chống giữ?
Rùa
vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:
-
Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có
giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì
không lo gì.
Vua
sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa
vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ".
Lời bàn:Nước
bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu,
đã thế, trình độ kĩ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà Nhà vua dám dốc sức xây
thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn
lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại. Ở một góc độ nào đo, cũng có thể coi là
biểu tượng của những thử thách chất chồng đó thôi.
Việc
Nhà vua nghênh đón Giang sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân
hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang sứ không chút quản ngại, cùng Vua
lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng
Vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết
lòng phò tá chí lớn của Nhà vua!
Nhà
sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỉ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng: “Việc làm
của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh.
thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng
xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi
thần giáng mà suy."(Đại Việt sử kí toàn thư,ngoại kỉ,
quyển 1, tờ 10-b)
Như
An Dương Vương, thần minh giáng lần đấu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc
gia Âu Lạc hùng mạnh: thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người
xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn
chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự
hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.