Frankenstein - Chương 03
Chương 3
Khi tôi đến tuổi mười
bảy, cha mẹ quyết định tôi sẽ đi học đại học ở Ingolstadt[22]. Trước nay tôi
vẫn học tại các trường ở Geneva, nhưng cha tôi cho rằng, để việc giáo dục tôi
được toàn diện, tôi nên làm quen với phong tục các miền quê khác. Ngày ra đi
được quyết định khá sớm; nhưng trước khi kịp đến ngày đã định, nỗi đau khổ đầu
tiên trong đời tôi xảy ra – có thể nói đó là điềm báo cho nỗi khốn khổ của tôi
sau này.
[22] Ingodstadt: thành
phố thuộc bang Bayern (Bavaria) bên bờ Danube. Trường Đại học Ingodstadt thành
lập vào nửa sau thế kỷ 15, là một trong những thành trì vững chắc của Cơ đốc
giáo chính thống trong thời kỳ phản Cải cách thế kỷ 16, nhưng đến thế kỷ 18 lại
là cái nôi nuôi dưỡng một phong trào tìm cách cải tổ hoàn toàn cơ cấu xã hội châu
Âu, dù chỉ chủ yếu ở mức lý thuyết. Khoa y học của trường này đặc biệt phát
triển, ở nửa sau thế kỷ 18 còn xây thêm một nhà giải phẫu tử thi lớn với đầy đủ
trang bị dành cho học tập và thí nghiệm.
Elizabeth mắc bệnh tinh
hồng nhiệt, nàng ốm nặng lắm, tình hình rất nguy ngập. Bao nhiêu lý lẽ được đưa
ra nhằm can ngăn mẹ tôi trực tiếp chăm sóc người bệnh. Lúc đầu mẹ tôi chịu theo
những lời năn nỉ của chúng tôi; nhưng khi được biết cô bé được bà cưng chiều
hết mực đang bên bờ sống chết, bà không kìm nổi nỗi lo lắng của mình nữa. Bà
lúc nào cũng ở bên giường người bệnh – sự chăm sóc tận tình của bà đã chiến
thắng cơn bệnh tàn độc – Elizabeth sống sót, tuy nhiên hậu quả của sự bất cẩn
ấy đã gây khốc hại cho người coi sóc nàng. Ba ngày sau mẹ tôi ốm, sốt cao với
những triệu chứng vô cùng đáng ngại, và vẻ mặt u ám của các thầy thuốc y tá đã
tiên lượng trước điều xấu nhất. Trên giường hấp hối, người đàn bà tuyệt vời
nhất đời đó vẫn giữ nguyên lòng nhân từ và sức chịu đựng kiên cường. Bà áp bàn
tay Elizabeth và bàn tay tôi vào nhau mà nói: “Hai con ơi, những hy vọng bền
vững nhất của mẹ về tương lai giờ đây đặt trọn trên hôn phối của hai con. Giờ
đây, hy vọng đó sẽ là niềm an ủi cho cha của các con. Elizabeth, con yêu, con
hãy thay mẹ chăm sóc các anh em còn nhỏ của con. Trời ơi! Mẹ rất khổ tâm vì bị
Chúa đưa xa khỏi các con; từ bỏ các con trong khi mẹ được cả nhà chiều chuộng
thương yêu như thế này, lẽ nào đành lòng? Nhưng những ý nghĩ này thật không hợp
lẽ, mẹ sẽ cố cam chịu cái chết một cách bình yên, và ấp ủ niềm hy vọng sau này
gặp các con ở thế giới bên kia.”
Bà ra đi thanh thản, cả
trong cái chết nét mặt vẫn thể hiện tình yêu thương trìu mến. Tôi không cần
phải tả ra đây nỗi đau đớn của những người đã bị mất mát không tài nào bù đắp
nổi này cắt đứt những mối tâm tình thân thiết nhất của mình; khoảng trống rỗng
để lại trong mỗi tâm hồn, và nỗi đau thương đeo trên nét mặt chúng tôi. Phải
mất bao lâu trí óc chúng tôi mới chấp nhận được là bà – người mà ngày nào chúng
tôi cũng trông thấy, dường như đã là một phần của cuộc đời chúng tôi – lại có
thể ra đi vĩnh viễn; ánh mắt sáng long lanh mà chúng tôi thương mến từ nay đã
tắt hẳn; giọng nói quen thuộc quý yêu bên tai lại có thể bặt đi, không bao giờ
còn vang lên. Những ngày đầu sau khi bà mất là như vậy đấy; nhưng khi thời gian
trôi qua khẳng định đó là sự thật, nỗi đau xót thực sự mới bắt đầu. Thế nhưng
đâu có ai chưa từng bị bàn tay phũ phàng kia dứt đi một mối duyên thân thiết?
Và tôi cứ phải mô tả mãi làm gì nỗi đau mà ai cũng từng qua, và cũng phải qua?
Cuối cùng cũng sẽ đến lúc đau thương là do buông thả thì đúng hơn là nhu cầu
cần thiết, và nụ cười trên môi ta, dù có thể bị coi là báng bổ, không thể tắt
bỏ hoàn toàn. Mẹ tôi đã mất, nhưng chúng tôi ai nấy đều có nhiệm vụ phải làm,
phải đi theo con đường của mình cùng những người khác, tập suy nghĩ rằng mình
may mắn khi còn chưa bị kẻ phá hoại cướp đi sinh mệnh.
Chuyến lên đường đến
Ingolstadt của tôi, do chuyện này mà hoãn lại một thời gian, nay được hoạch
định lại. Tôi xin phép cha tôi cho lùi lại vài tuần. Đối với tôi thật là báng
bổ nếu rời bỏ quá sớm cảnh trầm lặng, gần như cái chết của ngôi nhà tang tóc để
lao vào cuộc đời náo nhiệt quá sớm. Tôi lần đầu biết đến buồn phiền, tuy nhiên
nó không khiến tôi hoảng hốt. Tôi chưa muốn rời bỏ những người thương yêu còn lại
trên đời; và trên hết tôi muốn Elizabeth dịu hiền được khuyến khích phần nào.
Nàng thực ra đã che
giấu nỗi khổ tâm, đã gánh lấy vai trò xoa dịu tất cả chúng tôi. Nàng bình tĩnh
xem xét cuộc sống phía trước, và can đảm cũng như hết sức nhiệt thành nhận lấy
những trách nhiệm trong đó. Nàng hết lòng hy sinh cho những người nàng đã quen
gọi là bác và các anh em họ. Chưa bao giờ nàng quyến rũ đến mức ấy khi nàng tìm
lại nụ cười rực rỡ của mình để tỏa xuống chúng tôi. Và trong lúc cố gắng làm
chúng tôi quên sầu muộn, nàng cũng đã bẵng quên luôn nỗi tiếc thương của chính
mình.
Cuối cùng ngày ra đi
của tôi đã tới. Clerval góp mặt cùng chúng tôi trong buổi tối cuối cùng tôi ở
nhà. Anh đã cố thuyết phục cha mình được đưa tôi tới trường và cùng nhập học
trường đó với tôi, nhưng vô ích. Cha anh là một thương nhân đầu óc hẹp hòi chỉ
thấy niềm khao khát và tham vọng của con trai mình chứa đựng những lười nhác và
hủy hoại. Henry cảm nhận sâu sắc nỗi bất hạnh của mình khi bị ngăn cản không
được theo đuổi các ngành khoa học xã hội. Anh không nói nhiều; tuy nhiên mỗi
lần anh nói, tôi đều đọc được trong đôi mắt lấp lánh cũng như tia nhìn rung
động của anh quyết tâm kìm nén nhưng sắt đá, không để mình bị ràng buộc vào
những điều tủn mủn thảm hại của nghề kinh doanh.
Chúng tôi thức rất
khuya, không sao đủ sức tách rời nhau, hay thuyết phục người kia nói câu “Vĩnh
biệt!”. Cuối cùng thì lời đó cũng được nói ra; và chúng tôi viện cớ nghỉ ngơi
mà rút về phòng, mỗi người đều cố tưởng rằng người kia bị thuyết phục; nhưng
sáng sớm hôm sau khi xuống tới cỗ xe sẽ đưa tôi ra đi, họ đều có mặt: cha tôi
lại ban phước cho tôi lần nữa, Clerval lại một lần nữa bắt tay tôi, Elizabeth
lặp lại yêu cầu tôi thường xuyên viết thư về, và bày tỏ lần cuối những chăm
chút rất phụ nữ đối với người bạn cùng chơi đùa thuở nhỏ.
Tôi quăng mình vào
chiếc xe đưa tôi đi xa, và cứ thế chìm vào nỗi buồn nhớ mênh mang. Luôn được
bao quanh bởi những người yêu dấu suốt từ xưa đến nay, lúc nào cũng chỉ một
lòng tìm cách đem lại cho nhau niềm vui, giờ đây tôi chỉ có một mình. Ở trường
đại học, nơi tôi đang đi tới đây, tôi sẽ phải tự tìm lấy những người bạn, tự
bảo hộ lấy mình. Đời tôi trước nay sống chủ yếu trong gia đình, xa lánh mọi
người, phải làm quen bạn mới khiến tôi ghê sợ không tả xiết. Tôi yêu các em
trai tôi, Elizabeth, Clerval; những “khuôn mặt thân thuộc cũ”[23], nhưng tôi
tin chắc mình hoàn toàn không thể phù hợp với người lạ được. Cảm xúc của tôi
khi mới lên đường là như vậy; nhưng lần lần tinh thần tôi khá lên, hy vọng nảy
sinh. Tôi nóng lòng khao khát thu thập kiến thức. Khi ở nhà, tôi đã nhiều lần
nghĩ tuổi trẻ của mình không thể bó buộc trong một xó, và đã mong mỏi nhập vào
thế giới, chiếm một chỗ đứng giữa những con người khác. Giờ đây khát vọng đang
được thực hiện, và thực tình, nếu còn tiếc nuối thì thật điên rồ.
[23] “Những khuôn mặt
thân thuộc cũ”: một bài thơ của Charles Lamb, The Old Familiar Faces (1798),
nói về sự mất mát của những người thân và bằng hữu quanh mình, với điệp khúc
lặp đi lặp lại: “Tất cả, tất cả đã xa rồi, những khuôn mặt thân thuộc cũ.”
Đường đi Ingolstadt khá
xa và mệt, có thừa thì giờ cho những suy nghĩ vẩn vơ như thế của tôi. Cuối cùng
tôi cũng trông thấy nóc nhà thờ trắng toát của thành phố. Tôi xuống xe, và được
đưa tới căn hộ độc thân, buổi chiều tự do muốn làm gì thì làm.
Sáng hôm sau tôi đem
thư giới thiệu đến gặp mấy vị giáo sư chủ chốt. Sự tình cờ, hay đúng hơn là thế
lực đen tối có tên vị Thần Hủy Hoại, đã bắt đầu thống lĩnh kể từ lúc tôi miễn
cưỡng rời chân khỏi ngưỡng cửa nhà cha tôi, dẫn tôi trước hết tới thầy Krempe, giáo
sư môn triết học tự nhiên. Đó là một người đàn ông thô lỗ, tuy nhiên đi khá sâu
vào những bí mật của môn khoa học mình theo đuổi. Ông hỏi tôi mấy câu về quá
trình nghiên cứu của tôi trong nhiều nhánh khác nhau của triết học tự nhiên.
Tôi trả lời một cách bất cẩn; và, có phần ghê tởm, nêu tên các nhà giả kim học
là những tác giả chính yếu tôi nghiên cứu. Ông giáo sư nhìn chằm chằm vào tôi:
“Anh thực mất thì giờ học những thứ lăng nhăng vậy sao?”
Tôi đáp vâng. Thầy
Krempe nồng nhiệt tiếp: “Mỗi giờ mỗi phút anh mất vào những quyển sách đó đều
là toi công cả. Anh chồng chất lên trí nhớ của mình những hệ thống đã bị đập
tan, những tên tuổi đã vô dụng. Trời ơi! Anh đã sống trong sa mạc hoang vu nào
vậy, không nhẽ không có người nào tử tế bảo cho anh biết những trò hoang tưởng
mà anh ngốn ngấu đó đã cũ rích đến hàng ngàn năm rồi, và đã mốc meo lên cả rồi
hay sao? Ở thời đại khoa học và khai sáng này tôi thật khó ngờ lại gặp được môn
đệ của Albertus Magnus và Paracelsus! Ngài thân mến ơi, ngài phải bắt đầu lại từ
đầu đi thôi!”
Nói xong ông bước sang
một bên, ghi cho tôi một danh sách dài các sách về triết học tự nhiên để tôi
tìm đọc; rồi cho tôi lui, sau khi lưu ý rằng đầu tuần sau ông bắt đầu giảng một
khóa học về những nguyên lý tổng quát của triết học tự nhiên, và rằng thầy
Waldman, bạn đồng nghiệp của ông sẽ xen kẽ những buổi ông không có giờ giảng để
lên lớp về hóa học.
Tôi trở về nhà, không
hề thất vọng, vì như tôi đã nói, từ lâu tôi đã coi mấy tác giả mà ông giáo sư
bài xích là vô dụng; nhưng tôi trở về mà không hề có ý định khơi lại những môn
học đó cho dù dưới hình thức nào chăng nữa. Ông Krempe người mập lùn, giọng cộc
cằn, mặt đầy ác ý, thế cho nên chẳng đưa lại cho tôi chút thiện cảm nào những
điều ông ta theo đuổi. Tôi đã kể cho anh, trong một cơn phấn hứng có lẽ hơi quá
triết lý và mạch lạc, những kết luận về chúng mà tôi đã rút ra từ nhiều năm
trước. Từ hồi nhỏ tôi đã không hài lòng với những kết quả mà các giáo sư hiện
đại của khoa học tự nhiên hứa hẹn. Đầu óc đầy những ý tưởng hỗn độn – chỉ có
thể đổ tội cho thực tế là tôi quá trẻ, và thiếu hướng dẫn đúng đắn về những vấn
đề đó – tôi đã đi ngược trở lại từng nấc kiến thức dọc theo những con đường xa
xưa, đánh đổi những khám phá của các nhà khảo cứu mới đây lấy giấc mơ của các
nhà giả kim đã từ lâu bị quên lãng. Hơn nữa tôi vốn rất khinh các ứng dụng của
triết học tự nhiên hiện đại. Khi các nhà khoa học bậc thầy đi tìm sự bất tử và
quyền lực, đó là một chuyện khác hẳn; quan niệm ấy tuy phù phiếm nhưng lại rất
vĩ đại; còn bây giờ, quang cảnh đã đổi khác. Tham vọng của nhà khảo cứu có vẻ
như chỉ hạn chế ở chỗ làm sao tiêu diệt chính những viễn tượng đã làm cơ sở cho
hứng thú khoa học của tôi. Người ta đòi hỏi tôi phải đánh đổi ảo tưởng lộng lẫy
đến vô bờ ấy lấy thứ thực tế chẳng có giá trị bao nhiêu.
Đó là những suy nghĩ
của tôi trong mấy ngày đầu ở Ingolstadt, thời gian này tôi chỉ dùng để thăm thú
trong vùng và làm quen với những người ngụ tại nơi ở mới của tôi. Sang tuần
tiếp theo, tôi nghĩ đến những điều thầy Krempe cho biết về các buổi lên lớp. Và
tuy không thể nào đến nghe cái gã lùn tì tự kiêu tự đại ấy giảng bài từ trên
bục giảng, tôi lại nhớ lời ông ta nói về thầy Waldman mà tôi chưa gặp, thầy này
không có mặt ở thành phố từ hôm tôi đến cho tới nay.
Phần vì tò mò, phần vì
chẳng có việc gì làm, tôi bước vào giảng đường, chỉ ít phút trước lúc thầy
Waldman tới. Vị giáo sư này này hoàn toàn khác hẳn đồng nghiệp của mình. Trông
thầy chừng năm mươi, phong thái biểu lộ sự nhân từ âu yếm nhất, tóc hai bên
thái dương đã đốm bạc nhưng phía sau hầu như còn đen nguyên. Vóc người thầy
thấp nhưng cực kỳ đĩnh đạc, và giọng thầy êm dịu chưa từng thấy. Thầy bắt đầu
bài giảng bằng cách tóm tắt lại lịch sử môn hóa học, những tiến bộ khác nhau
đạt được bởi nhiều nhà thông thái; nêu tên tuổi các nhà phát minh danh tiếng nhất
với một tình cảm nhiệt thành. Rồi thầy nhận định sơ qua về hiện trạng ngành hóa
học, giải thích nhiều thuật ngữ sơ đẳng của nó. Sau khi làm một vài thí nghiệm
mở đầu, thầy kết luận bằng một bài tán dương ngành hóa học hiện đại với những
lời lẽ tôi không bao giờ quên:
“Những bậc thầy cổ đại
của môn khoa học này hứa hẹn những điều không thể làm được, và không thực hiện
cái gì hết. Những chuyên gia hiện đại thì hứa rất ít, họ biết kim loại không
chuyển hóa được, còn nước trường sinh chỉ là thứ hão huyền. Nhưng các triết gia
này, với bàn tay hầu như chỉ quen vầy vò đất bẩn, mắt chỉ quen soi kính hiển vi
hay nhòm vào lò nấu kim loại, chính họ đã thực hiện được những phép thần. Họ
sục vào nơi sâu kín nhấtự nhiên và cho ta biết tự nhiên làm việc ra sao trong chốn
náu mình của nàng. Họ lên tới tận trời xanh: họ phát hiện ra máu tuần hoàn như
thế nào, và bản chất không khí ta thở ra sao. Họ đã đạt được những quyền lực
không những mới mẻ mà hầu như vô tận, sai khiến được cả sấm sét của trời, bắt
chước được cả chấn động của đất, thậm chí đùa cợt cả thế giới vô hình với chính
những cái bóng của nó.”
Những lời của vị giáo
sư là vậy – đúng hơn, xin để tôi nói rằng đó là những lời của số mệnh, được cất
lên để hủy hoại đời tôi. Trong khi thầy tiếp tục, tôi cảm giác như linh hồn tôi
đang vật lộn với một kẻ thù hữu hình hữu thể, những cung đàn hợp thành cơ chế
của con người tôi được bấm lên từng phím một: các dây đàn lần lượt vang lên, và
chẳng bao lâu tâm trí tôi tràn đầy một suy nghĩ, một ý niệm, một mục đích duy
nhất. Đã bao nhiêu thành tựu được hoàn thành – linh hồn của Frankenstein kêu
lên – ta sẽ còn làm được nhiều hơn nữa: lần theo từng bước chân đã vạch đường,
ta sẽ tiên phong một con đường mới, sẽ khám phá những quyền lực chưa từng biết,
mở ra cho thế giới biết bí mật sâu kín nhất của sự sáng tạo.
Suốt đêm đó tôi không
chợp mắt. Nội tâm tôi rơi vào tình trạng náo động và nổi loạn; tôi cảm thấy rồi
trật tự sẽ trở về, nhưng không đủ sức mạnh để tự mình lập lại nó. Dần dà, khi
bình minh tới, tôi mới thiếp đi. Tỉnh dậy, những ý tưởng của tôi đêm qua như
một giấc mơ. Chỉ còn lại một quyết định duy nhất là quay lại những nghiên cứu
trước đây của mình, toàn lực hiến thân cho môn khoa học mà tôi tin mình có tài
năng bẩm sinh. Cùng ngày tôi tới thăm thầy Waldman. Ở tư gia thầy còn mềm mỏng
và hấp dẫn hơn trước đám đông nhiều; bởi khi lên lớp phong cách thầy có phần
trang trọng, ở nhà cái đó đã thay bằng thái độ thân thiện và tử tế vô hạn. Tôi
kể thầy nghe về việc học tập nghiên cứu trước đây của mình hệt như đã kể với vị
giáo sư kia. Thầy lắng nghe bài trình bày nho nhỏ về chuyện học hành của tôi,
đến tên Cornelius Agrippa và Paracelsus thì mỉm cười, nhưng không có vẻ khinh
rẻ như thầy Krempe. Thầy bảo rằng: “Đó là những người có lòng nhiệt tình không
mệt mỏi mà các triết gia hiện đại phải chịu ơn về phần lớn những căn bản kiến
thức như bây giờ. Họ để lại cho chúng ta một nhiệm vụ dễ dàng hơn rất nhiều,
đặt các tên mới, sắp xếp và phân loại rành mạch những thông tin mà phần lớn nhờ
họ đã được đem ra ánh sáng. Công sức của những thiên tài, cho dù nhằm vào những
mục tiêu lệch lạc đến mức nào đi nữa, hiếm khi không cống hiến chút gì cho tiến
bộ vững chắc của toàn nhân loại.” Tôi lắng nghe lời khẳng định của thầy, không
hề kiêu căng, không hề giả tạo, rồi thưa với thầy rằng bài giảng của thầy đã
đánh tan định kiến của tôi đối với các nhà hóa học hiện đại; tôi lựa chọn ngôn
từ thật cân nhắc, thật khiêm tốn, nhún nhường, thích hợp với một người non nớt
đang thưa với thầy dù không để lộ ra (có lẽ sự thiếu từng trải khiến tôi ngượng
nghịu) lòng hăm hở đã khiến tôi muốn dốc sức lao vào công việc. Tôi cũng xin
thầy cho ý kiến về những sách cần tìm đọc.
Thầy bảo: “Tôi rất sung
sướng có được một học trò; và nếu lòng chuyên cần của anh cũng cao như năng lực
của anh, tôi tin anh dễ thành công. Hóa học là ngành triết học tự nhiên đã và
sẽ có những tiến bộ to lớn nhất; chính vì vậy mà tôi lựa chọn nó làm chuyên môn
của mình, nhưng dù thế tôi cũng không sao lãng các ngành khác. Người ta sẽ là
nhà hóa học rất tồi nếu chỉ chú trọng mỗi mảng đó trong kiến thức rộng lớn của
nhân loại. Nếu anh mong muốn trở thành nhà khoa học thực sự chứ không phải
người làm thực nghiệm xoàng xĩnh, tôi khuyên anh hãy theo tất cả các ngành
trong triết học tự nhiên, kể cả toán học.”
Thầy đưa tôi vào phòng
thí nghiệm của mình, giải thích cách sử dụng những máy móc lạ lùng trong đó,
dạy tôi phải kiếm được cái nào, hứa cho tôi sử dụng máy móc của thầy khi tôi đã
tiến đủ xa trong việc học hành để khỏi làm hỏng chúng. Thầy cũng đưa tôi danh
sách cần đọc như tôi yêu cầu; và tôi cáo lui.
Thế là kết thúc cái
ngày đáng ghi nhớ đã quyết định vận mệnh tương lai của tôi.