Xác Ấm - Phần I - Chương 07
Chúng tôi quay về chỗ chiếc 747. Vẫn chưa giải quyết được vấn đề gì, nhưng
nàng đã đồng ý hoãn cuộc đào tẩu của mình lại. Sau cảnh rắc rối mà chúng tôi
vừa gây ra, tốt hơn hết chúng tôi nên lánh mặt một thời gian. Tôi không biết
đám Xương Khô sẽ phản đối sự có mặt trái quy luật của Julie đến mức nào, bởi vì
đây là lần đầu tiên tôi có lý do để chống lại chúng. Chuyện này chưa hề có tiền
lệ.
Chúng tôi đi vào một hành lang qua đường nằm phía trên một bãi đỗ xe,
tóc Julie bay tung trong làn gió đang xào xạc thổi qua những ô kính vỡ. Những
chậu cây cảnh trong nhà tràn ngập hoa cúc dại. Khi nhìn thấy chúng, Julie mỉm
cười hái một bó. Tôi nhặt một bông trong tay nàng và vụng về cài nó vào tóc
nàng. Bông hoa vẫn còn lá và chĩa ra chỏng chơ từ một bên đầu nàng. Nhưng nàng
cứ để yên như thế.
“Anh có nhớ sống với những người khác là như thế nào không?” Nàng hỏi trong
lúc chúng tôi đi. “Trước khi anh chết ấy?”
Tôi lơ đãng phẩy tay.
“Bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Khi tôi lên mười thì quê tôi mới bị tàn
phá và chúng tôi phải đến đây, nên tôi vẫn còn nhớ trước kia như thế nào. Giờ
tất cả đều thay đổi nhiều lắm. Mọi thứ đều nhỏ lại, chật chội hơn, ồn ào hơn,
và lạnh hơn.” Nàng dừng lại trên hành lang đường bộ và nhìn qua khung cửa trống
trơn, ngắm cảnh hoàng hôn nhàn nhạt bên ngoài. “Giờ tất cả chúng tôi đều bị dồn
vào sân vận động, chẳng biết làm gì ngoài sống sót cho đến hết ngày. Không ai
viết, không ai đọc, thậm chí hầu như chẳng ai nói chuyện với nhau.” Nàng xoay
xoay bó hoa cúc trong tay và ngửi một bông. “Chúng tôi không trồng hoa nữa. Chỉ
trồng lương thực thôi.”
Tôi nhìn qua cửa sổ đối diện, nhìn hoàng hôn đang tối dần. “Vì chúng
tôi.”
“Không, không phải vì các anh. Ý tôi là, ừ, đúng là vì các anh thật, nhưng
không chỉ có thế đâu. Anh quả thực không nhớ trước kia thế nào
ư? Với những sụp đổ chính trị và xã hội ấy? Lũ lụt toàn cầu? Chiến tranh, bạo
loạn, những vụ ném bom không ngừng? Thế giới đã tiến gần đến ngày tận thế lắm
rồi, trước khi các anh xuất hiện. Các anh chỉ là phán quyết cuối cùng thôi.”
“Nhưng chúng tôi lại... đang giết các bạn. Trong lúc này.”
Nàng gật đầu. “Đúng thế, lúc này thì Xác Sống là mối nguy hiểm trước mắt.
Khi mà gần như ai chết đi cũng sống lại và giết thêm hai người nữa thì... đúng
là một phép toán đáng sợ. Nhưng vấn đề cốt lõi lớn hơn thế nhiều, hoặc cũng có
thể là nó nhỏ hơn, sâu xa hơn, và cho dù có giết cả triệu Xác Sống thì cũng
không thể giải quyết được nữa, bởi vì sẽ luôn có thêm nhiều vấn đề khác.”
Hai Người Chết xuất hiện sau một khúc quanh và lao vào Julie. Tôi dập đầu
họ vào nhau và họ gục nhanh chóng, tự hỏi không biết trong cuộc đời trước kia
tôi có từng học võ không. Tôi có vẻ khỏe hơn nhiều so với dáng người gầy gò của
mình.
“Bố tôi không quan tâm đến những điều đó,” Julie nói tiếp khi chúng tôi đi
tới đường lên máy bay và vào trong khoang. “Khi vẫn còn chính phủ thì ông từng
là một vị tướng trong quân đội, nên ông chỉ có một cách suy nghĩ duy nhất thôi.
Xác định mối nguy, tiêu diệt mối nguy, đợi lệnh từ cấp trên. Nhưng vì cấp trên
đã biến mất và những người điều khiển đã chết hết, giờ chúng tôi biết làm gì
đây? Không ai biết, nên chúng tôi chẳng làm gì cả. Chỉ gom góp đồ tiếp tế, giết
Xác Sống, và mở rộng tường vây vào sâu hơn trong thành phố. Nói đơn giản thì
cách cứu nhân loại của bố tôi là xây một cái hộp bê tông thật to, bỏ tất cả mọi
người vào đấy, rồi ôm súng đứng canh ngoài cửa cho đến khi chúng tôi chết già.”
Nàng ngồi ngả lên ghế, hít một hơi thật sâu, rồi lại thở hắt ra. Giọng nàng
nghe mệt mỏi vô cùng. “Ý tôi là sống sót thì tất nhiên là quan trọng rồi,” nàng
nói. “Nhưng phải có cái gì đó hơn thế nữa chứ, phải không?”
Tôi lan man nghĩ về mấy ngày vừa qua, và đột nhiên tôi chợt nghĩ đến hai
đứa con tôi. Cái cảnh chúng ngồi trong hành lang chơi với cái dập ghim và cười
với nhau. Cười. Tôi đã bao giờ thấy đứa trẻ Người Chết nào khác cười
chưa? Tôi không nhớ. Nhưng khi nghĩ đến chúng, nghĩ đến ánh mắt chúng khi chúng
ôm lấy chân tôi, tôi thấy những cảm xúc lạ lùng trào lên trong lòng. Ánh mắt
ấy là gì nhỉ? Nó từ đâu đến? Trong bộ phim tuyệt vời chiếu lên
trên mặt chúng ấy, bản nhạc du dương nào đang chơi? Lời thoại nói bằng thứ
tiếng gì? Có thể dịch ra được không?
Khoang máy bay im lặng trong chốc lát. Julie nằm ngửa và ngoẹo đầu nhìn
ngược ra cửa sổ. “Anh sống trong một cái máy bay, R ạ,” nàng nói. “Thích thật.
Tôi nhớ cái cảm giác nhìn thấy máy bay trên trời. Tôi đã nói với anh là tôi nhớ
máy bay như thế nào chưa nhỉ?”
“Come Fly with Me”.
Tôi đi đến chỗ máy quay đĩa. Cái đĩa Sinatra vẫn đang chạy quanh một rãnh
trống, vì vậy tôi liền đẩy kim đến bài “Hãy bay cùng tôi”.
Julie mỉm cười. “Hay đấy.”
Tôi nằm lên sàn và đặt tay lên ngực, mắt nhìn lên trần, mồm lẩm nhẩm lung
tung theo lời hát.
“Mà tôi cũng đã nói với anh là, theo một cách kỳ quặc nào đó, thì ở đây
cũng khá dễ chịu chưa nhỉ?” Julie xoay đầu lại nhìn tôi. “Ý tôi là ngoài việc
suýt bị ăn đến bốn lần ấy. Đã bao nhiêu năm rồi tôi mới lại có thời gian rảnh
rỗi để hít thở, để suy nghĩ và nhìn ra ngoài cửa sổ. Và anh có một bộ sưu tập
đĩa hát cũng không đến nỗi nào.”
Nàng thò tay xuống cắm một bông hoa cúc lên hai bàn tay tôi đang chắp lại,
rồi cười khúc khích. Mất một lúc tôi mới nhận ra là trông mình giống một tử thi
trong đám tang kiểu xưa. Tôi ngồi bật dậy như bị sét đánh, và Julie cười phá
lên. Tôi cũng không thể không mỉm cười.
“Và anh có biết chuyện điên rồ nhất là gì không, R?” Nàng nói. “Đôi khi tôi
gần như không tin nổi anh là Xác Sống. Đôi khi tôi nghĩ anh chỉ đang bôi phấn
hóa trang thôi, bởi vì khi anh cười thì... đúng là khó tin thật.”
Tôi lại nằm xuống và bắt tay sau đầu. Vì ngượng, tôi giữ cho mặt mình vô
cảm cho đến khi Julie ngủ thiếp đi. Rồi tôi để cho nụ cười dần dần trở lại trên
mặt, và tôi cười nhìn trần nhà trong lúc những ngôi sao dần sáng lên ngoài cửa.
***
Chiều muộn ngày hôm sau, tiếng ngáy khe khẽ của nàng dừng lại. Vẫn nằm
nguyên trên sàn, tôi đợi nghe những tiếng động nàng phát ra khi thức giấc.
Tiếng nàng đổi tư thế, tiếng hít thở sâu, tiếng rên khe khẽ.
“R này,” nàng nói giọng còn ngái ngủ.
“Sao?”
“Anh biết không, họ nói đúng đấy.”
“Ai?”
“Mấy bộ xương ấy mà. Tôi đã thấy những bức ảnh họ chỉ cho anh. Họ đã đúng
khi nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra.”
Tôi không nói gì.
“Một người trong số bọn tôi đã thoát. Khi nhóm các anh tấn công, cô bạn
Nora của tôi đã trốn dưới một cái bàn. Cô ấy đã thấy anh... bắt tôi. An ninh có
thể sẽ mất chút thời gian để phát hiện ra anh đã đưa tôi về tổ nào, nhưng rồi
họ sẽ phát hiện ra thôi, và bố tôi sẽ đến. Bố sẽ giết anh.”
“Tôi đã... chết rồi,” tôi nói.
“Không, không phải,” nàng ngồi dậy nói. “Rõ ràng anh chưa chết.”
Tôi nghĩ về điều nàng vừa nói trong giây lát. “Cô muốn... quay về.”
“Không,” nàng nói, rồi có vẻ giật mình. “Ý tôi là có, tất nhiên là có, nhưng...” Nàng rên lên bực dọc. “Cũng chẳng
quan trọng gì, tôi phải quay về thôi. Họ sẽ đến đây xóa sổ các
anh. Tất cả các anh.”
Tôi lại im bặt.
“Tôi không muốn chịu trách nhiệm vì chuyện đó, được
chứ?” Vừa nói nàng vừa có vẻ như đang suy xét điều gì. Giọng nàng căng thẳng,
đầy bối rối. “Tôi đã luôn được dạy rằng Xác Sống chỉ là những thây ma biết đi
cần phải bị tiêu diệt, nhưng... nhìn anh mà xem. Anh không chỉ là một cái xác,
phải không? Vậy lỡ còn nhiều người khác giống như anh thì sao?”
Mặt tôi đanh lại.
Julie thở dài. “R này... có lẽ anh sến đến độ tin
rằng tử vì đạo thì thật lãng mạn, nhưng còn những người khác thì sao? Các con
anh chẳng hạn? Chúng sẽ ra sao?”
Nàng đang đẩy tâm trí tôi đến những con đường nó ít
khi đặt chân tới. Trong suốt bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm ở đây, tôi chưa
bao giờ nghĩ rằng những sinh vật đang đi quanh tôi cũng là con người. Họ có
nhân hình, đúng thế, nhưng không phải là con người. Chúng tôi ăn,
ngủ và đi qua màn sương, như đang tham gia một cuộc ma ra tông không có đích,
không có huy chương, không được ai cổ vũ. Không một cư dân nào của sân bay tỏ
ra kinh hoàng khi tôi giết bốn người đồng loại. Chúng tôi coi mình cũng như
Người Sống thôi: là thịt. Vô danh, vô hình, có thể bị vứt bỏ. Nhưng Julie đã
đúng. Tôi có suy nghĩ. Tôi cũng có một chút linh hồn, cho dù cái linh hồn ấy có
teo tóp vô dụng đến thế nào đi chăng nữa. Vì vậy có lẽ những người kia cũng
thế. Có thể ở đây còn cái gì đó đáng được cứu.
“Được,” tôi nói. “Cô sẽ... phải về.”
Nàng lẳng lặng gật đầu.
“Nhưng tôi sẽ... đi cùng.”
Nàng bật cười. “R! Đi đến sân vận động à? Anh điên
rồi chắc?”
Tôi lắc đầu.
“Được, thế thì hãy nghĩ về việc này một chút đã,
được chứ? Anh ấy à? Là một Xác Sống. Cho dù anh có được bảo quản tốt và có vẻ
dễ thương đến thế nào đi chăng nữa thì anh cũng vẫn cứ là Xác Sống,
và thử đoán xem tất cả những người từ mười tuổi trở lên trong sân vận động đã
luyện tập cái gì bảy ngày một tuần nào?”
Tôi không đáp.
“Chính xác. Giết Xác Sống. Vì thế, để tôi nói cho
rõ hơn - anh không thể đi với tôi được. Vì họ sẽ giết anh.”
Tôi nghiến răng. “Thì sao?”
Nàng nghiêng đầu sang bên, và vẻ mỉa mai của nàng
biến mất. Giọng nàng trở nên ngần ngừ. “Anh nói ‘thì sao’ nghĩa là thế nào? Anh
muốn chết à? Chết thực sự ấy?”
Phản ứng đầu tiên của tôi là nhún vai. Đã từ lâu
tôi luôn trả lời mọi câu hỏi bằng cái nhún vai. Nhưng khi nằm trên sàn, thấy
cặp mắt lo lắng của nàng nhìn xuống tôi, tôi chợt nhớ đến cảm giác đã xuyên
suốt qua tôi khi tôi thức dậy ngày hôm qua, cái cảm giác của Không!
và Có! Cái cảm giác chống-nhún-vai.
“Không,” tôi nói với trần máy bay. “Tôi không muốn
chết.”
Nói dứt lời, tôi mới nhận ra tôi vừa phá vỡ kỷ lục
về âm tiết của chính mình.
Julie gật đầu. “Tốt.”
Tôi hít một hơi thật sâu và đứng dậy. “Cần... suy
nghĩ,” tôi nói nhưng tránh nhìn vào mắt nàng. “Quay lại... ngay. Khóa... cửa.”
Tôi rời khỏi máy bay, và mắt nàng dõi theo tôi.
***
Mọi người nhìn tôi chằm chằm. Ở sân bay này tôi vốn
luôn là kẻ lập dị, nhưng giờ thì sự bí hiểm của tôi đã đặc quánh lại như rượu
pooc tô. Tôi vừa đặt chân vào một căn phòng là tất cả mọi người ngừng cử động
và chuyển sang theo dõi tôi. Nhưng nét mặt họ cũng không hẳn là dữ tợn. Trong
vẻ trách móc của họ có ẩn giấu một thoáng mê hoặc thích thú.
Tôi thấy M đang ngắm bóng mình trong một ô cửa sổ ở
sảnh, một ngón tay chọc ngoáy trong miệng. Tôi nghĩ anh đang cố sửa lại
mặt mình.
“Chào,” tôi nói, đứng cách một quãng an toàn.
Anh lườm tôi một cái, rồi quay lại nhìn vào cửa sổ.
Anh ấn mạnh vào hàm trên, và xương gò má của anh được đẩy về chỗ cũ đánh rắc
một cái. Anh quay sang tôi mỉm cười. “Trông... thế nào?”
Tôi phẩy phẩy tay vẻ không chắc chắn. Một nửa mặt
anh giờ trông khá bình thường, nhưng nửa kia vẫn còn hơi... lõm xuống.
Anh thở dài và lại nhìn vào cửa sổ. “Tin... xấu...
với các quý cô.”
Tôi cười. Mặc dù chúng tôi rất khác nhau, tôi vẫn
phải phục M một vài điểm. Anh là Xác Sống duy nhất tôi biết còn giữu lại được
chút tính hài hước rơi rớt. Một điều đáng ghi nhận nữa... bốn âm tiết liền nhau
không ngừng. Anh vừa mới đạt được kỷ lục cũ của tôi.
“Xin lỗi,” tôi bảo anh. “Vì... chuyện đó.”
Anh không đáp lại.
“Nói chuyện... một phút nhé?”
Anh chần chừ, rồi lại nhún vai. Anh theo tôi đến
dãy ghế gần nhất. Chúng tôi ngồi xuống trong một quán Starbucks tối mò, đã thôi
hoạt động từ lâu. Hai ly espresso mốc meo nằm trước mặt chúng tôi, bị bỏ lại từ
bao giờ bởi hai người bạn nào đó, hay hai người đồng nghiệp, hay hai kẻ mới gặp
nhau trong sân bay và làm thân nhờ cùng có chung sở thích với não người.
“Rất... xin lỗi,” tôi nói. “Dạo này. Dễ... cáu.”
M cau mày. “Cậu... làm sao... thế?”
“Không... biết.”
“Đem... cô Người Sống... về?”
“Ừ.”
“Cậu... điên à?”
“Chắc vậy.”
“Nó... như thế nào?”
“Cái gì?”
“Ngủ với... Người Sống.”
Tôi ném cho anh một cái nhìn cảnh cáo.
“Cô ấy... hot đấy. Tôi thì...”
“Im đi.”
Anh cười. “Đùa... cậu thôi.”
“Không... phải thế. Không... như thế.”
“Không thì... là cái gì?”
Tôi ngập ngừng không biết trả lời ra sao. “Hơn
thế.”
Mặt anh trở nên nghiêm trang đến phát sợ. “Cái gì.
Tình yêu à?”
Tôi nghĩ về điều này, và tôi không tìm được câu trả
lời nào ngoài một cái nhún vai đơn giản. Vì vậy tôi nhún vai, cố không mỉm
cười.
M ngửa đầu về phía sau và phát ra một tiếng cười
thành thật nhất mà anh có thể. Anh đấm mạnh vai tôi. “Chú nhóc... của tôi!
Đang... yêu đấy! Ha!”
“Tôi sẽ đi... với cô ấy,” tôi bảo anh.
“Đi đâu?”
“Đưa cô ấy... về nhà.”
“Sân vận động?”
Tôi gật đầu. “Bảo vệ... cô ấy.”
M ngẫm nghĩ về điều này, vẻ lo lắng ánh lên trên khuôn
mặt thâm tím của anh trong khi anh quan sát tôi.
“Tôi... biết,” tôi thở dài.
M khoanh tay trước ngực. “Cậu... làm sao... thế?” Anh hỏi lại tôi.
Và một lần nữa, tôi lại không biết trả lời như thế nào ngoài nhún vai.
“Cậu... ổn chứ?”
“Đang thay đổi.”
Anh boăn khoăn gật đầu, và cái nhìn tò mò của anh khiến tôi lúng túng. Tôi
không quen nói những câu chuyện sâu sắc với M. Hay thực ra là với bất kỳ Người
Chết nào khác. Tôi xoay xoay cốc cà phê trong tay, chăm chú ngắm nghía những
cục mốc xanh trong lòng cốc.
“Khi nào... hiểu ra...” mãi rồi M mới lên tiếng, với giọng chân thành mà
tôi chưa bao giờ thấy anh dùng đến, “nói cho... tôi biết. Nói cho... chúng
tôi biết.”
Tôi đợi anh pha trò, biến nó thành một câu nói đùa, nhưng anh không làm
thế. Anh nói thực lòng.
“Được,” tôi đáp. Tôi vỗ vào anh rồi đứng dậy. Khi tôi quay đi, anh nhìn tôi
cũng với cái vẻ kỳ lạ mà tôi đã thấy trên mặt những Người Chết khác. Cái vẻ pha
trộn giữa bối rối, sợ hãi, và một thoáng chờ đợi.
CẢNH TƯỢNG lúc tôi và Julie ra khỏi sân bay gần giống như một đám rước
dâu hay dãy xếp hàng ở một bữa ăn tự chọn. Người Chết đứng thành hàng dọc các
hành lang để nhìn chúng tôi đi qua. Tất cả mọi người đều có mặt. Họ có vẻ bị
kích động, bồn chồn không yên, và rõ ràng là chỉ muốn được xông vào ngấu nghiến
Julie, nhưng họ không nhúc nhích hay phát ra một tiếng động nào. Mặc kệ lời
phản đối gay gắt của Julie, tôi đã nhờ M dẫn chúng tôi ra. Anh đi theo sau
chúng tôi vài bước, dáng người khổng lồ đầy cảnh giác, mắt không rời đám đông
như một nhân viên Mật vụ.
Sự im lặng không bình thường của một căn phòng đầy những người không còn
thở nữa thật là quái gở.
Tôi thề là tôi gần như nghe được tiếng tim Julie đập thình thịch. Nàng cố
bước thật bình tĩnh và tỏ ra phớt lạnh, nhưng cặp mắt láo liên đã phản lại
nàng.
“Anh có chắc về chuyện này không đấy?” Nàng thì thầm.
“Có.”
“Phải có đến... hàng trăm người bọn họ đấy.”
“Bảo vệ cô.”
“Phải rồi, phải rồi, bảo vệ, làm sao mà tôi quên được.” Giọng nàng nhỏ lại.
“Nói thật nhé, R... đúng là tôi đã thấy anh hạ gục mấy người, nhưng anh cũng
biết thừa là nếu giờ có ai bỗng dưng reo chuông báo giờ ăn thì tôi sẽ biến
thành sushi ngay tức khắc cho xem.”
“Không... đâu,” tôi bảo nàng một cách tự tin đến không ngờ. “Chúng ta là... cái mới. Chưa ai... thấy bao giờ.
Nhìn họ xem.”
Nàng ngó kĩ hơn những khuôn mặt xung quanh, và tôi
hi vọng nàng cũng thấy được điều tôi nhìn thấy. Những phản ứng kì lạ họ dành
cho chúng tôi, dành cho sự khác biệt mà chúng tôi là đại diện. Tôi biết họ sẽ
để cho chúng tôi qua, nhưng Julie có vẻ không chắc chắn. hơi thở nàng trở nên
khò khè. Nàng loay hoay lục trong túi ra một lọ thuốc hít, hít một hơi rồi nín
thở, mắt vẫn không ngừng đảo quanh.
“Cô sẽ ổn thôi.” M nói bằng giọng trầm đục.
Nàng thở hắt ra và quay ngoắt lại trừng mắt nhìn
anh. “Ai hỏi mày, đồ chó bị thịt? Lẽ ra hôm qua tao phải cắt mày làm đôi mới
phải.”
M bật cười và nhướng mày với tôi. “Cô nàng mạnh mẽ
đấy... ‘R’ ạ.”
Chúng tôi tới được cổng. Đi mà không bị ai quấy
rầy. Khi bước ra ngoài trời, tôi cảm thấy một nỗi lo lắng cồn cào trào lên
trong bụng. Mới đầu tôi tưởng đó chỉ là nỗi sợ thường trực của tôi đối với bầu
trời rộng mở, giờ đang trùm lên chúng tôi với những màu xám và tím như một vết
bầm, cuồn cuộn những đám mây dông cao tít. Nhưng không phải là vì bầu trời. Tôi
nghe thấy âm thanh ấy. Cái tiếng rung trầm trầm, như những tên
điên giọng nam trung đang ngâm nga một khúc đồng dao. Tôi không biết có phải vì
tôi đã quên nghe nó hơn hay vì âm thanh ấy đã to lên thật, nhưng tôi đã nghe
được nó từ trước khi đám Xương Khô ấy xuất hiện.
“Chết tiệt, trời ơi, chết tiệt.” Julie thì thào
thốt lên.
Chúng tiến đến cả từ hai góc dành cho xe thả khách
và đứng thành một hàng trước mặt chúng tôi. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bộ
xương tụ tập cùng một chỗ như thế. Tôi thậm chí còn không biết là bọn chúng
đông đến vậy, ít nhất là trong sân bay này.
“Rắc rối rồi,” M nói. “Trông chúng... cáu đấy.”
Anh nói đúng. Trông dáng vẻ của chúng có gì đó
khang khác. Chúng trông cứng nhắc hơn, nếu điều đó là có thể. Hôm qua chúng là
một bồi thẩm đoàn bước ra để xem xét vụ việc của chúng tôi. Hôm nay chúng là
quan tòa tuyên án. Hoặc cũng có thể là những tên đao phủ thi hành án.
“Đi đây!” Tôi hét lên với chúng. “Đưa cô ấy về! Để
họ sẽ không... đến đây nữa.”
Những bộ xương không cử động hay đáp lại. Từng khúc
xương của chúng vẫn ngân vang nốt nhạc xa lạ chua chát.
“Các người... muốn gì?” Tôi hỏi.
Tất cả những bộ xương ở hàng đầu đồng loạt giơ tay
lên chỉ vào Julie. Tôi chợt nhận ra rằng điều này không bình thường đến thế
nào, rằng bản chất những sinh vật này khác chúng tôi đến thế nào. Người Chết
chỉ trôi nổi trên một mặt biển chán nản mờ sương. Họ không làm gì một cách đồng
loạt cả.
“Đưa cô ấy về!” Tôi hét to hơn, lúng túng không
biết phải nói thế nào cho ra lẽ. “Nếu... giết cô ấy... họ sẽ đến đây. Giết...
chúng ta!”
Chúng không hề ngần ngừ, không mất lấy một giây nào
để suy nghĩ về bất kì điều gì tôi vừa nói, chúng đã định sẵn một loạt câu trả
lời và đưa ra câu trả lời ấy ngay lập tức. Đồng loạt, như những thầy tu quỷ sứ
tụng bản kinh chiều của Địa Ngục, chúng phát ra thứ âm thanh nọ từ lồng ngực.
Chúng là một đám đông kiêu hãnh đưa ra lời kết tội không thể bác bỏ, và mặc dù
chúng không nói ra một từ nào, tôi hiểu rõ chúng muốn nói gì:
Không cần nói.
Không cần nghe.
Đã biết tất cả.
Cô ta không được đi.
Chúng ta sẽ giết cô ta.
Mọi việc phải như vậy.
Đã luôn như vậy.
Sẽ luôn như vậy.
Tôi nhìn Julie. Nàng run lẩy bẩy. Tôi nắm lấy tay
nàng và nhìn M. Anh gật đầu.
Với hơi ấm từ mạch đập trong tay Julie truyền qua
những ngón tay giá băng của mình, tôi chạy.
Chúng tôi chạy về phía trái, hòng lần qua ngách phi
đội Xương Khô. Khi chúng lách cách xông tới để chắn đường tôi, M lao ra trước
mặt tôi, đập cả thân hình đồ sộ của anh vào hàng gần nhất, khiến chúng ngã nhào
xuống thành một đống tay chân và xương sườn lẫn lộn. Một tiếng còi chói tai vô
hình của chúng xé toạc không gian.
“Anh đang làm cái gì thế?” Julie thở hổn hển trong
khi tôi đang kéo nàng theo. Tôi đang chạy còn nhanh hơn cả nàng nữa.
“Bảo vệ cô an...”
“Anh đừng có hòng nghĩ đến chuyện nói ‘bảo vệ cô an
toàn’ nữa!” Nàng hét. “Đây là tình thế kém an toàn nhất mà tôi từng...”
Nàng hét lên khi một bàn tay không da túm chặt vai
nàng. Sinh vật đó há hoác miệng để cắn ngập hàm răng nhọn vào cổ nàng, nhưng
tôi túm lấy xương sống nó kéo giật ra. Tôi quăng nó xuống sàn bê tông, nhưng
chẳng ích gì, những khúc xương không hề gãy ra. Tựa hồ bộ xương ấy đang trôi
nổi thách thức lại trọng lực, lồng ngực của nó hầu như chưa chạm đất thì đã bật
dậy và lao vào mặt tôi, chẳng khác nào một con côn trùng gớm guốc, không thể bị
tiêu diệt.
“M!” Tôi cố kêu lên khi nó bóp cổ tôi. “Cứu.”
M cũng đang bận lôi những bộ xương ra khỏi tay,
chân và lưng mình, nhưng nhờ vóc dáng to lớn, có vẻ anh có thể đọ lại được
chúng. Trong khi tôi đang vật lộn không để những ngón tay của bộ xương nọ móc
mắt mình thì M tiến đến, kéo bộ xương đó ra khỏi tôi và ném nó về
phía ba bộ xương khác đang định tấn công anh từ phía sau.
“Đi đi!” Anh quát và đẩy tôi tới trước, rồi quay
lại đối mặt với những kẻ đang đuổi theo chúng tôi. Tôi nắm tay Julie lao về
phía đích đến của mình. Cuối cùng thì nàng cũng nhìn thấy nó. Chiếc Mercedes.
“Ồ,” nàng hổn hển. “Được rồi!”
Chúng tôi nhảy vào xe và tôi nổ máy. “Ôi Mercey...”
Julie nói, vuốt ve bảng đồng hồ như vuốt thú cưng. “Thật vui vì lại được gặp
mày.” Tôi vào số xe rồi thả tay côn cho chiếc xe phóng về phía trước. Không
hiểu sao bây giờ tôi lại thấy thật dễ dàng.
M đã thôi không đánh nhau nữa và giờ chỉ lo chạy thoát
thân, một đám đông những bộ xương đuổi theo sau. Hàng trăm Xác Sống đứng ngoài
lối vào cổng Đi, im lặng theo dõi mọi việc. Họ đang nghĩ gì vậy? Liệu họ có
đang nghĩ hay không? Liệu họ có thể phản ứng với việc đang diễn ra trước mắt họ
hay không? Với sự hỗn loạn bất ngờ nổ ra giữa cuộc sống đã được lập trình sẵn
của họ?
M chạy sang bên kia phố, ngay trước đường thoát của
chúng tôi, và tôi nhấn ga. M lao qua trước mũi xe, rồi đám xương khô lao qua
trước mũi xe, thế rồi công trình kĩ thuật của Đức nặng gần hai nghìn cân lao
thẳng vào thân xác khô giòn, cứng đanh của chúng. Chúng vỡ vụn. Các mẩu xương
bay khắp nơi. Hai khúc xương đùi, ba bàn tay, và một nửa hộp sọ rơi vào trong
xe, vẫn không ngừng rung lên và co giật, phát ra những tiếng khùng khục khô khốc
cùng tiếng vo vo như của sâu bọ. Julie vứt chúng ra ngoài rồi cuống cuồng lau
tay vào áo, vừa run rẩy vì ghê sợ vừa rên lên, “Ôi Chúa ơi ôi Chúa ơi.”
Nhưng chúng tôi đã thoát. Julie đã thoát, chúng tôi
rồ máy phóng qua cửa Đến, lao lên xa lộ, và tiến vào thế giới rộng lớn trong
khi đám mây dông cuồn cuộn trên đầu. Tôi nhìn Julie. Nàng nhìn tôi. Cả hai
chúng tôi cùng mỉm cười khi những giọt mưa đầu tiên rơi xuống.
MƯỜI PHÚT SAU, cơn dông mở màn bằng trận mưa sầm
sập, và cả hai chúng tôi đều ướt sũng. Chiếc xe mui trần quả là lựa chọn tồi tệ
trong một ngày như thế này. Chúng tôi không ai biết cách kéo mui xe lên, vì vậy
đành lặng lẽ lái xe trong khi màn mưa xối xả đổ xuống đầu. Nhưng chúng tôi cũng
không kêu ca. Chúng tôi cố tỏ ra lạc quan.
“Anh có biết mình đang đi đâu không?” Khoảng hai
mươi phút sau Julie hỏi. Tóc nàng đã dán chặt vào mặt.
“Có,” tôi đáp, đưa mắt nhìn con đường ở phía chân
trời xám sẫm.
“Anh có chắc không đấy? Vì tôi thì chịu thôi.”
“Rất... chắc.”
Tôi không muốn phải giải thích vì sao tôi rành rọt
đường đi giữa thành phố và sân bay đến thế. Đó là đường đi săn của chúng tôi.
Phải, nàng biết tôi là cái gì và tôi làm gì, nhưng tôi có nhắc cho nàng nhớ
không? Chúng tôi có thể lái xe một cách thoải mái và quên đi một số chuyện được
không? Trong trí tưởng tượng đầy nắng ấm của tôi thì chúng tôi không phải là
một cô thiếu nữ và một Xác Sống lái xe trong cơn mưa. Chúng tôi là Frank và Ava
đang du ngoạn trên những con đường thôn quê giữa hai hàng cây trong lúc một dàn
giao hưởng cũ kỹ trên đĩa than êm ái đệm nhạc cho chúng tôi.
“Có lẽ chúng ta nên dừng lại hỏi đường.”
Tôi nhìn nàng. Tôi nhìn những khu nhà đổ nát quanh
chúng tôi, gần như đen sì trong bóng chiều chạng vạng.
“Đùa thôi,” nàng nói, nhìn ra phía trước bằng đôi
mắt khuất dưới những món tóc ướt dính bết. Nàng ngả người lên ghế và bắt tay ra
sau đầu. “Khi nào anh cần nghỉ thì cho tôi biết nhé. Anh lái xe như bà lão ấy.”