Trân Châu cảng - Phần III - Chương 30 - 31

Chương 30

Những người trên vùng
biển ngày hôm đó đều là ngư dân, không phải chiến binh người Nhật. Nhưng khi
nhận được lệnh trở thành một phần trong cỗ máy chiến tranh của Nhật Hoàng, họ
ngoan ngoãn chấp nhận thi hành nhiệm vụ, và sẵn sàng ở vị trí chiến đấu trong
hàng ngàn con tàu nối nhau loanh quanh quần đảo tạo thành một hệ thống báo động
hữu hiệu. Thậm chí họ vẫn được tiếp tục nghề đánh cá nhưng, trong những lúc không
có chiến tranh, với trách nhiệm để mắt đến bất kì sự xâm chiếm nào của tàu thuyền Hoa Kỳ. Đám người
trên tàu Nitto Maru vẫn thường xuyên rong ruổi ra ngoài Thái Bình Dương nhiều
ngày nay nhưng không gặp một tàu lạ nào. Thế nên họ không có sự chuẩn bị tinh
thần để đón nhận tin xấu khi một buổi sáng sớm ngày 18/04/1942, họ nhìn thấy
một đội tàu gồm vài chiếc khổng lồ xình xịch tiến về phía Nhật Bản. Đây là một
cảnh tượng lạ. Họ không được huấn luyện để biết tàu địch hoặc thậm chí phân
biệt đâu là tàu địch đâu là tàu bạn, nhưng có một điều họ chắc chắn phải làm là
báo cáo cấp trên. Một trong những người đánh cá ấy tên là Nakamura Suekichi
chạy đến buồng thuyền trưởng Gisaku Maeda. Maeda bắt đầu liên lạc bằng bộ đàm
đến Kysho, tàu chỉ huy của hạm đội 5 của Nhật Bản. Khi họ nhìn thấy bóng dáng
của một trong những con tàu đang tiến về phía họ, tàu ấy có tên là USS
Nashville. Và đạn bắt đầu bắn như mưa cày xới những đợt sóng đang dâng tràn
quanh tàu họ.

*

Rafe và Danny cũng như
những phi công khác đang nằm trên giường cố nghỉ ngơi trước khi thực hiện một
chuyến bay dài. Đúng lúc ấy, họ nghe tiếng chuông báo động vang lên khắp con
tàu và máy bộ đàm bắt đầu hoạt động: Báo động, báo động! Mọi người chuẩn bị sẵn
sàng chiến đấu. Cả hai nhào vọt ra ngoài hành lang, thấy thủy thủ chạy tỏa ra
mọi ngả.

- Còn cách bờ biển Nhật
Bản rất xa mà! Phải chăng là một đợt luyện tập nữa. Danny tự hỏi.

Rafe đáp:

- Tớ không biết. Có cái
gì khiến bọn họ đang nhao nhác cả lên.

Đại tá Doolittle trèo lên
cầu chỉ huy của con tàu Hornet, thấy chỉ huy Halsey đã tụ tập cùng đoàn thủy
thủ.

- Có chuyện rồi! - Halsey
báo Doolittle.

Không nghi ngờ gì chuyện
ấy, ông nhìn thấy những tay súng trên boong đang nã đạn như mưa. Doolittle nói:

- Chúng ta còn
cáchTokyobao xa?

- 700 hải lý.

Vài phút sau, loa phóng
thanh phát đi mệnh lệnh.

- Các phi công đâu? Vào
vị trí trên máy bay của các anh ngay.

*

Thiếu
táJacksonđưa Evelyn vào trong tòa nhà không có gì là lạ lùng, ngoại
trừ không có biển đề nơi ngưỡng cửa báo cho khách đến viếng thăm tòa
nhànày tên là gì. Nếu có ai hỏi thì người ta sẽ bảo đây là đài phát
thanh, như thế đủ giải thích cho hàng ăngten nối nhau phía trên mái nhà. Evelyn
theoJacksonđi dọc theo hành lang dài, có lính gác trang bị súng
đứng canh phòng cẩn mật. Sau đó họ bước vào trong một căn phòng trắng có khoảng
hơn chục người viết tốc ký và nhiều nhân viên giải mã ngồi sau bàn làm việc.
Nàng nhìn lướt qua khu vực có một phòng riêng biệt phía bên kia bức tường kính
dày. Trong đó một đám đông căng thẳng ngồi bên máy bộ đàm thi nhau làm việc.
Jacksonđưa Evelyn qua hai lần cửa của phòng này đến một bàn trống, ông
thì thầm:

- Đừng nói gì với họ và
họ cũng không hỏi gì cô
đâu. Cứ giả vờ ngồi đánh máy những tin tức mà chúng tôi đưa cho cô.

Trong phòng sặc mùi khói
thuốc lá và mùi mồ hôi. Evelyn chỉ muốn lộn mửa. Bụng nàng quặn
đau.Jacksonngồi ở giữa đám người đeo tai nghe. Một người trong số
họ, một người Mỹ gốc Nhật Bản quay sang ông bảo:

- Chúng tôi đã bắt được
đài tàu Nhật truyền tin cho nhau. Họ đã phát hiện ra những tàu hàng không mẫu
hạm của chúng ta.

Vừa nghe tới đó, Evelyn
đã hối hận. Nàng tự nhủ, ước gì mình đừng tới đây.

*

Cách đó 2.000 dặm, những
người đứng trên boong tàu hàng không mẫu hạm Hornet cho tàu chạy xuôi theo
chiều gió, tăng tốc độ lên tối đa. Đám phi công thuộc binh chủng không quân tỏa
ra trên boong tàu. Những thủy thủ thuộc quân số hải quân đã đứng đợi sẵn ở đó,
cố chống chọi với những cơn gió mạnh, kiểm tra mật hiệu, nhốn nhào đối phó với
thay đổi bất ngờ của kế hoạch tấn công. Tàu tuần dương ở sát mạn phải của mẫu hạm
Hornet vẫn tiếp tục nã đạn vào canô đi tuần của Nhật. Doolittle chạy trên
boong, ông thấy Ross Greening đã sắn tay vào việc tự lúc nào.

- Cất cánh từ vị trí này
quá xa mục tiêu. - Greening gào lên cố át tiếng gió rít và mưa rơi dày đặc. -
Thế thì các máy bay này phải cần thêm nhiên liệu vì đường xa hơn bắt buộc phải
có trọng tải nhẹ ở mức thích hợp để có thể cất cánh.

Máy bay của Dollittle đã
đứng ở vị trí đầu của hàng máy bay thả bom, ngay đằng sau đó, hai chiếc máy bay
của Rafe và Danny đang sẵn sàng chờ lệnh của ông. Ông chạy đến và bảo:

- Vất tất cả những gì các
cậu không cần ra máy bay, mọi thứ. Truyền lệnh của tôi đến những người khác,
bảo họ làm đúng như lời tôi nói nghe chưa!

Khi họ luống cuống làm
theo lời ông, Doolittle trở lại nói với Greening.

- Ross, cậu hãy xem phía
trước có gì trở ngại không?

Vậy là quãng đường bay
của họ dài thêm 300 dặm nữa. Mỗi phần trọng tải, mỗi một giọt nhiên liệu có ý
nghĩa sống còn trong lúc này. Đám phi công nhào vào trong những chiếc máy bay
đứng sau họ bắt đầu quăng ra ngoài những vật dụng thừa mà họ định mang theo
trong chuyến bay qua Nhật Bản để đến Trung Quốc. Một hoa tiêu dọn ra khỏi máy
bay một cái máy quay đĩa và nhiều đĩa hát mà anh ta yêu quý. Nhiều phi công
khác quăng ra một bịch giấy vệ sinh vì người ta đe dọa anh rằng Trung Quốc sẽ
không tìm đâu ra giấy vệ sinh mà sài, nên anh mới mang đi cả đống như vậy. Mặc
dù đã cố gắng đến thế, nhưng trọng tải của họ vẫn bị dư. Đó là theo Greening.
Ông nhào lên một chiếc máy bay, tháo chiếc ghế bằng sắt ở vị trí phụ lái, quăng
nó xuống boong tàu trước con mắt kinh hoàng của Rafe. Rafe đứng bên dưới chiếc
bụng máy bay chui đầu vào cửa mở từ bụng chiếc máy bay ấy.

- Thưa chỉ huy, vậy tôi
sẽ ngồi đâu ạ!

Greening trả lời bằng
cách vỗ mạnh vào chiếc ghế đẩu bằng gỗ vừa thế vào chiếc ghế sắt của phụ lái.
Rafe thốt lên:

- Trời ơi! Suốt tám giờ
đồng hồ bay, tôi buộc phải ngồi trên chiếc ghế này sao?

- Này, tôi nói cho cậu
nghe nhé! Cả cậu và đội bay nên đi tiểu trước khi lên máy bay đi, nếu không thì
phi cơ của cậu không thể cất cánh khỏi cái cầu tàu này được đâu. Bởi vì nước
trữ lượng trong người cậu cũng khiến cho trọng tải của máy bay nặng thêm đấy. -
Nói xong, ông trèo xuống đi ngang qua Rafe, và đến bên chiếc máy bay kế tiếp.
Chợt Greening đứng sững lại suy nghĩ. Ông quay người chộp lấy một thủy thủ đi
ngang qua.

- Đi tìm cho tôi mấy cái
chổi, cây lau nhà, bất cứ thứ gì có tay cầm là một thanh gỗ dài ấy. Mang dầu
hắc và cọ sơn đến đây.

Không ngần ngừ, anh lính
thủy vội vã đi ngay. Khi anh ta quay trở lại, đã thấy Greening lôi hết những
khẩu súng máy được chuẩn bị chỉnh tề ở khoang cuối của máy bay.

- Cưa đám chổi ấy, chỉ
lấy cán chổi, sơn nhựa đường lên cho đen và đặt chúng vào chỗ vẫn đặt súng ấy.
Sau đó, đến nhà bếp đem mấy cái nồi to mà anh nuôi vẫn hay nấu soup ấy, đổ đầy
xăng máy bay vào đó làm nhiên liệu dự trữ, đi ngay đi!

Xa xa ngoài khơi, một
chiếc canô tuần tiễu của Nhật đã trúng đạn và nổ tung. Rafe và Danny gặp nhau
vì máy bay của họ từng đợt đang quăng xuống dưới sàn tàu và những chiếc gậy
được sơn lên vào vị trí ấy. Danny nhận xét: Biết đâu trò này lại dọa được bọn
Nhật. Họ đưa mắt cho nhau. Sau đó, mỗi người về máy bay của mình.

*

Trong phòng điều hành,
các kĩ thuật viên
ngồi còm lưng mỏi cổ và căng thẳng cố nắm bắt lấy từng âm thanh lướt qua tai
họ. Evelyn đã thôi không cố tỏ ra bận rộn nữa. Chẳng ai thèm để ý đến nàng. Và
người có đeo headphone chịu trách nhiệm tiếp sóng từWashingtonngẩn
đầu lên nghe ngóng. Anh thì thầm: Roger rồi bịt ống nghe lại thông báo cho cả
phòng:

- Phòng tác chiến cho
rằng các phi công nên xuất phát ngay lúc này.

Jacksonlắc đầu:

- Phải chờ tin của
Doolittle đã. Không có ai ở Washingtonđủ lực hủy bỏ chiến dịch vào lúc
này. Tất nhiên cũng có một số người nắm quyền lực, một thế lực đủ khả năng nói
với tư lệnh Halsey đang lênh đênh giữa biển khơi là đừng quá tin tưởng vào nhận
xét của ông ta hoặc nói với đại tá Jimmy Doolittle mà lúc này đang dẫn đầu đoàn
máy bay cất cánh trên không trung. Cứ tưởng bở rằng anh biết nhiều hơn, hay hơn
ông ta đi.

Không ai ở Hoa Kỳ dám làm
điều đó, thế nên họ đành đợi và nghe tin tức báo về.

*

Trên con tàu Hornet,
người ta đã khởi động cho các động cơ máy bay, thăm dò tốc độ gió, mong mỏi máy
bay xuất phát được an toàn. Doolittle ngồi sau đoàn máy bay thả bom dẫn đầu cả
đội. Tiếng động cơ nổ rất êm. Ngoài kia, ngài tư lệnh ra lệnh cho cả đội và
Ross Greening cùng đứng trên boong tàu cầm một tấm bảng viết phấn giơ lên cho
Doolittle xem. Doolittle liếc nhìn lá cờ hiệu bay phần phật dọc theo mặt phía
trên của tàu hàng không mẫu hạm. Gió thổi mạnh, nhưng mưa không lớn lắm.
Doolittle cảm giác máy bay là một phần thân thể ông, mọi vật nhòa đi và ông cảm
thấy bánh xe đang lăn mặc dù đã nhấn thắng. Trước mặt ông, đường băng trên hàng
không mẫu hạm ngắn không thể tả. Và nếu dưới mắt ông, nó ngắn như thế thì ông
cũng có thể hình dung ra nó như thế nào trong mắt những người khác. Hơn nữa
những phi công dưới quyền ông lúc này đều hầu hết chưa bao giờ cất cánh lên
đường chiến đấu từ một sân bay quân sự đầy đủ tiện nghi, chứ đừng nói là cất
cánh từ một boong tàu của một tàu chiến đang lắc lư ngoài khơi. Giờ thì máy bay
đã chất đầy bom và nhiên liệu. Trời ơi! Ông đang yêu cầu những chàng trai của
mình làm cái trò gì đây. Ông nhìn lá cờ Mỹ bay phần phật trong gió ngoài kia.
Ross Greening đang hít một hơi dài và giơ cao tấm bảng có đề chữ: “Lên đường”.
Doolittle nhìn ra phía trước, và chào tư lệnh Halsey. Halsey nghiêm mình chào
lại, sau đó Doolittle ngoái nhìn Ross Greening một lần nữa và nhả thắng ra. Qua
mái vòm kính của buồng lái, Rafe và Danny nhìn thấy chiếc đuôi của máy bay chỉ
huy Doolittle bắt đầu tiến lên phía trước cách họ một quãng xa. Chuyển động ấy
hình như rất chậm. Cánh quạt xé gió đưa máy bay lướt đi. Mọi người tự nhủ: trời
ơi, ông ta không thể cất cánh trong tình trạng này được. Nhưng những người khác
thì nghĩ Jimmy Doolittle có thể làm bất cứ điều gì mà ông toan tính với chiếc
phi cơ ấy và ông ấy cho rằng làm như thế này là thượng sách. Đã quá nửa đường
băng ngắn ngủi mà chiếc máy bay vẫn dán chặt xuống boong tàu, nhưng con tàu
đang chạy xuôi theo chiều gió, thế nên điều ấy giúp máy bay đạt đến tốc độ theo
yêu cầu sớm hơn. Sức gió là niềm hi vọng duy nhất của họ lúc này. Phi công
không thể đứng nhìn máy bay bò chậm như thế lâu hơn nữa. Họ đang cố tưởng tượng
ông hoàng Doolittle đang nghĩ gì. Mỗi một vòng quay của bánh xe đều đưa chiếc
P-25 đến gần hơn mép của cầu tàu. Lúc này, người ta cho rằng máy bay không có
khả năng cất cánh được nữa. Nó sẽ rơi tỏm xuống biển hệt như một hòn đá. Nếu thế thì chỉ
trong giây lát, máy bay sẽ chìm nghỉm hoặc nếu không bom sẽ phát nổ khiến
Doolittle và phi đội của ông chết tan xác. Doolittle đến cuối boong tàu, ông
kéo mạnh cần điều khiển, chiếc máy bay ném bom ngóc đầu lên êm ái vút trên
không trung thật dễ dàng. Doolittle đã ở trên bầu trời, ông cho máy bay của
mình lượn một vòng chào hàng không mẫu hạm. Đám thủy thủ trên boong reo mừng.
Tư lệnh và đoàn tùy tùng gật đầu thán phục. Các phi công khác theo gương
Doolittle đưa máy bay của họ tiến vào bầu trời. Trong buồng chỉ huy, tư lệnh
Halsey nhìn theo cho đến chiếc máy bay cuối cùng rời boong tàu của ông theo
lịch trình đến Nhật Bản. Ông nói bâng quơ:

- Đây là lần đầu tiên tất
cả đàn chim câu ra khỏi lồng và bảo chúng đừng có quay trở về. - Ngừng lại một
lát ông nói thêm:

- Thôi được, giờ thì
chúng ta chuồn khỏi đây thôi! - Đoàn tàu chiến của tư lệnh Halsey quay đầu thật
nhanh và bắt đầu phóng như bay về phía Trân Châu cảng.

Trong phòng thu thanh, người ta căng
tai nghe, nhưng không thấy tín hiệu gì. Mọi người đều vã mồ hôi. Mùi mồ hôi
chua chát át cả mùi thuốc lá. Evelyn cố giữ hơi thở đều, cảm thấy phổi mình tê
liệt lúc nào. Tuy nhiên trái tim nàng không như hai lá phổi kia, nó đập thình
thịch trong ngực nàng, thân hình run lên theo từng nhịp tim.

*

Ngoài khơi Thái Bình
Dương, mười sáu máy bay chỉ cách mặt nước hai mươi bộ. Rafe và Danny nhìn nhau,
máy bay của họ chỉ cách xa năm mươi bộ. Máy bay của Doolittle dẫn đầu, cả đội
hình bay thành hình mũi tên.

*

Tổng thống Franklin
Delani Roosevelt đang phát biểu trước quốc dân đồng bào qua máy phóng thanh
phát sóng từ Nhà Trắng. Hơn ½ dân số Hoa Kỳ đang lắng nghe như nuốt lấy từng
lời ông: “Từ Berlin, Rome, Tokyo, người ta cho rằng đất nước Hoa Kỳ là quốc gia
của những kẻ tay yếu chân mềm, hễ có chuyện là thuê các binh lính của Anh, Nga
hoặc Trung Quốc ra ngoài chiến đấu thay. Liệu hôm nay họ còn dám nói thế nữa
không? Liệu họ có dám nói những lời ấy với tướng MacArthur và binh lính dưới
quyền của ông. Họ cứ thử nói những lời như thế với những chiến binh ngày hôm
nay đang bay ở ngoài khơi Thái Bình Dương. Khi ấy các phi công trên những pháo
đài bay sẽ trả lời bằng những hành động cho họ thấy, và cả những lính thủy đánh
bộ nữa.”

Cũng như bất cứ người nào
khác, Roosevelt cũng có những nỗi sợ riêng. Nhưng ông dồn nỗi sợ hãi vào tận
trong tâm hồn sâu thẳm, lắng xuống trọn vẹn với người thân và làm tròn trọng
trách. Ông làm tất cả những gì có thể làm được và chung sống hòa bình với những
gì mình không thể thay đổi được. Ông không cầu nguyện cho mình sức mạnh để bước
đi vững chãi trên hai chân như trước. Ông cũng không khẩn cầu niềm vinh quang
mà ông biết ông xứng đáng được nhận. Nhưng khi ông đã nói đến những lời này rồi
thì từ nơi sâu kín nhất của trái tim, ông thực tâm cầu xin Thượng đế cho Jimmy
Doolittle và các chàng trai dũng cảm trở về bình an.

Chương 31

Suốt mấy tiếng đồng hồ,
họ bay thật thấp để bảo toàn nhiên liệu. Sau lưng các tay súng ở khoang cuối
máy bay P-25 có thêm nhiều thùng nhiên liệu dự trữ. Họ cứ giữ những thùng nhiên
liệu trống rỗng trong máy bay dự định khi đến đất liền mới vứt bỏ vì lo sợ khả
năng người Nhật sẽ theo những thùng nhiên liệu rỗng phát hiện ra tàu chiến Mỹ.
Những nhà chiến thuật Mỹ rất sợ mất đội tàu chiến của họ. Bởi vì nếu không có
tàu chiến thì họ sẽ thua cuộc chiến này. Còn các phi công thời gian thì có
nhiều đấy nhưng chẳng còn đầu óc nào nghĩ đến chuyện đó. Nỗi căng thẳng phải
tiết kiệm nhiên liệu khi cố bay ngược chiều gió và họ lường trước hoàn cảnh sẽ
phải đối mặt với trận không kích của Nhật. Còn Rafe thì khác, anh có khả năng
tự để cho thói quen dẫn dắt máy bay của mình trong khi tâm trí anh theo đuổi
chuyện khác. Mắt lơ đãng nhìn ra ngoài ánh sáng mờ nhạt của buổi sáng sớm, tìm
về hình ảnh những cánh đồng xanh rờn của bangTennessee. Anh có thể ngửi
thấy mùi xăng dầu trên quần áo cha anh, và mùi nhiên liệu trên máy bay của ông.
Anh biết mình đã trưởng thành đúng như cha anh mong đợi. Giờ thì số phận của
anh đã được định đoạt, không cần biết điều gì chờ anh trên đường tới Tokyo, chỉ
biết cuộc đời anh không thể thiếu một người mà anh đã trao trọn tình yêu của
mình. Thế là anh nhận ra thật rõ ràng rằng: chỉ với tình yêu, cuộc sống của anh
mới thật hoàn thiện. Trong đời mình, không bao giờ anh hi vọng rằng có được
Evelyn, nhưng anh sẽ luôn yêu nàng và anh không thể tưởng tượng nổi rằng nàng
không còn yêu anh. Anh nhớ lời cha vẫn thường răn dạy các con trong thời kì khủng hoảng: “Cha biết
cuộc sống không đầy đủ đâu. Nhưng bấy nhiêu cũng là đủ giúp cho chúng ta sống
còn.”

Những suy nghĩ của Danny
trong chuyến bay dài 700 dặm đến đất Nhật lại khác hẳn. Những ý nghĩ của anh
biến thành ngôn từ đẹp đẽ dành cả cho Evelyn, mong muốn nàng hiểu tình yêu của
anh sâu sắc đến dường nào. Từ lúc rời Trân Châu cảng, đến nay Danny vẫn chưa
quên cảm giác phải chia tay với nàng, một cảm giác trống trải còn hơn cả khoảng
cách tâm hồn họ và anh là người phải lấp đầy cái hố vô hình ấy. Anh không biết
sự xa cách đó là cái gì, chưa bao giờ anh yêu ai như yêu Evelyn. Anh bảo rằng
sự xa cách là một phần trong những bí mật của một tình yêu thực thụ. Không cần
biết nó là cái gì, anh phải đến được bên nàng bằng một cách duy nhất, đó là,
những ý thơ chợt nảy ra mỗi khi anh nhớ về nàng. Trong chuyến bay từ bờ Tây
Thái Bình Dương, Danny nghe tiếng lòng mình nói với Evelyn: Lòng đầy biết ơn,
anh hớp từng giọt tình yêu trong chén thánh tâm hồn của anh. Đối với những
người khác, những từ ấy chẳng phải là thơ, biết đâu chẳng có người cho đó chỉ
là những xúc cảm nhất thời. Riêng với Danny những lời đó rất thật, vì nó chính
xác những cảm xúc của anh. Và đối với Danny, thế là đủ.

Bờ biển Nhật Bản hiện ra
muộn hơn họ tưởng. Hoa tiêu trên mỗi máy bay tính toán lại mỗi dữ liệu cho phù
hợp. Không phải tất cả các máy bay đều nhắm tớiTokyo, những máy bay có
nhiệm vụ oanh kính các thành phố khác tách ra khỏi đội bay chính, và tất cả các
máy bay tiếp tục tăng tốc càng tốt. Giờ thì họ còn cách ngọn cây trong gang
tấc. Trên máy bay của Doolittle, người ta tính toán thời gian đến được Tokyo,
máy bay của ông sẽ đến bầu trời Tokyo vào lúc chạng vạng tối, lúc ấy bóng tối
sẽ bảo vệ ông, nhưng vẫn đủ sáng để tìm mục tiêu. Ông sẽ thả bom cháy, và những
đốm lửa ấy sẽ hướng dẫn những người trong đội của ông đi đúng hướng khi đêm
xuống. Nhưng bây giờ hoa tiêu lại bảo họ sẽ tấn công vào Tokyo khoảng giữa
trưa, cũng như Hawaii, quần đảo Nhật Bản đầy rẫy những tàu tuần dương canh gác
và đội phòng vệ miền duyên hải và vào mùa xuân 1942, không giống như ngày
07/12/1941. Bởi vì lúc này Hoa Kỳ đã chính thức tuyên chiến với Nhật Bản. Tuy
nhiên, những sĩ quan quân đội cũng như dân thường đứng từ dưới đất nhìn lên
thấy máy bay lạ bay từ ngoài khơi vào thì người Nhật cũng phớt lờ những cảnh báo
hệt như cách đó mấy tháng ở Hawaii. Chuông báo động không khiến người ta quan
tâm bởi họ nghĩ tấn công vàoTokyolà không bao giờ có. Hôm ấy, ở
Tokyolà một ngày đẹp trời. Cả thành phố tràn ngập niềm lạc quan, chiến
tranh còn xa như thể chỉ xảy ra trên cung trăng. Các chiến binh Nhật Bản không
chỉ làm cho cả Trung Quốc sống trong nỗi nhục nhã mà còn hạ nhục được cả nước
Mỹ. Những cuộc tập trận khiến người Nhật cảm thấy yên tâm bởi những nhà lãnh
đạo quân sự Nhật Bản đang bảo vệ Nhật Hoàng, và thành phố của họ. Trước 12 giờ
trưa, có tiếng còi báo động rú lên. Thanh niên trai tráng chạy đi lấy súng,
nhưng đó chỉ là cuộc diễn tập thôi. Ngoài chợ, mẹ dắt tay con đi mua đồ và khi
họ lướt nhìn những cánh máy bay lướt qua như những cánh diều thấp đến độ chạm
cả vào cái mái tòa nhà cao tầng thì họ chỉ nghĩ đơn giản và thầm khen bay đẹp
quá. Đang ngồi chơi trong vườn, Nhật Hoàng nhìn thấy những chiếc máy bay thả
bom với bốn động cơ gầm rú trên bầu trời cung điện hoàng gia trong lúc ông
chuẩn bị ăn trưa. Nhật Hoàng nghĩ đây là những chiếc máy bay do tướng tá mình
sáng chế.

Trong bầu trời ngoại ô
thành phố, những máy bay lao xuống những mục tiêu riêng lẻ. Rafe và Danny cho
máy bay lượn vòng tách nhau xa. Rafe hướng về phía một nhà máy sản xuất động
cơ, còn Danny nhắm vào những thùng dầu gần cảng. Trước đó, họ cùng nghiên cứu
bản đồ bay nhiều lần và ghi nhớ mục tiêu của nhau. Giờ thì máy bay đã là của
họ, không nhìn thấy và cũng không thể liên lạc bằng máy bộ đàm. Mỗi một phi đội
là một thế giới riêng. Mỗi một phi công mang một sứ mạng riêng. Trong lúc bận
rộn chuẩn bị cho cuộc tấn công, những tay cắt bom vẫn còn đủ thời gian viết
những thông điệp lên những trái bom bằng phấn trắng. Mỗi trái bom nặng tới 500
pound. Riêng trên trái bom ở trên máy bay Danny, Anthony nguệch ngoạc dòng chữ
trả thù cho Billly. Người khắc bom trên máy bay của Rafe đang chăm chú chờ
lệnh, Rafe cho máy bay bay với tốc độ ổn định, mắt không rời bầu trời đề phòng
máy bay chiến đấu hoặc tên lửa phòng không từ đất bắn lên. Không có gì, anh mở
của khoang chứa bom, đưa máy bay lên độ cao theo đúng yêu cầu và phẩy tay cho
người cắt bom. Anh nghe tiếng thông báo trong headphone bom đang rơi. Một cột
khói đen với những cột bụi đất vọt lên từ cái nhà máy là mục tiêu chính, vài
giây sau, những mảnh gạch còn bay cao hơn cả máy bay nữa. Những quả bom bất ngờ
đồng loạt nổ khắp thành phố Tokyo. Lúc đầu không ai biết tại sao có những trái
bom này. Rất nhanh, quân đội Nhật Bản nhận ra những chiếc máy bay lạ mà người
dân thông báo chính là những máy bay thực hiện cuộc tấn công này. Đài phát
thanhTokyongừng phát những chương trình thường lệ để thông báo
người dân đi tìm chỗ trú ẩn ngay vì kẻ thù đang thực hiện không kích vào thành
phố này. Người Nhật cố thực hiện một đợt chống trả, nhưng những chiếc máy bay
ném bom kia đã biến mất ngay trước mắt chúng. Thiệt hại không lớn nhưng nó diễn
ra khắp nơi. Một nhà máy ở đây bị phá hỏng, một địa điểm lọc dầu bị trúng bom,
kho nhiên liệu nằm ở cuối thành phố bốc cháy, một bãi đất trống chất đầy những
thùng đựng dầu phát nổ. Quân đội không biết có bao nhiêu máy bay thực hiện vụ
tấn công này. Đáng sợ hơn, họ không biết phải làm thế nào để giữ không cho
những máy bay này thực hiện đợt tấn công mới. Cũng chính những người đã từng
thúc giục Yamamoto tấn công vào Trân Châu cảng đã khiến cho người dân Nhật Bản
tưởng rằng nước Nhật là bất khả xâm phạm. Giờ thì họ phải nhấc máy nói chuyện
với Nhật Hoàng giải thích cho ông ta chuyện gì xảy ra. Không biết bằng cách
nào, không biết máy bay nào cất cánh từ đâu, mà máy bay Mỹ có thể thả bom vào
Tokyo như thể Nhật hoàng còn chưa biết có cuộc oanh tạc bằng bom này.

Trong phòng phát thanh
của cơ quan tình báo ở Trân Châu cảng, họ nhận được các tín hiệu phát đi từ đài
phát thanh Tokyo, người Mỹ gốc Nhật nghe và dịch thông báo cho những người khác
có mặt trong phòng hôi hám rằng đài phát thanh Tokyo vừa đưa tin có một trận
tấn công vào giữa thành phố và yêu cầu dân chúng tìm nơi trú ẩn.

Trong suốt mười lăm ngày
sau, Evelyn không nghe được tin tức gì thêm, dù là nhỏ, có liên quan đến số
phận của những người nàng yêu quý.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3