Chàng hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng ngời - Chương 24 phần 1
Chương 24
Vào buổi sáng,Dougless thấy Arabella ngay khi cô ta bước lên
bục để leo lên con ngựa đen tuyệt đẹp của mình. Gần cô ta là một người đàn ông
Dougless cho là chồng cô ta, Robert Sydney. Dougless muốn thấy anh ta, muốn
thấy mặt của kẻ Nicholas coi là bạn anh, nhưng đã gửi người bạn của mình tới
bục hành hình.
Sydney quay người, và
Dougless hít một hơi thật sâu. Robert Sydney trông rất, rất giống bác sĩ Robert
Whitley, người đàn ông cô đã một lần hi vọng cùng kết hôn.
Dougless quay đi, tay cô
run rẩy. Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, cô tự nhủ với bản thân. Không có gì hơn
là trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng chiều muộn ngày hôm đó, cô nhớ lại cái cách, ở
thế kỷ hai mươi, Nicholas, khi anh lần đầu tiên nhìn thấy Robert, đã trông như
thể anh nhìn thấy ma vậy. Và Robert đã nhìn Nicholas với tất cả sự ghét bỏ
trong mắt anh ta.
Trùng hợp ngẫu nhiên, cô
tự nhủ với bản thân lần nữa. Không có gì hơn.
Trong suốt hai ngày tiếp
theo Dougless hiếm khi nhìn thấy Nicholas. Khi cô có thấy anh, anh đang quắc
mắt nhìn cô từ ngưỡng cửa hay cau mày với cô ở phía bàn đối diện. Dougless bị
giữ hết sức bận rộn bởi toàn bộ gia đình vì họ đã trở nên coi cô như TV, rạp
chiếu phim, lễ hội, buổi hòa nhạc tất cả trộn vào làm một. Họ muốn những trò
chơi, những bài hát, những câu truyện; những yêu cầu của họ về giải trí không
thể thỏa mãn được. Dougless không thể đi bộ trong vườn hay trong nhà mà không
bị ai đó dừng cô lại và hỏi xin thêm một chút trò giải trí nữa. Cô bị giữ bận
rộn hàng giờ dài dằng dặc để nhớ lại mọi thứ cô đã từng đọc hay nghe. Với sự
giúp đỡ của Honoria, cô sáng chế ra một dạng bản thô của trò Cờ tỷ phú. Họ chơi
vẽ hình đoán chữ với những tấm thẻ bằng đá. Khi cô hết những tiểu thuyết hư cấu
cô đã đọc, cô bắt đầu kể cho họ những câu truyện lịch sử về nước Mỹ - Phu nhân
Margaret đặc biệt yêu thích chúng. Nathan Hale[53]trở thành vị anh hùng được yêu thích
của toàn bộ gia đình, và phu nhân Margaret giữ Dougless thức đến nửa đêm một
buổi tối để hỏi về Abraham Lincoln.
[53] Nathan Hale: (1755 – 1776) một quân nhân thuộc
Lục quân trong cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Ông được coi là điệp viên đầu tiên của
Mỹ, được nhớ đến nhiều nhất bởi câu nói trước khi ông bị treo cổ sau trận Long
Island: “Tôi chỉ hối tiếc có một điều là tôi chỉ có một cuộc đời để cống hiến
cho đất nước tôi.”
Dougless cố hết sức có
thể để ở nguyên trong lĩnh vực giải trí và không nói về tôn giáo hay chính trị.
Sau cùng thì chỉ vài năm trước, nữ hoàng Mary đã thiêu những kẻ theo tôn giáo
đối lập. Kit đã hai lần hỏi cô về nông nghiệp ở đất nước cô, và mặc dù chỉ biết
rất ít, cô vẫn có khả năng đưa ra một vài gợi ý về bón phân và nó có thể được
sử dụng cho cây trồng như thế nào.
Dougless biết rằng những
quý cô phục vụ Phu nhân Margaret thất kinh trước tình trạng giáo dục thảm
thương của Dougless, trước tình trạng cô chỉ nói được có mỗi một thứ tiếng và
việc cô không có khả năng chơi bất cứ loại nhạc cụ nào. Và họ không thể đọc
được chữ viết tay của cô. Nhưng phần lớn họ đều tha thứ cho cô.
Trong khi Dougless dạy
thì cô cũng học nữa. Những người phụ nữ này không phải chịu áp lực phải trở
thành mọi thứ cho mọi người như những người phụ nữ thế kỷ hai mươi phải chịu.
Phụ nữ thế kỷ mười sáu không cần phải là một ủy viên công đoàn, một bà mẹ tha
thiết, một bà chủ nhà và một đầu bếp sành ăn, cũng như một người tình sáng tạo
với thân hình của một vận động viên. Nếu người phụ nữ đó giàu có, cô ta sẽ may
vá, trông coi các công việc gia đình và tận hưởng bản thân mình. Tất nhiên cô
ta không được trông mong sống quá tuổi tứ tuần, nhưng ít nhất trong suốt những
năm có mặt trên trái đất của mình, cô ta không bị những áp lực liên miên của xã
hội là phải làm nữa và trở thành nữa.
Khi những ngày ở thế kỷ
mười sáu tại Anh quốc tích lũy lại, Dougless nhớ tới thời gian cô sống với
Robert. Chuông đồng hồ đổ lúc sáu giờ sáng, và cô bổ nhào xuống sàn nhà. Cô
phải cuống cuồng để hoàn thành những công việc thường ngày. Có những bữa ăn
phải chuẩn bị, hàng tạp phẩm cần phải mua, một ngôi nhà để chỉnh chu lại cho
ngay ngắn (Robert có một người phụ nữ dọn nhà một tuần một lần), và một cái bếp
phải dọn sạch lần nữa, lần nữa và lần nữa. Và trong thời gian rảnh rỗi của mình
cô có một công việc toàn thời gian để làm. Đôi lúc cô ước cô có thể ở trên
giường trong ba ngày và đọc những về những vụ giết người bí ẩn, nhưng luôn có
quá nhiều thứ để làm để không bị coi là lười nhác.
Bên cạnh đó, còn có cảm
giác tội lỗi nữa. Nếu cô nghỉ ngơi, cô cảm thấy cô “nên” tới phòng tập để giữ
cho đùi cô không bị vòng kiềng, hay cô “nên” lên kế hoạch một vài bữa tiệc tối
tuyệt hảo cho bạn đồng nghiệp của Robert. Cô cảm thấy tội lỗi khi chỉ dọn ra
món pizza từ tủ lạnh cho bữa tối vì quá mệt.
Nhưng bây giờ, ở đây
trong thế kỷ mười sáu này, những áp lực của một ngày thời hiện đại dường như
thật xa xôi. Mọi người không sống một mình và cách biệt. Ở đây không có một
ngôi nhà chỉ với một người phụ nữ làm tới hai mươi công việc; đây là một ngôi
nhà với một trăm bốn mươi hay chừng đó người để làm có lẽ là một vài công việc.
Một ngôi nhà mà một người phụ nữ độc thân, mệt mỏi không phải nấu nướng, dọn
dẹp, lau chùi, và vân vân, cộng thêm cả một công việc bên ngoài. Ở đây một
người chỉ có một công việc.
Phụ nữ thời hiện đại có
những cảm giác tội lỗi của riêng mình để khiến họ sầu khổ, nhưng những người ở
thế kỷ mười sáu có những bệnh dịch, nỗi sợ hãi những thứ không biết, sự dốt nát
về y học, và nhũng cái chết liên miên và luôn luôn thường trực ám ảnh họ. Người
ở thế kỷ mười sáu thường xuyên chết, và cái chết luôn luôn ở cạnh những người
thời Elizabeth đệ nhất. Đã có bốn cái chết trong toàn thể gia đình kể từ khi
Dougless tới, và tất cả họ đều có thể tránh được với những phòng cấp cứu được
trang bị đầy đủ. Một người đàn ông chết vì một chiếc xe ngựa lật trúng ông ta.
Chảy máu trong. Khi Dougless nhìn thấy ông ta, cô sẽ cho đi bất cứ cái gì để
trở thành bác sĩ và có khả năng cầm máu. Mọi người chết vì viêm phổi, cảm cúm,
hay vì một vết bỏng dẫn đến nhiễm trùng. Dougless phân phát những viên aspirin,
chấm nhẹ những vết thương với thuốc mỡ Neosporin, phân phối những thìa đầy
Pepto-Bismol(một loại thuốc trị đau
dạ dày). Cô chỉ có thể giúp mọi người một cách nhất thời, nhưng cô không
thể làm gì với những chiếc răng sâu, với việc bị đứt dây chằng khiến con người
bị què suốt đời, hoặc ruột thừa khi bị viêm và giết chết những đứa trẻ.
Cô cũng không thể làm gì
về tình trạng nghèo đói. Một lần cô cố gắng nói chuyện với Honoria về sự khác
biệt mênh mông giữa cách gia đình Stafford sống và cách dân làng sống. Đó là
khi Dougless học về những luật lệ hạn chế chi tiêu. Ở nước Mỹ mọi người giả vờ
là bình đẳng, nói rằng một người đàn ông sở hữu hàng triệu đô la cũng không tốt
đẹp gì hơn một anh chàng nào đó đổ mồ hôi ra để kiếm sống. Nhưng không ai tin
điều đó hết. Những tội phạm giàu có thoát ra với bản án nhẹ nhàng, những người
nghèo khổ nhận được những bản án với mức khung cao nhất.
Ở thế kỷ mười sáu
Dougless nhận thấy rằng ý tưởng về bình đẳng là một khái niệm để hứng những
tràng cười. Con người không bình đẳng, và theo luật pháp họ thậm chí còn không
được phép ăn mặc bình đẳng. Nhất quyết không tin, Dougless đã nhờ Honoria giải
thích về những điều luật hạn chế chi tiêu này. Luật xác định bá tước có thể mặc
lông chồn zibeline, nhưng nam tước thì chỉ có thể mặc lông cáo bắc cực thôi.
Nếu một người đàn ông có thu nhập một trăm bảng một năm hoặc ít hơn, anh ta có
thể dùng nhung may áo chẽn nhưng không được phép may áo choàng. Nếu anh ta chỉ
làm ra hai mươi bảng một năm, anh ta chỉ có thể mặc áo chẽn bằng sa tanh hay
gấm Đa-mát và áo choàng bằng lụa. Một người đàn ông làm ra mười bảng một năm
hay ít hơn không được phép mặc áo quần tốn quá hai si-linh một thước vải. Người
hầu không được mặc áo choàng dài xuống quá bắp chân, và người học việc chỉ được
phép mặc màu xanh da trời (đây là lý do tại sao tầng lớp thượng lưu hiếm khi
mặc màu này).
Những quy định cứ tiếp
diễn và tiếp diễn. Chúng bao phủ bởi thu nhập, loại lông thú, màu sắc, chất
vải, kiểu. Dougless được phép mặc bất cứ thứ gì một nữ bá tước mặc vì cô là một
trong những quý cô theo hầu phu nhân Margaret. Cười phá lên trước tất cả những
điều đó, Honoria nói rằng một người mặc những gì anh ta có thể chi trả được,
nhưng nếu một người bị phát hiện ra, anh ta sẽ phải nộp phạt vào kho bạc thành
phố; sau đó anh ta quay trở lại mặc bất cứ thứ gì anh ta muốn.
Trong thế kỷ hai mươi
Dougless chưa bao giờ quan tâm quá nhiều về áo quần. cô thích chúng dài và
thoải mái, nhưng ngoài ra cô ít chú ý về chúng. Nhưng những bộ váy áo thời
Elizabeth đệ nhất tuyệt đẹp này lại là một vấn đề khác! Chỉ trong vài ngày cô ở
thế kỷ mười sáu, cô đã nhận ra rằng mọi người bị ám ảnh bởi quần áo. Những quý
cô theo hầu phu nhân Margaret dành hàng giờ để bàn bạc về váy áo.
Một hôm có một thương
nhân tới từ Ý, và ông ta và hai chiếc xe ngựa chở đầy vải vóc của mình đã được
chào đón tại phòng tiếp kiến như thể ông ta đã khám phá ra thuốc trị những vết
đốt của bọ chét vậy. Dougless đã nhận thấy bản thân cô tham gia một cách điên
cuồng vào việc kéo ra những súc vải bó chặt và giơ chúng lên cho bản thân cô
hay những người phụ nữ khác.
Cả Nicholas và Kit đều
tham gia cùng họ. Như hầu hết đàn ông, họ thích được bao quanh bởi những người
phụ nữ xinh đẹp, hào hứng, vui vẻ. Trước sự ngượng ngùng của Dougless, nhưng
cũng với sự vui sướng của cô nữa, Kit đã chọn vải cho hai chiếc áo choàng cho
cô, nói rằng đã đến lúc cô mặc quần áo của chính mình rồi.
Đêm đó ở trên giường,
Dougless đã nằm thức một lúc và nghĩ thật khác biệt biết bao, nhưng cũng thật
giống biết bao những người thời Elizabeth đệ nhất này với những người ở thời
đại của cô. Từ việc đọc những cuốn tiểu thuyết có bối cảnh là thời Elizabeth đệ
nhất, Dougless đã nghĩ mọi người ở đó chẳng làm gì ngoại trừ thảo luận chính
trị. Thậm chí dường như với TV, đài và những tờ báo, tạp chí ra hàng tuần,
người Mỹ cũng không thể được thông tin đầy đủ bằng nửa so với các nhân vật
trong những cuốn tiểu thuyết thời trung cổ. Nhưng Dougless nhận ra những người
này, cũng như những người Mỹ bình thường, họ tập trung vào quần áo, buôn
chuyện, và việc điều hành trơn tru một đại gia đình khổng lồ và phức tạp hơn là
việc nữ hoàng đang làm gì.
Cuối cùng, Dougless quyết
định làm những gì cô có thể giúp, nhưng cô không tin công việc của cô là đi
thay đổi cuộc sống ở thế kỷ mười sáu. Cô đã được gửi quay trở lại quá khứ để
cứu Nicholas, và đó là thứ mà cô đã dự tính sẽ tập trung vào. Cô là một người
quan sát, không phải là một người truyền giáo.
Tuy nhiên, có một khía
cạnh trong cuộc sống thời trung cổ mà Dougless không thể nào chịu đựng được, và
đó là việc lười tắm rửa. Người ở đây rửa mặt, tay và chân, nhưng tắm toàn diện
là một sự kiện hiếm có. Honoria cứ tiếp tục cảnh báo Dougless về việc tắm táp
“thường xuyên” của cô (ba lần một tuần), và Dougless ghét cái việc người làm
phải lôi bằng dây goòng bồn tắm vào phòng ngủ, sau đó kéo lê những thùng nước
nóng. Sự thử thách của việc chuẩn bị cho việc tắm táp khủng khiếp đến nỗi sau
khi Dougless tắm, hai người nữa sẽ sử dụng bồn nước. Một lần Dougless là người
tắm thứ ba và cô nhìn thấy những con rận nổi trên mặt nước.
Tắm táp đang gần trở
thành nỗi ám ảnh của cô cho đến khi Honoria chỉ cho cô đài phun nước ở khu vườn
mê lộ. “Mê lộ trong” là hàng rào được trồng theo những thiết kế phức tạp, với
những bông hoa rực rỡ những đường nhánh. Ở trung tâm của bốn mê lộ là một đài phun
nước bằng đá cao chảy xuống một cái hồ nhỏ. Khi Honoria ra hiệu cho một đứa bé
đang làm cỏ trong vườn, nó chạy ra khuất sau bức tường; rồi trước sự thích thú
của Dougless, nước chảy ra từ đỉnh của đài phun và chảy xuống hồ. Đứa trẻ đã
được ra lệnh quay bánh xe.
“Thật tuyệt vời.”
Dougless đã nói. “Thật giống thác nước, hay một...” Mắt cô bắt đầu lóe lên một
tia hi vọng. “Hay giống một vòi hoa sen.” Trong khoảnh khắc đó một kế hoạch đã
bắt đầu hình thành trong tâm trí cô. Cô nói chuyện riêng với đứa bé, người đã
quay bánh xe và sắp xếp để trả cho nó một xu nếu nó gặp cô vào bốn giờ sáng hôm
sau.
Thế nên, vào bốn giờ sáng
ngày kế tiếp, Dougless rón rén ra khỏi phòng của Honoria, xuống cầu thang, và
ra ngoài khu vườn mê lộ. Cô mang theo dầu gội và dầu xả, một cái khăn tắm và
khăn rửa mặt. Đứa bé, mắt ngái ngủ nhưng mỉm cười, nhận lấy một xu (thứ mà
Honoria đã đưa cho Dougless) và đi quay bánh xe. Dougless ngập ngừng trong một
khoảnh khắc, cân nhắc xem liệu có cởi hết quần áo ra hay không, nhưng trời vẫn
khá tối và phải mốt một lúc nữa trước khi phần còn lại của ngôi nhà thức giấc.
Thế nên, cô trượt ra khỏi cái áo choàng đi mượn, chiếc áo sơ mi vải lanh dài và
bước, trần truồng, vào phía dưới vòi phun.
Chưa bao giờ có một ai
trong lịch sử lại thích thú với vòi hoa sen nhiều hơn thế! Dougless cảm thấy
như thể ghét bẩn của cả một năm, chất nhờn và mồ hôi được gột sạch khỏi cô. Cô
chưa bao giờ cảm thấy sạch sẽ khi sử dụng bồn tắm, và sau một tuần không tắm
rửa, cô cảm thấy đầy bụi bẩn. Cô bôi dầu gội đầu ba lần, sau đó dùng dầu xả,
cạo lông chân và dưới cánh tay, sau đó xả sạch. Thiên đường. Thiên đường hoàn
hảo tuyệt đối.
Sau một lúc lâu cô bước
ra khỏi vòi phun, huýt sáo cho cậu bé dừng quay bánh xe, sau đó lau khô và mặc
áo choàng của cô vào.
Cô đang mỉm cười hết cỡ
khi cô bắt đầu đi xuống trở lại con đường mòn quay về ngôi nhà. Có lẽ cô đang
cười toe toét quá rộng để có thể nhìn ngó cho cẩn thận, hoặc có lẽ là trời vẫn
còn quá tối để nhìn cho rõ, vì cô đâm sầm vào ai đó.
“Gloria!” cô nói khi cô
nhận ra đó là nữ thừa kế người Pháp. “Ý tôi là,” cô nói, lắp lắp, “Tôi đoán em
không phải là Gloria, đúng không? Mụ sư tử cái đó đâu rồi?” Dougless thở hắt ra
trước những gì cô vừa nói. Cô hiếm khi nhìn thấy cô gái này, nhưng khi cô nhìn
thấy, cô bé luôn bị hộ tống bởi một người giám hộ kiêm vú em cao kều, hống
hách. “Tôi không có ý...” Dougless bắt đầu xin lỗi.
Cô nàng nữ thừa kế không
trả lời nhưng lướt ngang qua Dougless với mũi hếch lên trời. “Tôi đã đến tuổi
tự chăm lo cho mình được rồi. Tôi không cần vú em nào hết.”
Dougless mỉm cười với cái
lưng của cô gái mũm mĩm. Cô bé nghe giống hệt như Dougless hồi học lớp năm. Cả
hai đều nghĩ mình đã đủ lớn để tự chăm lo được cho bản thân mình rồi. “Lẻn ra
ngoài, phải không?” Dougless nói, mỉm cười.
Cô bé quay ngoắt lại và
quắc mắt lườm Dougless, sau đó khuôn mặt cô bé dịu đi. “Bà ấy ngáy,” cô bé nói
với một chút nụ cười; sau đó cô bé nhìn lại đài phun nước. “Chị làm gì ở đây?”
Khi Dougless nhìn lại,
đầy kinh hãi, cô thấy cái hồ bơi nhỏ đầy bong bóng xà phòng. Với Dougless,
những cái bong bóng là ô nhiễm, nhưng cô nàng nữ thừa kế dường như nghĩ rằng
chúng thật tuyệt vời. Cô gái vốc một vốc tay đầy bọt xà phòng.
“Chị đi tắm,” Dougless
nói. “Muốn tắm không?”
Cô gái khẽ nhún vai.
“Không, sức khỏe của tôi khá là mỏng manh.”
“Tắm táp thì không hại
gì...” Dougless bắt đầu nhưng khự lại. Không làm công cuộc truyền giáo, nhớ
chưa? Cô tự nhắc nhở bản thân. Chuyển đến đứng cạnh cô gái, Dougless nhìn đến
cô bé trong ánh sáng buổi sớm. “Ai nói là em mỏng manh?”
“Quý bà Hallet.” Cô bé
nhìn Dougless. “Mụ sư tử cái của tôi.” Có hai lúm đồng tiền nhỏ xíu trên má cô
bé.
Dougless cân nhắc những
gì cô chuẩn bị nói, và cô biết cô đang có được một cơ hội, nhưng đứa trẻ trông
như thể cô bé cần một người bạn. “Quý bà Hallet nói em mỏng manh để bà ấy có
thể bảo em ăn gì, nơi nào em có thể đến còn nơi nào thì không, và ai có thể là
bạn em, ai thì không. Thực tế là bà ấy đã giữ em dưới ngón trỏ của bà ấy nhiều
đến nỗi em phải lẻn ra ngoài trước lúc bình minh chỉ để ngắm khu vườn. Như thế
có ổn không?”
Trong một khoảnh khắc,
miệng cô gái rơi ra, nhưng sau đó cô bé cứng người lại và tặng cho Dougless một
cái liếc kiêu kì. “Quý bà Hallet bảo vệ tôi khỏi tầng lớp thấp hơn.” Cô bé nhìn
từ đầu đến chân Dougless.
“Như là tôi hả?” Dougless
hỏi, nén lại một nụ cười.
“Chị không phải là một
công chúa gì hết. Quý bà Hallet nói một công chúa không tự mình biểu diễn như
chị làm. Bà ấy nói chị không có giáo dục. Chị thậm chí còn không nói tiếng
Pháp.”
“Đó là những gì quý bà
Hallet nói. Nhưng em nghĩ gì về chị?”
“Rằng chị không phải là
một công chúa hay là chị không...”
“Không.” Dougless chen
ngang. “Không phải những gì quý bà Hallet nói mà là em nghĩ gì?”
Cô gái há hốc mồm ra
trước Dougless, rõ ràng là không biết phải nói gì.
Dougless mỉm cười với cô
bé. “Em có thích Kit không?”
Cô gái nhìn xuống tay
mình, và Dougless nghĩ khuôn mặt của cô bé đã chuyển sang màu đỏ. “Tệ đến thế
hả?”
“Anh ấy không chú ý đến
tôi,” cô gái thì thầm, có nước mắt trong giọng nói của cô bé. Khi đầu cô bé
ngẩng lên và cô bé quắc mắt đầy ghét bỏ với Dougless, tại khoảnh khắc đấy cô bé
trông giống Gloria nhiều đến kì quái. “Anh ấy nhìn chị.”
“Chị?” Dougless há hốc
miệng vì kinh ngạc. “Kit không thích thú gì chị đâu.”
“Tất cả đàn ông đều thích
chị. Quý bà Hallet nói chị sắp sửa trở thành một... một...”
Dougless nhăn mặt. “Đừng
có nói cho chị. Chị đã bị gọi như thế rồi. Nghe này... tên em là gì?”
“Tiểu thư Allegra Lucinda
Nicolletta de Couret,” cô bé nói đầy kiêu hãnh.
“Nhưng bạn bè gọi em là
gì?”
Cô gái nhìn bối rối trong
một khoảnh khắc, sau đó mỉm cười. “Người vú nuôi đầu tiên gọi tôi là Lucy.”
“Lucy,” Dougless nói, mỉm
cười, nhưng sau đó cô nhìn lên bầu trời đang sáng dần. “Chị đoán là ta tốt hơn
hết nên quay lại. Mọi người sẽ đi tìm... chúng ta mất.”
Lucy trông có vẻ giật
mình, sau đó túm lấy chiếc váy nặng trịch, đắt tiền của cô bé và bắt đầu chạy.
Cô bé rõ ràng là kinh hãi trước viễn cảnh bị tìm kiếm vì mất tích.
“Sáng mai nhé,” Dougless
gọi với theo cô bé. “Cùng thời gian.” Cô không chắc Lucy có nghe thấy hay
không.
Dougless trở lại ngôi
nhà, lờ tịt đi cái nhìn của người làm trước mái tóc ướt đẫm và chiếc áo choàng
của cô. Khi cô mở cánh cửa phòng ngủ của Honoria, cô thở dài. Giờ lại bắt đầu
công đoạn đau đớn, dài dằng dặc của việc mặc váy áo, và ngay lúc này cô ước
những chiếc quần bò và áo len dài tay dễ chịu và thoải mái của cô.
Sau bữa sáng cô lẻn ra
khỏi những người phụ nữ khác để tìm Nicholas. Những người phụ nữ đang yêu cầu
những bài hát mới, và cái kho bài hát nhỏ tẹo của Dougless đã rỗng không rồi.
Cô đã xuống tới mức ngâm nga những giai điệu và thuyết phục những người phụ nữ
tự sáng tác nên lời của chính họ. Nhưng hôm nay cô phải nói chuyện với
Nicholas. Không một điều gì về cuộc hành hình sẽ thay đổi nếu cô không nói
chuyện với anh.