Chàng hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng ngời - Chương 07 phần 1
Chương 7
Khi Dougless cùng anh đi bộtới cửa hiệu kem, cô suy nghĩ về câu hỏi đó.
Điều gì sẽ khiến cô tin đây? Cô tự hỏi bản thân. Nhưng cô chẳng nghĩ được điều
gì hết. Nó dường như giải thích được mọi thứ. Anh ta có thể là một diễn viên
tuyệt hảo và chỉ đơn giản giả vờ rằng mọi thứ là mới mẻ đối với anh. Răng anh
ta có thể đã bị giật mạnh ra trong khi chơi bóng bầu dục ở trường đại học. Vì
cô có thể xác minh lại hầu hết mọi thứ anh ta đã kể với cô, điều đó có nghĩ là
anh ta đã tìm thấy thông tin này trước đây, sau đó sử dụng nó trong trò chơi đố
chữ của anh ta.
Liệu có điều gì anh ta có
thể làm để chứng minh với cô rằng anh ta đến từ quá khứ không?
Trong cửa hiệu kem, cô lơ
đãng gọi cho mình một cây kem ốc quế suất đơncó vịmôca, nhưng
vớiNicholas, cô gọi một cây ốc quế suất đôi vị vani kiểu Pháp và kẹo
mềmsôcôla. Cô xem xét câu hỏi của mình tập trung đến nỗi cô không nhìn
thấy vẻ mặt anh khi anh liếm cú liếm đầu tiên, thế nên cô giật nảy mình khi anh
vươn tới và hôn cô, thật nhanh, nhưng cũng thật kiên quyết, ngay ở miệng.
Chớp mắt, cô nhìn lên anh
và thấy vẻ hạnh phúc rạng ngời trên khuôn mặt anh khi anh ăn cây kem của mình.
Dougless không thể không phá ra cười.
“Khotàng báu vật,”
cô nói, và giật nảy người với chính những từ ngữ của cô.
“Mmm?”Nicholas hỏi, sự chú ý của anh đangmột trăm phần trămhướnglên
cây kem của mình.
“Để chứng minh cho tôi
rằng anh đến từ quá khứ, anh phải biết điều gì đó không ai khác biết. Anh phải
cho tôi thấy điều gì đó không có trong sách vở.”
“Như kiểu ai là cha đứa
con cuối cùng của phu nhân Arabella Sydney á?” Anh ta đang cúi xuống cái vỏ ốc
quế sôcôla và nhìn như thể anh ta có thể tan chảy ra vì hạnh phúc. Đặt tay cô
dưới khuỷu tay anh, cô dẫn anh lại chỗ cái bàn.
Ngồi đối diện anh, nhìn
vào đôi mắt xanh lơ và hàng lông mi thật dày khi anh liếm cái ốc quế, cô tự hỏi
liệu anh có nhìn một người phụ nữ nào như thế khi anh làm tình với cô ta.
“Ngươi cứ nhìn trừng
trừng vào ta thế.” Anh nói, sau đó nhìn cô qua hàng lông mi của anh.
Quay đi, Dougless hắng
giọng. “Tôi không muốn biết ai là cha đứa trẻ của phu nhân Arabella.” Cô không
nhìn lại khi nghe Nicholas cười phá lên.
“Khotàng báu vật,”
anh nói khi anh gặm lạo xạo cái vỏ ốc quế. “Một vài món đồ nữ trang có giá trị
đã đượcgiấu đi, nhưng nó vẫncònđó sau bốn trăm hai mươi tư
năm sao?”
Anh ta có thể làm tính
cộng trừ, Dougless nghĩ khi cô nhìn lại vào anh. “Quên nó đi. Chỉ là một ý
tưởng thôi.” Cô mở cuốn vở của mình ra. “Để tôi kể cho anh những gì tôi đã tìm
ra ở thư viện,” cô nói khi cô bắt đầu đọc ghi chú của mình về những ngôi nhà.
Khi cô nhìn lên, Nicholas
đang lau tay anh vào một tờ giấy ăn và cau mày. “Một người xây nhà đểcó
thứ gì đó của mình được tiếp tục sống. Tốt hơn là ta không nên nghe thấy những
thứ của ta đã bị mất đi.”
“Tôi nghĩ con cái được
cho là tiếp nối tên tuổi của gia đình.”
“Ta không có con,” anh nói.
“Ta đã có một đứa con trai, nhưng nó bị ngã chết một tuần sau khi anh trai ta
bị chết đuối. Đầu tiên là người mẹ, sau đó là đứa trẻ.”
Dougless thấy nỗi đau vụt
ngang qua khuôn mặt anh và bất thình lình cảm thấy thế kỷ hai mươi mới thật dễ
dàng và an toàn làm sao. Chắc chắn, nước Mỹ có những kẻ cưỡng bức, một đống
những kẻ sát nhân và những gã tài xế say xỉn, nhưng vào thời Elizabeth đệ nhất
có bệnh dịch, bệnh hủi và bệnh đậu mùa. “Tôi rất tiếc,” cô nói. “Rất tiếc cho
cả anh và bọn họ.” Cô dừng lại một chút. “Anh đã bị bệnh đậu mùa (smallpox)chưa?” cô hỏi khẽ.
“Khôngđậunhỏ
mà cũng khôngđậu to,” anh nói
với một chút gì đó kiêu hãnh.
“Đậu mùa to(largepox)?”
Anh ta liếc quanh căn
phòng rồi thì thầm, “Chứng bệnh của bọn người Pháp.”
“À,” cô nói, đã hiểu ra.
Bệnh hoa liễu. Vì một vài lý do cô mừng khi được nghe thấy rằng anh chưa bao
giờ bị “bệnh đậu to” - không phải nó là vấn đề, nhưng họ có dùng chung phòng
tắm.
“Cái’mở cửa cho
công chúng’ nàytức là sao?” anh ta hỏi.
“Thông thường là người
chủ không thể trang trải chi phí cho căn nhà, thế nên họ tặng chúng choQuỹ Niềm Tin Dân Tộc[16], vậy là bây giờ anh trả tiền và một
hướng dẫn viên sẽ đưa anh đi khắp ngôi nhà. Chúng là nhữngchuyến tham
quanrất tuyệt. Căn nhà đặc biệt này có tiệm trà và...”
[16] National Trust: là một quỹ từ thiện, hoàn toàn
độc lập với chính phủ, bảo tồn và mở cửa những ngôi nhà, khu vườn lịch sử và
những tượng đài kỷ niệm cho công chúng tới tham quan.
Nicholas đột nhiên ngồi
thẳng dậy. “Là Bellwood mở cửa cho công chúng phải không?”
Cô kiểm tra những ghi
chú. “Phải, Bellwood. Ngay phía nam của Bath.”
Nicholas dường như có vẻ
tính toán. “Nếu cưỡi ngựa nhanh chúng ta có thể đến Bath trong có khoảng bảy
giờ.”
“Với một chuyến tàu hỏa
kiểu Anh chúng ta có thể đến đó chỉ trong hai giờ. Anh có muốn thăm lại ngôi
nhà của mình lần nữa không?”
“Xem xem nhà của ta bị
đem bán cho một công ty, với những gã đàn ông đeo tạp dề mặt mày nhợt nhạt diễu
hành băng qua nó?”
Dougless mỉm cười. “Nếu
anh cứ cho là thế...”
“Chúng ta có thể đi bằng
cái...”
“Tàu hỏa.”
“Tàu hỏa đến Bellwood
ngay bây giờ à?”
Dougless nhìn vào đồng hồ
của cô. “Chắc chắn rồi. Nếu chúng ta rời đi ngay bây giờ chúng ta có thể dùng
trà ở đó và thăm quan Bellwood. Nhưng nếu anh không muốn thấy mấy gã mặt mày
nhợt nhạt...”
“Đeo tạp dề nữa,” anh ta
nói, mỉm cười.
“Diễu hành băng qua căn
nhà, vậy thì sao lại phải đi?”
“Có một cơ hội, một
cơhội nhỏ thôi, rằng ta có thể, có lẽ là,sẽtìm thấy kho tàng
của ngươi. Khi những sự sản của ta bị sung công bởi,” anh ta nhìn cô đầy nhạo
báng... “Nữ hoàng Đồng trinh của các ngươi,” anh ta cho Dougless biết anh ta
nghĩ gì về cái ý tưởng ngớ ngẩn đó... “Ta không biết liệu gia đình ta có được
cho phép thu dọn những sự sản không. Có lẽ có một cơ hội...”
Cái ý tưởng dành cả một
buổi chiều tìm kiếm khotàngkhiến Dougless thấy đầy hào hứng. “Chúng
ta còn đợi gì nữa?” cô hỏi khi nhặt cái túi xách mới của mình lên. Lần này, cô
sắp xếp nó đầy những đồ vệ sinh cá nhân dùng khi đi du lịch, và cô sẽ không đi
bất cứ đâu mà không có nó.
Hệ thống tàu hỏa là một
điều khác nữa mà Dougless yêu thích về nước Anh. Gần như mọi ngôi làng đều có
nhà ga, và không như tàu hỏa của Mỹ, chúng đều rất sạch, không bị vẽ grafitô[17], và được giữ gìn cẩn thận. Khi Dougless
mua vé tàuxong, côliềnđược thông báo là chuyến
tàuchuyển tiếptới Bath sắp sửa rời ga, điều không phải không thường
xảy ra vì những chuyến tàu nước Anhhoạt độngthường xuyên một cách
tuyệt vời.
[17] Grafitô: (graffiti) một loại hình vẽ, chữ viết trên
tường cổ. Nghệ thuật Grafitô là nghệ thuật trang trí bằng cách cạo thạch cao
cho lộ mặt dưới có màu khác.
Ngay khi đã yên vị trên
tàu và nó bắt đầu chuyển động, mắt của Nicholas như lồi cả ra trước tốc độ của
nó. Nhưng, sau một vài khoảnh khắc lo âu, như một người Anh thực thụ, anh điều
chỉnh lại được với tốc độ và bắt đầu đi lại quanh quanh. Anh ta nghiên cứu
những tấm quảng cáo treo cao trên tường, mỉm cười đầy vui sướng trước một tấm
áp phích quảng cáo của Colgate, nhận ra tuýp kem đánh răng cô đã mua. Nếu anh
ta có thể nhận ra những chữ cái, có lẽ sẽ không có khăn lắm để dạy anh ta đọc,
cô nghĩ.
Tại Bristol, họ đổi tàu.
Nicholas kinh hãi trước số lượng những người vội vã tại nhà ga, và anh ta như
mê mệt bởi những hoa văn trang trí công phu bằng thép thờiNữ
hoàngVictoria. Cô mua một cuốn sách hướng dẫn du lịch dày về những ngôi
nhà ở phía nam nước Anh được nhiều người quan tâm đến ở quầy bán báo, và trên
đường tới Bath, cô bắt đầu đọc cho Nicholas nghe về những ngôi nhà của anh mà
ngày nay đã bị đổ nát. Nhưng khi cô nhận thấy rằng nghe về những thứ đã bị phá
hủy và hoang phế như thế khiến anhphiền muộn, cô thôi không đọc nữa.
Anh ta nhìn ra ngoài
những khung cửa sổ to và lúc này hay lúc khác nói, “Đó là nhà của William,” hay
“Robin sống ở đó,” khi anh nhìn thấy những ngôi nhà khổng lồ lác đác xuất hiện
ở vùng nông thôn nước Anh thường xuyên như bò và cừu xuất hiện vậy.
Bath, Bathxinh đẹp,
tuyệt đẹp, là một kì quan đối với Nicholas. Với Dougless nó cũ kĩ, vì các công
trình kiến trúc tất cả đều từ thế kỷ mười tám, nhưng với anh nó lại rất hiện
đại. Dougless nghĩ rằng New York hay Dallas với những tòa nhà bằng thép và kính
sẽ trông như những nơi ngoài vũ trụ đối với anh. Anh ta chỉ hành động chúng
trông kì lạ thôi, cô tự sửa bản thân mình, sau đó chú ý rằng cô đã tự sửa bản
thân mình ngày càng ít hơn với mỗi giờ cô dành ở bên anh ta.
Họ ăn trưa tại một hiệu
bánh xăng-uých kiểu Mỹ, và Dougless gọi xăng-uýchhai tầng[18], sa lát khoai tây, và trà đá cho cả
hai bọn họ. Anh nghĩ bữa ăn rất ngon những thiếu về mặt số lượng. Điều đó mất
một vài cuộc nói chuyện nhanh, nhưng Dougless đã xoay xở để kéo được anh ra
khỏi nhà hàng trước khi anh ta bắt đầu yêu sách món đầu lợn đực hay cái gì đó.
[18] Club sandwich: là loại xăng-uých với hai lớp được
trám giữa ba lớp bánh mì, với nhân bánh thường là gà tây ở lớp dưới cùng, thịt
lợn xông khói, dau diếp, cà chua ở trên. Nó thướng được cắt thành hình tam giác
và được giữ lại với nhau bởi một cái que trang trí cocktail.
Anh bị mê hoặc bởi những
dãy nhà hình trăng lưỡi liềm ở Bath đến nỗi Dougless ghét phải gọi taxi và đưa
anh ra khỏi thành phố. Nhưng leo lên một chiếc ô tô đã nhấc tâm trí Nicholas ra
khỏi những tòa nhà. Lái xe taxi ở Anh cư xử rất khác với lái xe taxi ở Mỹ. Họ
không hét lên khi ai đóđứngquá lâu mới có thể leo lên xe, thế nên
Nicholas có cả đống thời gian để nhìn ngắm chiếc ô tô. Anh kiểm tra cửa xe và
khóa cửa, mở và đóng nó ba lần trước khi leo lên, và một lần nữa sau khi kiểm
tra ghế sau, anh rướn người lên phía trước và quan sát bảng đồng hồ và cần gạt
số.
Khi họ đến
Bellwood,chuyếnthăm quan tiếp theo bắt đầu trong nửa giờ tới, thế
nên họ có thời gian dể đi bộ quanh quanh những khu vườn. Dougless nghĩ chúng
tuyệt đẹp nhưng Nicholas cong môi lên, và chỉ đơn giản là liếc mắt đến những
bồn cây, hoa và những hàng cây cổ thụ. Khi anh đi vòng quanh ngôi nhà to lớn,
ngổn ngang, anh kể cho cô về những thứ gì đã bị thêm vào cho ngôi nhà và những
thứ gì đã bị thay đổi. Anh nghĩ những thứ được thêm vào là một công trình kiến
trúc kinh khiếp và nói thẳng thừng cho cô biết điều đó.
“Kho báu được
chôngiấu trong khu vườn à?” cô hỏi, khó chịu với chính bản thân mình vì
đã hỏi, cô nghe như một đứa trẻ đang háo hức vậy.
“Hủy hoại một khu vườn
bằng cách chôn vàng dưới rễ cây cối của ta ư?” anh ta hỏi lại, rùng mình một
cách nhạo báng.
“Nhân tiện, anh cất tiền
của mình ở đâu? Ý tôi là họ cất tiền của họ ở đâu?”
Nicholas rõ ràng không
hiểu câu hỏi của cô - hoặc là không muốn hiểu - vậynên côcho nó
qua. Vì những khu vườn dường như khiến anh giận dữ, cô dẫn anh vào cửa hàng đồ
lưu niệm, và trong một lúc, anh đầy hạnh phúc trong cửa hiệu. Anh nghịch với
mấy chiếc bút máy và một vài cái ví nhựa đựng tiền xu, và anh cười lớn khi lần
đầu tiên nhìn thấy cái đèn pin nhỏ xíu với chữ “Bellwood” được in trên nó. Anh
không thích mấy tấm bưu ảnh, và Dougless không thể hiểu cái gì khiến anh phiền
lòng về chúng đến vậy.
Anh lấy một cái túi đựng
đồ loại to in lụa hình Bellwood khỏi cái kệ trước mặt. “Ngươi sẽ cần một trong
những cái này,” anh nói, mỉm cười; sau đó rướn người lên phía trước và thì
thầm, “vì kho báu.”
Dougless cố hết sức có
thể để trông không run lên vì hồi hộp trước những lời của anh. Bình tĩnh hết
mức có thể, cô mang cái túi đựng đồ và cái đèn pin đến quầy thanh toán, nơi cô
trả tiền cho chúng và vé chochuyếntham quan sắp tới. Cô cố một lần
nữa xem mấy tấm bưu ảnh, nhưng Nicholas chẳng để cho cô nhìn. Mỗi lần cô đến
gần cái giá, anh lại siết chặt mấy ngón tay khỏe mạnh đầy vũ lực lên cánh tay
cô và kéo cô tránh ra xa.
Khichuyếntham
quan tiếp theo tới giờ, Dougless và Nicholas theo chân một tá khách du lịch
khác vào trong ngôi nhà. Trong con mắt của Dougless, nội thất trong căn nhà
trông như trong một vở kịch thời Elizabeth đệ nhất. Những bức tường được ốp gỗ
sồi đen tuyền, có những chiếc ghế thời Jacobean được bày rải rác xung quanh
cũng như những chiếc rương được chạm khắc, và những bộ áo giáp được treo trên
tường.
“Những gì anh quen thuộc
giống như thế này à?” Dougless thì thầm với Nicholas.
Có một biểu hiện như sự
ghê tởm trên khuôn mặt đẹp trai của anh, môi trên của anh cong lên. “Đây không
phải nhà ta,” anh nói một cách kinh tởm. “Những gì ta đã làmgiờtrở
nên thế này thật là không dễ chịu gì.”
Dougless nghĩ nơi này
thật là đẹp, nhưng không nói tiếng nào vì cô hướng dẫn viên đã bắt đầu bài giới
thiệu của mình. Theo kinh nghiệm của cô, hướng dẫn viên du lịch người Anh rất
tuyệt và hiểu cặn kẽ về đề tài của họ. Người phụ nữ đang kể về lịch sử ngôi
nhà, được xây dựng như một lâu đài vào năm 1302, bởi người họ Stafford đầu
tiên.
Nicholas vẫn lặng yên khi
cô ta nói - cho đến khi cô ta nói đến Henry thứ tám.
“Phụ nữ thời trung cổ là
vật sở hữu của chồng họ,” hướng dẫn viên của họ nói, “bị sử dụng theo cách
người chồng cảm thấy thích hợp. Phụ nữ không có chút quyền lực nào.”
Nicholas khịt mũi ầm ĩ.
“Cha ta đã nói với mẹ ta rằng bà là tài sản của ông - một lần.”
“Suỵt,” Dougless rít,
không muốn bị bẽ bàng bởi anh.
Họ di chuyển đến căn
phòng được ốp gỗ sồi nhỏ, nơi bóng tối ngột ngạt. “Nến rất đắt đỏ,” người hướng
dẫn viên đang nói, “thế nên người thời trung cổ sống cuộc đời mình trong tối
tăm.”
Nicholas lại bắt đầu nói,
nhưng Dougless cau mày bắt anh yên lặng. “Thôi phàn nàn đi, và nhân tiện, kho
báu của anh ở đâu?” cô hỏi.
“Ta không thể tìm kiếm
kho báu vào lúc này. Ta muốn nghe xem thế giới của ngươi nghĩ gì về thế giới
của ta,” anh nói. “Làm ơn nói cho ta biết sao người thời đại ngươi lại nghĩ
chúng ta không biết vui chơi chút nào?”
“Với tất cả bệnh dịch và
bệnh đậu mùa cả to lẫn nhỏ, cộng thêm những chuyến đi tới chỗ gã thợ cạo để nhổ
răng, chúng tôi nghĩ các anh không có thời gian để vui chơi.”
“Chúng ta sử dụng tốt
thời gian chúng ta có,” anh nói khi nhóm tham quan tiến vào một căn phòng khác.
Ngay khi họ bước vào, Nicholas mở cánh cửa được che giấu bởi những lớp gỗ ván,
và ngay khi anh làm vậy, một tiếngreng vang lên ầm ĩ. Dougless sập mạnh
cánh cửa đóng lại, sau đó tặng một nụ cười yếu ớt vẻ xin lỗi tới người hướng
dẫn viên, người chủ của cái nhìn đầy kiềm nén khiến cô có cảm giác mình như một
đứa trẻ bị bắt quả tang tay vẫn để trong hũ bánhquy.
“Cư xử đàng hoàng nào!”
Dougless rít lên với anh. “Nếu anh muốn rời đi, tôi sẵn sàng rồi đây.” Những
hành động của anh thật bẽ bàng, và cô sợ rằng anh ta có thể sẽ bắt đầu nói với
cô hướng dẫn viên rằng anh ta đã xây dựng ngôi nhà này và anh ta đã sống ở đây.
Nhưng Nicholas không muốn
rời đi. Anh theo chân cô hướng dẫn viên qua hết phòng này đến phòng khác, khịt
mũi chỗ này hay chỗ kia một cách nhạo báng, nhưng không nói năng gì.
“Chúng ta đang ở trong
căn phòng được mọi người ưa thích nhất,” người hướng dẫn viên nói, và bởi nụ
cười nhỏ mà cô trưng ra, khán giả biết rằng cái gì đó kinh ngạc sắp tới rồi.
Nicholas, là người cao
hơn, nhìn được vào trong căn phòng trước khi Dougless thấy. “Chúng ta sẽ rời
đingaybây giờ,” anh nói cứng nhắc, nhưng anh ta nói theo cái cách
khiến Dougless cực kì muốn xem xem căn phòng đó như thế nào.
Cô hướng dẫn viên bắt đầu
nói. “Đây là phòng ngủ riêng của Đức ông Nicholas Stafford, và nói một cách
lịch sự, Đức ông Nicholas là người được biết đến là kẻ ăn chơi phóng đãng. Như
các bạn có thể thấy, ông là một người rất đẹp trai.”
Khi cô nghe thấy điều đó,
Dougless rẽ một đường xuyên qua đám đông len lên phía trước. Ở đó, treo phía
trên mặt lò sưởi, là một bức chân dung của Đức ông Nicholas Stafford - Nicholas
của cô. Anh ăn mặc đúng y như lần đầu tiên cô nhìn thấy anh, để hàm râu và bộ
ria lần đầu tiên cô nhìn thấy, và anh khi đó cũng đẹp trai như anh bây giờ vậy.
Tất nhiên anh ta không
phải là cùng một người đàn ông đó rồi, Dougless tự nhủ với bản thân, nhưng cô
sẵn lòng thừa nhận rằng người đàn ông mà cô biết chắc chắn phải là con cháu nối
dõi.
Người hướng dẫn viên, mỉm
cười trước cái mà cô ta cảm thấy là một câu chuyện đáng ngạc nhiên, bắt đầu kể
về chiến công chói lọi của Đức ông Nicholas với hàng đống phụ nữ. “Mọi người
nói rằng không một người phụ nữ nào có thể kháng cự lại sức mê hoặc của ông một
khi ông đã quyết tâm có được cô ta, thế nên kẻ thù của ông đã lo âu rằng nếu
ông đến triều đình, ông có thể quyến rũ Nữ hoàng Elizabeth trẻ trung và xinh
đẹp.”
Dougless cảm thấy những
ngón tay của Nicholas cắm chặt vào vai cô. “Ta sẽ đưa ngươi tới chỗ kho báu bây
giờ,” anh ta thì thầm vào tai cô.
Cô đặt một ngón tay lên
môi ý bảo anh ta trật tự đi.
“Vào năm 1560,” cô hướng
dẫn viên nói, “có mộtxì-căng-đanvĩ đại có liên quan đến Phu nhân
Arabella Sydney.” Người hướng dẫn viên dừng lại.
“Ta muốn đi bây giờ,”
Nicholas nói một cách dứt khoát vào tai cô.
Dougless vẩy tay xua anh
đi.
Người hướng dẫn viên tiếp
tục. “Người ta cho rằng cha của đứa con thứ tư của Phu nhân Sydney là Đức ông
Nicholas, người ít hơn bà vài tuổi. Người ta cũng nói,” giọng người hướng dẫn
viên thấp xuống đầy bí ẩn... “rằng đứa trẻ được tạo thành trên cái bàn đó.”
Có một tổ hợp các hơi thở
được hít vào khi mọi người nhìn vào cái bàn có trụ bằng gỗ sồi được kê sát vào
tường.
“Hơn thế nữa,” người
hướng dẫn viên nói, “Đức ông Nicholas...”
Từ phía cuối của căn
phòng phát ra một tiếng chuông reocực kì ầm ĩ. Nó kêu váng lên sau đó
ngưng lại, kêu váng lên sau đó ngưng lai, khiến cho người hướng dẫn viên không
thể nào tiếp tục nói được nữa.
“Anh có phiền không!”
người hướng dẫn viên nói, nhưng tiếngrengtiếp tục vang lên rồi lại
tắt đi.
Dougless chẳng phải nhìn
cũng biết ai là kẻ mở ra rồi lại đóng vào cánh cửa thoát hiểm - hay tại sao anh
ta lại làm thế. Nhanh chóng, cô bắt đầu tiến xuống cuối nhóm khách du lịch.
“Tôi sẽ phải mời anh rời
đi,” người hướng dẫn viên nói đầy cứng rắn, nhìn qua đầu những vị khách du lịch
xuống đến cuối nhóm. “Anh có thể trở ra theo đường anh đi vào.”
Tóm lấy cánh tay của
Nicholas, Dougless kéo anh ra khỏi cánh cửađang rên ầm ĩvà quay lại
qua hai căn phòng.
“Những tri thức tầm
thường như thế mà cũng được nhớ qua hàng mấy trăm năm thế này à,” Nicholas nói
đầy giận dữ.
Cô nhìn lên anh đầy hứng
thú. “Là thật hả?” cô hỏi. “Về Phu nhân Arabella? Về cái bàn đó?”
Anh cau mày với cô.
“Không thưa tiểu thư, chuyện như thế không xảy ra trên cái bàn đó.” Quay người,
anh bước đi.
Mỉm cười, Dougless thấy
nhẹ cả người khi câu chuyện đó không phải là sự thật - không phải nó thành vấn
đề, nhưng vẫn cứ...
“Ta tặng cái bàn thật cho
Arabella,” anh ta nói qua vai mình.
Dougless thở hắt ra khi
cô nhìn anh ta bước đi, nhưng cô nhanh chóng theo sát anh ta. “Anh đã làm có
bầu...” cô bắt đầu, nhưng khi anh ta đứng lại và nhìn một cách đầy kinh thường
xuống cô, cô không nói nữa. Anh ta có cách nhìn mọi người khiến bạn tin rằng
anh ta là một nhà quý tộc.
“Chúng ta sẽ xem những kẻ
đần độn vì rượu này có xâm phạm phòng riêng của ta không,” anh nói, lại một lần
nữa quay người khỏi cô.
Dougless phải chạy để
theo kịp khoảng cách mà đôi chân dài của anh ta đang ngốn ngấu. “Anh không thể
vào trong đó,” cô nói khi anh đặt tay lên cánh cửa có biển KHÔNG ĐƯỢC VÀO gắn
trên nó. Lờ tịt cô đi, Nicholas mở chốt cửa. Trong một khoảnh khắc, Dougless
nhắm tịt mắt cô lại và nín thở, đợi cho cáitiếng rengồn àođó
vang lên. Khi không có âm thanh nào, đầy ngập ngừng, cô mở mắt và thấy Nicholas
đã biến mất đằng sau cánh cửa. Với một cái liếc quanh nhanh gọn để xem liệu có
ai đang nhìn không, cô theo chân anh ta, mong đợi bước vào một căn phòng đầy những
thư ký.
Nhưng chẳng có cô thư ký
nào ở trong phòng, cũng như chẳng có lấy một người nào hết. Chỉ có những chồng
hộp chất thành đống cao lên tới tận trần nhà, và từ những gì in ở mặt ngoài,
chúng trông như thể đựng đầy khăn ăn bằng giấy và những thứ khác dùng trong
phòng trà. Bên cạnh những chiếc hộp là lớp gỗ ốp tường tuyệt đẹp khiến Dougless
nghĩ thật xấu hổ khi giấu nó đi.
Cônhìn thấy
bóngNicholas khi anh mở một cánh cửa khác, thế nên cô chạy theo anh ta.
Cô theo chân anh ta qua ba căn phòng khác nữa và thấy được sự khác biệt giữa
phục chế lại và không được phục chế lại. Những căn phòng không được mở cửa cho
công chúng có lò sưởi đổ nát, những tấm gỗ ốp tường bị thiếu, và lớp sơn trần
nhà bị hỏng vì mái dột. Trong một căn phòng, một vài người thời Victoria đã dán
giấy dán tường phía ngoài lớp gỗ sồi được chạm khắc, và Dougless có thể thấy
nơi những người thợ đã chịu khó dỡ chúng đi.
Cuối cùng Nicholas dẫn cô
qua một căn phòng nhỏ tới một căn phòng thật lớn. Tại đây trần nhà thủng lỗ
chỗ, vữa trát tường là một lớp màu nâu bẩn thỉu, và tấm ván lát sàn rộng lớn
trông có vẻ mục nát đầy nguy hiểm. Đứng ở chỗ cửa ra vào, cô theo dõi Nicholas
nhìn xung quanh căn phòng, nỗi buồn đầy trong mắt anh.