Trân Châu cảng - Phần II - Chương 16

Phần II: Vết nhơ

Chương 16

Ngập đầu trong đống giấy
tờ của phòng tình báo thuộc cục chỉ huy tác chiến. Chỉ huy trưởng Jesse Thurman
không còn biết lúc này là ngày hay đêm nữa. Nói chính xác hơn, ông đang muốn
kéo dài thời gian làm việc như muốn cộng thêm cho một ngày bình thường hai mươi
tư tiếng nữa.

Ông không biết rằng giờ
của thời khắc này, cũng không biết được hôm nay là ngày mấy. Đối với ông, thời
gian chỉ gói gọn trong một giờ, ngay lúc này, ngay khoảnh khắc này thôi. Ông
đánh dấu thời gian bằng cách hỏi xem đã mấy giờ rồi ông chưa đi ngủ hoặc tắm
rửa. Mùi mồ hôi chua chua nồng nồng trên quần áo của ông và trên cả hàm râu
quai nón mọc lởm chởm. Nếu bất cứ một sĩ quan cao cấp nào của ông được phép vào
trong tầng hầm lúc này thì chắc chắn họ sẽ yêu cầu vị chỉ huy của mình đi tắm
rửa nghỉ ngơi ngay lập tức và Thurman sẽ rủa ngay anh ta đi xuống địa ngục cho
rảnh, quên chuyện tắm rửa và nghỉ ngơi đi cho ông nhờ, bởi vì đối với quân
nhân, những chuyện như thế này là bình thường.

Vào những giờ khắc cuối
cùng của những ngày cuối cùng, ông miệt mài với những chồng điện tín đã được
giải mã, tất cả những báo cáo đều có đề tối mật. Phòng tình báo chụp những bức
hình về tàu chiến của Nhật trong cảng, những máy bay, bom và ngư lôi, chuyện gì
sắp xảy ra, chắc chắn thôi, chỉ tiếc rằng không ai trên đời này nói cho ông
biết đó là cái gì.

Thurman bắt đầu hiểu ra
những suy nghĩ của ông vẫn còn đang trong một vòng luẩn quẩn. Ông bắt mình phải
đứng lên, lưng kêu răng rắc nhắc ông rằng ông cũng chỉ một vật thể sống bình
thường. Ông bước ra cách bàn hai bước chân, trên bàn giấy tờ còn bừa bộn ngay
trước mặt. Thurman biết lúc này ở phía bên kia quả địa cầu Yamamoto cũng làm
việc với cường độ căng thẳng không kém gì ông, cũng đang nghiên cứu những lịch
trình, bản đồ, những diễn biến phức tạp của tự nhiên cũng như tình hình chiến
sự, và trên tất cả là chiến lược, chiến thuật để áp dụng trong quân đội cũng
như trong hoàn cảnh thời tiết luôn thay đổi.

Thurman thán phục
Yamamoto và thầm nghĩ: Nếu như cả hai người là bạn bè của nhau, chắc hẳn họ sẽ
hiểu nhau ghê lắm. Đúng ra mà nói họ hiểu từng nhất cử nhất động của nhau và họ
hiểu nhau còn hơn là những người bạn chiều chiều cùng ngồi trong một quán bar,
cùng ăn bữa tối vào mỗi tối thứ tư như Thurman vẫn thường cố về nhà trong giờ
đó để ăn tối với vợ. Thứ tư, Thurman nghĩ: Vợ, gia đình, hôm nay là ngày thứ
mấy rồi nhỉ? Ông chộp lấy cuốn lịch và nhìn nó. Chênh vênh một hồi lâu mới hiểu
ra rằng có nhìn mãi cũng chẳng ích gì, đồng hồ ông chỉ 12:15, 12 giờ trưa hay
12 giờ đêm, ông xoa cằm, thấy râu mọc lởm chởm và khi nhìn vào bóng mình trên
cái chân đèn bằng đồng đánh bóng đặt trên bàn thì ông giật mình, trông ông thật
khủng khiếp. Ông chộp lấy áo khoác, ông phải ra khỏi đây thôi, hôn vợ và ôm
những đứa con vào lòng.

Vừa đặt tay vào nắm cửa
thì viên thiếu úy cảnh vệ thường đưa giấy tờ vào cho ông bước vào hành lang,
tay này để râu quai nón nên chả bao giờ phải cạo.Tayanh ta cầm một
chiếc phong bì có đóng dấu tối khẩn. Ở đây, mỗi ngày người ta nhận nhiều cái
phong bì như thế nên chẳng ai còn nôn nóng khi thấy nó. Viên thiếu úy này không
hề đổ mồ hôi hay thở hồng hộc như ở những nơi khác khi cầm một phong bì khẩn
trên tay, bởi chẳng ai bảo anh ta nhanh lên cho kịp. Thurman hỏi:

- Phong bì này do ai gửi
đến vậy?

- Thưa chỉ huy, ban đối
ngoại ạ! - Viên thiếu úy trả lời. Cố kìm chế một cái ngáp dài.

- Này, đi kiếm ngay một
cái giường, hoặc nếu không thì xin ra khỏi binh chủng hải quân ngày, đừng bao
giờ ngáp trước mặt tôi nữa, anh hiểu chưa?

Thurman cáu bẳn giật lấy
cái phong bì và mở ra xem.

- Tuân lệnh - Viên thiếu
úy đáp.

- Bây giờ thì cút khỏi
đây ngay.

Thurman đọc thông điệp ở
trong thật nhanh, rồi sau đó ông đọc lại một lần nữa. Chưa kịp đọc xong lần thứ
hai thì ông đã quay trở lại ngồi bên bàn, vồ lấy cái máy điện thoại trước cả
khi viên thiếu úy kịp đóng cửa phòng làm việc của ông.

*

Tổng thống Rossevelt nghe
tiếng gọi mơ hồ như tiếng của các thiên sứ giữa các giấc mơ vậy.

- Thưa tổng thống.

Đó là tiếng Geoge, người
hầu thân tín. Và khi Rooseveltmò được cặp kính trên chiếc bàn ngủ đầu
giường ngoắc nó lên hai tai thì khuôn mặt của viên trợ lí tổng thống đã hiện ra
ngay cạnh giường ông.Roosevelthỏi giọng chắc nịch:

- Có chuyện gì thế?

Viên trợ lý đáp:

- Thưa tổng thống, chúng
tôi vừa nhận được một thông điệp của đại sứ Peru ở Nhật, những nguồn tin của
ông ta cho biết Nhật Bản đang gom những hạm đội lại để chuẩn bị tấn công chúng
ta.

Giọng
củaRooseveltnghe đã rành rọt nhưng tâm trí vẫn còn mù mờ bởi cơn
ngái ngủ. Ông nghĩ một lát như muốn tống khứ những gì còn sót lại của giấc mơ
ra khỏi đầu, ông nói:

- Chúng ta đã nhận được
những lời cảnh báo từ các căn cứ quân sự ở vùng Thái Bình Dương rất có thể sẽ
bị tấn công. Tại sao cái thông điệp của đại sứPerunày lại làm anh hoảng lên thế?

Viên trợ lý chớp mắt cảm
thấy sợ cái năng lực làm việc của Roosevelt, vừa mới lôi ra khỏi giường trong
giấc ngủ say mà đã táng ngay hai câu hỏi hóc búa dồn trợ lý vào chân tường và
đòi hỏi ngay anh ta phải có tình thần trách nhiệm với vấn đề đang trình bày.
Viên trợ lý lắp bắp:

- Tôi... thật ra thì tôi
đâu phải phát hoảng lên như vậy đâu thưa ngài. Chính tướng Marshall bảo tôi lên
đánh thức ông, ông ấy nói ở bên phòng bộ phận tình báo của phòng tác chiến muốn
được trình bày với ngày vấn đề này trong hai giờ nữa nếu như ngài sẵn lòng hủy
bỏ giờ ăn sáng với ngài thượng nghị sĩ phụ trách phần các điều luật về tiền tệ
vào sáng ngày hôm nay.

Hai cánh tay mạnh khỏe
củaRooseveltchống xuống giường nâng ông cao hơn một chút. Ông người
hầu biết ý vòng ra sau kê gối để Roosevelttựa cho cao hơn.

- Tướng Marshall nói có
biết đại sứPerucó cho biết mục tiêu chính là ở đâu trên vùng Thái
Bình Dương hay không?

- Dạ thưa, ông ấy nói vị
đại sứ không chắc lắm nhưng hình như là Trân Châu cảng.

Các tướng lĩnh, tư lệnh
và các nhà tư vấn chính trị chủ chốt ngồi đàng sau Roosevelt nhìn cái bóng của cái đầu to đặc biệt nhô lên đằng sau cái ghế
của xe lăn. Trong lúc màn hình chiếu phim tư liệu trước mặt ông đang chớp nháy
liên tục, đoạn phim này là một đoạn phim trắng đen không có âm thanh. Người và
khung cảnh trên đó giật giật như những đoạn phim câm có từ lần đầu tiên trong
lịch sử, nó đang cho thấy cảnh của một cảng ở Nhật Bản, những cầu tàu hầu như
không một bóng người hoặc tàu thuyền.

Một viên tư lệnh đang
thuyết trình, tiếng của ông át tiếng rè rè của máy chiếu phim:

- Sĩ quan tình báo hải
quân của chúng ta ở Tokyo đã bí mật quay cảnh này, nó khẳng định rằng cái hạm
đội của Nhật đã thực hiện chuyến hải hành đi một nơi nào đó, chúng ta không
biết rằng nó đi đâu. Tất cả máy bộ đàm và tín hiệu truyền thông trên hạm đội
này đều không bắt sóng được. Rất có thể bọn chúng đang thực hiện một cuộc tập
trận hay đến tập trung ở một vùng nào đó để chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn. Tôi
chắc đến mười mươi là có cuộc tấn công này trong tương lai. Vấn đề ở chỗ là tấn
công vào đâu? Và như thế nào?

Đoạn phim đã hết, viên tư
lệnh gật đầu để cậu kĩ
thuật viên bật đèn lên. Đèn vừa bật sáng, mọi người trong phòng đều nhăn nhó,
khuôn mặt mệt mỏi cho thấy đêm qua chẳng ai được ngủ đủ cả.

Viên tư lệnh đến bên một
chiếc khung lớn cho thấy máy bay do thám đang di chuyển theo mọi hướng từ các
căn cứ của Mỹ trên khắp vùng Thái Bình Dương. Ông ta đã chán ngấy những ghi chú
và thông tin quân sự viết trên những chồng hồ sơ dày, nên ông thích cách trình bày
bằng hình ảnh.

- Chúng ta vẫn đang cho
các máy bay trinh thám bay ở một phạm vi rộng, nhưng họ vẫn chẳng nhìn thấy gì.
Ông dừng lại một lát để cho tổng thống có thời gian xem xét kĩ biểu đồ trên
tường. Mặc dù cái biểu đồ này rất đơn giản. Sau đó ông tiếp tục với một lời
trình bày với khung hình kế tiếp:

- Chúng tôi đã gửi tàu
chiến tới những vùng sau đây...

Rooseveltcảm thấy
thế là quá đủ liền ngắt lời:

- Cả hai hàng không mẫu
hạm lớn gần như nhất của Nhật Bản tự nhiên biến mất. Và bây giờ, chúng ta không
biết chúng ở đâu. Ý ông đang định nói thế phải không?

- Dạ vâng, thưa tổng
thống. Và chúng tôi...

- Tư lệnh này, tôi biết
là bên hải quân đang làm hết sức mình, khỏi phải phân bua, nói tiếp đi! Cho tôi
biết chúng đang ở đâu?

- Vâng, thưa tổng thống.

Viên tư lệnh quăng mạnh
ba tấm biểu đồ khác lên khung như thể ông ta đột nhiên giận dữ những tay trợ lý
đã chuẩn bị sẵn cho ông. Cuối cùng ông ta tìm thấy tấm bản đồ ta lớn của vùng
biển Thái Bình Dương.

- Ở giữa nước Mỹ và vùng
Viễn Đông là những con đường biển có sức gió và dòng hải lưu thuận tiện nhất để
thực hiện những chuyến hải hành.

Ông dùng gậy để khoanh
vùng đó lại rồi nói tiếp:

- Rất xa về phía trên là
đường biển đi về phía Bắc, ở giữaCanadavà Nga. Ở giữa đường biển
Bắc tôi vừa nói và những đường biển giữa nước Mỹ và vùng Viễn Đông có một vùng
mà người ta gọi làVacantSea. Nếu tôi là người Nhật, tôi sẽ giấu
quân của mình ở đó. Người ta có thể mang cả vùng đất rộng lớn của châu Á giấu ở
vùng biển hoang này mà không ai biết cả. Nó quá hoang vắng và tránh xa mọi cặp
mắt dòm ngó của không quân và hải quân các quốc gia.

Tổng thống hỏi:

- Và thế là bọn chúng sẽ
lao vọt ra từ vùng biển này. Thế nhưng chúng sẽ tấn công vào đâu?

- Rắc rồi chính là ở chỗ
đó, thưa tổng thống. Bên tình báo cho rằng đó làHawaii. Nhưng ngài cũng
biết rồi đó, chúng ta nhận được những lời cảnh báo rằng cuộc đại tấn công này
có thể nhắm vào bất cứ mục tiêu nào hiện có. Và sự thật là tạiVacant Sea, người Nhật có thể tấn
công vào bất cứ nơi nào họ muốn: Philippin, Borneo, Guam.

Nhìn thấy tổng
thốngRooseveltbắt đầu tỏ vẻ sốt ruột, viên tư lệnh vội vàng nói
tiếp:

- Chỉ huy Thurman của
phòng tình báo hải quân đã nghiên cứu kĩ vấn đề này và bây giờ ông ấy có vài lời muốn nói
với chúng ta.

Mọi người trong phòng dồn
mắt cả vào Thurman. Viên tư lệnh vội vàng ngồi xuống, Thurman không để phí thời
gian.

- Đội giải mã bên chúng
tôi mới đây đã dịch được những mật mã loại dùng cho quân sự ở cấp cao. Chúng
tôi đã có những bằng chứng xác thực hơn về mục tiêu của cuộc tấn công sắp tới
của người Nhật và thông điệp mới của đại sứ Peruđã giúp chúng tôi khẳng
định những nghi ngờ trước đây của mình là đúng. Theo tôi thì mục tiêu chính là
Trân Châu cảng.

Một trong các tướng lĩnh
lên giọng hỏi:

- Anh có bằng chứng chắc
chắn rồi ư?

- Nếu tôi có bằng chứng
chắc chắn thì chúng ta đã tuyên chiến từ lâu rồi, thưa ngài!

Thurman trả lời. Viên
tướng kia trừng mắt lên. Phó tư lệnh, người đã dẫn Thurman đến đây vì tin những
kết luận của ông, nhăn mặt nhìn ra góc phòng. Không ai chối cãi rằng Thurman là
một người thông minh, nhưng cũng rõ ràng không kém là đầu óc uyên bác của ông
chẳng dính dáng gì đến khôn ngoan trong chính trị cả.

- Vậy thì ông có những
bằng chứng loại nào hả?

Viên tướng kia hỏi.
Thurman thấy đất rung chuyển. Làm sao ông có thể giải thích linh tính của mình
cho những người chỉ tin vào những gì có bằng chứng xác thực mà thôi. Ông ngừng
lại nhìn thẳng vào mắt viên tướng kia và trả lời.

- Những máy móc giải mã
của chúng tôi đã không giải được những từ đã được phía Nhật cắt xén ra khỏi
những thông điệp, thế nên để hiểu một cách đầy đủ những thông điệp kia nói gì,
chúng tôi đành phải ngầm hiểu những khoảng trống đó để xem họ định nói gì.

- Ngầm hiểu ư? Ý ông nói
là các ông phỏng đoán à? - Viên tướng kia nói.

Tư lệnh đỡ lời:

- Họ dùng khả năng ngoại
cảm trong thông tin đấy ạ!

- Thưa ngài tư lệnh, cảm
ơn ông đã đồng tình với chúng tôi. Nhưng ngài trung tướng đây đã nói đúng.
Phải, chúng tôi đã đoán và đọc những thông điệp đó như thể thầy coi số tử vi
vậy, bởi vì có ai đó chỉ cần đi lòng vòng bên ngoài cũng có thể đoán được bên
trong nhà có cái gì. Thế nên điều mà tôi thấy đó là một cuộc tấn công vào Trân
Châu cảng. Đó là khả năng xấu nhất có thể xảy ra. Một cú đòn giáng vào hòn đảo
Trân Châu có thể hủy diệt khả năng của nhiều hạm đội của chúng ta ở châu Á Thái
Bình Dương khiến chúng ta không thể nào chống đỡ khi có chiến tranh xảy ra.

- Và thế là anh muốn lực
lượng quân đội trên vùng châu Á Thái Bình Dương của chúng ta phải nhốn nháo vả
lên trong tình trạng báo động, tiêu tốn hằng nghìn triệu đô la chỉ vì cái linh
cảm nhỏ nhoi kỳ lạ của bản thân anh hay sao? - Viên tướng hỏi vặn.

Chỉ huy Thurman đáp:

- Không, thưa ngài. Tôi
hiểu công việc của tôi chỉ là thu thập những thông tin và giải mã chúng. Còn
phần đưa ra những quyết định khó khăn dựa trên những tin không hoàn chỉnh từ
những máy móc giải mã lạc hậu của bộ phận chúng tôi thì hoàn toàn phụ thuộc vào
các ngài.

Mọi người trong phòng đều
nhận ra rằng Rooseveltkhông nói gì, nhưng đã nghe toàn bộ những lời trao
đổi trên đây. Cả hai ngừng lại, nhưng tổng thống vẫn không nói một lời nào.
Cuối cùng, tư lệnh bảo:

- Thế thì hãy cho chúng
tôi những tin tức xác thực hơn để chúng tôi có thể quyết định chính xác hơn,
chỉ huy Thurman.

- Vâng, thưa ngài, xin
tuân lệnh.

Thurman tin chắc tổng
thốngRooseveltgật đầu khi nghe ông nói. Nhưng ông không hiểu rằng
ông gật đầu như thế là đồng ý hay phản đối. Sau đó, ông thậm chí không chắc
rằng tổng thống có gật đầu hay không nữa, nhưng ông tin chắc Roosevelt có nghe
được mẩu thông tin mà ông phải bỏ ra nhiều ngày trời suy tính vật lộn với đồng
giấy tờ mới có được

*

Hai đội xung kích của
tướng Yamamoto gặp nhau ngoài khơi đúng theo kế hoạch phối hợp của ông không
sai một ly. Sau khi tắt hết máy bộ đàm và phương tiện truyền thông, chỉ để lại
những gì tối cần thiết, họ cũng hành quân đến Hawaii.

Yamamoto đứng trên một
boong tàu đô đốc. Khi những người đánh tín hiệu trao đổi thông tin từ các tàu
để xác minh lại mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp, có sáu tàu hàng không mẫu hạm
tất cả, đó là: Akagi, Kaga, Soryu, Zuikaku, Hiryu Shokaky. Sáu tàu chở hàng này
mang trên mình tới bốn trăm bốn mươi mốt máy bay chiến đấu tất cả. Đi theo hai
tàu chở hàng này là hai tàu chiến, chín tàu khui trục, ba tàu tuần tiễu. Mặc dù
có một đội tàu nhỏ đi theo cả đoàn tàu lớn ấy để bảo vệ nhưng Yamamoto không
chắc mình có thể đụng độ với bất cứ một con tàu nhỏ bé nào trên đường đi. Bởi
vì họ đang đi đến vùng biển hoang.

Phòng tác chiến của Mỹ đã
đoán đúng về điều này. Tại Trân Châu cảng có chín mươi sáu tàu của Mỹ, tám tàu
chiến, tất cả đều mang tên của các bang trên nước Mỹ:Arizona,Califonia, Maryland,
Nerada,Oklahoma,Pennsylvania,Tennessee, West, Virginia. Tám
tàu tuần tiễu, hai tàu hạng nhẹ và sáu tàu hạng nặng được đặt tên theo những
thành phố ở Mỹ:New Orleans,San Francisco, St Louis,Helena,
Rakeigh,Detroit, Honolutu, Phoenix. Ba mươi lăm tàu khu trục mang tên
những tướng lĩnh có công lao trong ngành hải quân, bốn tàu ngầm được đặt tên
theo những con vật to lớn của biển cả. Thêm vào đó, là rất nhiều tàu thả thủy
lôi, thủy phi cơ, những con tàu mang theo dụng cụ máy móc để sửa chữa khi cần,
những tàu mục tiêu để tập bắn. Trong các sân bay xung quanh cảng này là rất
nhiều máy bay chiến đấu các loại: P-40, P-376, P-26, F4F và các máy bay thả bom
SBD, máy bay ném bom kiểu bổ nhào, máy bay ném bom hạng nặng B-7, máy bay ném
bom hạng trung B-18, máy bay ném bom hạng nhẹ Anh-20, thêm vào đó là những thủy
phi cơ chở nhiên liệu như PBY và các máy bay sử dụng vào mục đích hậu cần. Còn
thêm nhiều đạn dược, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, nhà kho chất đầy quân nhu,
quân dụng để có thể đưa toàn bộ lực lượng quân đội khổng lồ này vào hoạt động
một cách nhịp nhàng.

Dù trang bị kĩ càng như
thế nhưng lực lượng quân đội ở đây không hề đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến
đấu.

Hầu hết lực lượng quân
đội to lớn như thế, hùng hậu như thế đang bất động, bình thản nằm phơi mình
dưới ánh nắng rực rỡ của biểnHawaii. Một quần thể quân sự như vậy chính
là mục tiêu tấn công của tướng Yamamoto. Trong đó, ông ta tha thiết nhất là ba
tàu hàng không mẫu hạm của Mỹ mang tên Lesinton, Saratoga va Enterprise, đều
đang neo ở Trân Châu cảng. Nhưng Yamamoto không dám chắc rằng ba hạm đội đó còn
ở vùng cảng này khi máy bay của ông tấn công.

Tuy nhiên, mục tiêu tấn
công là con người thì không hề có gì đáng nghi ngờ. Hàng ngàn thủy thủ, binh lính và dân thường đang
có mặt trên đảo, cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Tất nhiên tướng Yamamoto chỉ
nhằm vào những vị trí quân sự mà thôi, nhưng ông cũng biết câu nói nổi tiếng
của đại văn hào Shakespeare: “Một khi đã ra lệnh tàn phá tức là đã chính thức
khai chiến rồi”. Một khi cuộc tấn công này được thực hiện thì rất nhiều người
sẽ phải chết.

Mãi về sau này, nhiều
người Mỹ cho rằng Yamamoto là một tay khát máu, một tay giết người không run
tay. Thế mà nhiều tư lệnh hàng đầu của nước Nhật còn đánh giá ông chưa đủ tàn
bạo. Là một nhà chiến thuật, Yamamoto đã được huấn luyện để tập trung loại bỏ
vũ khí, khí tài của kẻ địch để cho họ không còn khả năng tham chiến. Đó cũng
chính là điều mà ông sắp làm đây. Ông biết rằng nhiều quân thù sẽ chết, nhưng
bao nhiêu và chết như thế nào? Và ông phải chịu trách nhiệm như thế nào về cái
chết của họ? Với tư cách là một thành viên của nhân loại, trong hoàn cảnh này
ông chỉ còn biết chờ Chúa trời đưa ra câu trả lời.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3