Cô Gái Thứ Ba - Chương 04

Chương 4

Hercule Poirot đi trong con đường chính của
Long Basing, nếu người ta có thể gọi đó là con đường duy nhất trong thị trấn
này. Long Basing là một trong các làng có đặc điểm chỉ kéo theo chiều dài,
không nghĩ tới việc phát triển theo chiều rộng. Người ta trông thấy tại nơi đó
một ngôi nhà thờ đồ sộ, với cái tháp chuông khổng lồ và gần đó là một cây thông
đỏ rất cao to trùm lên ngôi vườn - nghĩa trang. Hai bên phải và trái của con
dường, trải dài những cửa tiệm rất đa dạng, trong đó có hai nơi bán đồ cổ. Một
nơi dường như chỉ quan tâm tới những tấm chắn trước của cái lò sưởi bằng gỗ
chạm, còn cửa tiệm kia lại tỏ rất chú ý tới các loại bản đồ treo tường cũ, đồ
sứ (phần lớn đều đã mẻ), những tủ com-mốt cũ bằng gỗ sồi bị mọt đục, những tấm
kệ đầy những miếng thủy tinh và đồ bạc đã có từ thời nữ hoàng Victoria, tất cả
đều xếp không được gọn mắt vì thiếu chỗ. Còn có thêm hai tiệm cà phê, cả hai
rất thiếu chưng dọn, một tiệm bán những cái rổ và đầy những đồ làm bằng thủ
công, một văn phòng bưu điện nơi đó có bán những trái cây, một người bán vải,
đặc biệt tập trung vào những đồ may sẵn theo “mốt”, ở chính giữa là một cái
quầy thật bự trên đó chất đống những đôi giày trẻ em, trong lúc đó, ở tận góc
kia, có đủ các mặt hàng tạp hóa. Còn phải kể ra nữa một người bán nhật trình -
giấy viết, bán thêm cả thuốc lá và các thứ kẹo. Một cửa hàng đồ bằng len, có
lẽ, đó là bậc “khá giả” nhất của địa phương. Trong cửa hàng này, hai người phụ
nữ ăn mặc lịch sự tóc trắng, trông chừng những chồng hàng trên các kệ đầy những
lọn len đủ màu sắc và trên mặt quầy là những cái giỏ chứa đầy hình mẫu đan.
Người ta đã xếp ở cuối góc, một khoảng trống để chưng bày những sản phẩm đẹp đẽ
của nghệ thuật đan len. Đối với những mặt hàng về tạp hóa, chúng được chuyển
thành một “siêu thị” với các rổ bằng kim loại và các dãy dài đồ hộp có các bao
bì trông thật khêu gợi. Cuối cùng chiếm một chỗ riêng biệt là một tiệm nhỏ,
trình bày tại giữa tủ kính nổi lên với nét dáng nghệ thuật chữ “Lillah” - một
áo sơ-mi từ Pháp tới, kèm theo một cái nhãn hiệu xác nhận là “mốt mới nhất”. Áo
này nằm cạnh một cái váy màu xanh lam và một áo nịt len rực rỡ, tất cả đều được
sắp xếp một cách lộn xộn có dụng ý.

Poirot quan sát tất cả với cặp mắt thản
nhiên. Ông để ý một dãy dài những ngôi nhà hẹp nhỏ, kiểu cổ nằm giữa làng.
Trong đó một số còn giữ đường nét từ thời các ông vua George, còn phần đông đã
mang những biểu hiện thay đổi theo thời nữ hoàng Victoria, ví dụ một hàng hiên,
một cửa sổ nhô ra, một cái vườn nhỏ... Bộ mặt tiền của một hay hai cái nhà đó
đã được nâng cao thêm và dường như đã cho những chủ nhân của chúng cái quyền đòi
hỏi một sự kính nể về cách “hợp thời” của họ.

Poirot đi chầm chậm, ghi nhận lấy tất cả
những gì ông đã khám phá ra. Nếu bà bạn dữ dằn của ông là bà Oliver đã đi cùng,
bà sẽ hỏi vì sao ông lại bỏ phí thời giờ đi dạo như vậy, trong khi cái nhà mà
ông quan tâm đang nằm cách vài trăm thước ở rìa làng. Poirot sẽ trả lời với bà
ta rằng ông muốn nhận thức sâu sắc không khí xung quanh, một điều đôi khi có
nhiều điểm rất quan trọng.

Ra khỏi đô thị nhỏ này, sự chuyển tiếp thật
rõ rệt. Một bên, lùi vào phía sau con đường có vài ngôi nhà được quốc gia mới
dựng lên cách nay không lâu, trước mỗi nhà là một vườn cỏ, với các cánh cửa ra
vào sơn những màu nổi bật lên. Xa xa, đồng quê trải dài thật thanh bình, với
những ngọn đồi và các bức rào bằng gai và đây đó, một số những cái nhà mà những
người buôn bán bất động sản gọi là “những ngôi nhà đẹp của các chủ nhân” ngự
trị lên những cây và vườn hoa, thấm nhuần cái vẻ bí mật riêng của các bất động
sản tư nhân. Phía khá xa trước mặt ông, Poirot nhìn thấy một ngôi nhà mà tầng một
mới được làm thêm cách nay không lâu, tạo cho ngôi nhà cái dáng kiến trúc tròn
trĩnh lạ mắt. Đó chắc là nơi ông muốn tới. Nhà thám tử tới hàng rào mang bảng
chữ “Crosshedges” và mắt ông nhìn vào cái nhà có lẽ đã hiện diện từ đầu thế kỷ
tới nay.

Nó không đẹp cũng chẳng xấu - thật là bình
thường. Ngược lại, cái vườn làm thích mắt mọi người. Người ta đoán ra ngay từ
đầu, nó đã được chăm sóc khá kỹ và cẩn thận. Nó còn mang dấu những bãi cỏ được
cắt xén sắc sảo, một số khá lớn những bồn hoa, cây nho khéo sắp xếp. Một người
thạo nghề đã chăm sóc ngôi vườn này. Poirot nghĩ vậy và có lẽ, chính những vị
chủ nhân đã quan tâm đặc biệt tới nó vì ông vừa để ý tại một góc gần ngôi nhà,
một người phụ nữ nghiêng mình trên một bồn đất hẹp, dường như để buộc lại những
cây hoa thược dược. Đầu bà ta trông như một khối vàng sáng chói. Bà ta có vẻ
như cao lớn, thon thả, và đôi vai vuông vức.

Poirot đẩy cửa và bước tới.

Người đàn bà quay đầu lại, xong đứng thẳng
dậy, mắt ngắm nhìn người mới tới như dò xét. Bà ta không động đậy, giữ cái kéo
trong bàn tay:

- Ông cần gì?

Poirot chào bà ta bằng một cử chỉ lịch thiệp
và nghiêng người. Hai mắt của người phụ nữ dừng lại nơi hàng ria mép của người
dàn ông nhỏ con này, như bị thôi miên vậy.

- Bà Restarick?

- Phải. Tôi...

- Thưa bà, hy vọng là tôi không quấy rầy bà
chứ?

Một cái mỉm cười hiện lên đôi môi của bà chủ
nhà.

- Không có chi. Ông là...

- Tôi tự cho phép mình được tới thăm quý vị ở
đây. Một trong các bà bạn của tôi là quý bà Ariane Oliver...

- Ơ! Ông phải là ông Poiret không?

- Poirot. - Ông sửa lại, nhấn mạnh tới âm
chót. - Dạ, Hercule Poirot đến phục vụ quý bà. Tôi đi qua vùng và tự cho phép
mình được tới đây với niềm hy vọng là được trình bày lòng ngưỡng mộ tới quý ông
Sir Roderick Horsefield.

- Phải. Naomi Lorrimers đã báo trước chúng
tôi là ông có thể tới một cách bất ngờ.

- Tôi hy vọng điều đó không làm phiền quý bà?

- Không hề. Ariane Oliver đã có mặt ở nơi đây
vào cuối tuần trước. Bà ấy đi cùng với gia đình nhà Lorrimers. Sách của bà ấy
thật là trí tuệ phải không ông? Nhưng, tôi thật là quá ngốc nghếch! Ông cũng là
một thám tử cơ mà... một thám tử thực?

- Dạ, tôi là thực nhất trong loại thám tử. -
Hercule Poirot đáp.

Ông để ý thấy bà ta cố nén một nụ cười mỉm.
Trong lúc ngắm nhìn kỹ bà, ông để ý thấy bà quả thật là đẹp, nhưng đó là một
sắc đẹp nhân tạo. Mái tóc vàng của bà được bó sát nhau như chúng bị dồn ép vào
nhau. Ông tự hỏi, không biết bà ta sẵn có cái vẻ tự tin lớn lao như thế, hay là
bà đang đóng vai một bà quý tộc Anh đang chăm chú làm vườn? Ông cũng tự hỏi cái
dĩ vãng của người phụ nữ này đã là cái gì?

- Thưa bà, bà có một cái vườn rất là đẹp.

- Ông cũng ưa các khu vườn sao?

- Không bằng những người nước Anh. Trong quốc
gia này, các vị có năng khiếu đặc biệt đối với vấn đề vườn. Trong mắt các vị,
nó có một giá trị đặc biệt mà tại nước chúng tôi, chúng tôi không đánh giá tới
mức như vậy.

- Ông muốn ám chỉ đó là nước Pháp phải không?

- Tôi không phải là người Pháp mà là người
Bỉ.

- Ơ! Bây giờ tôi mới nhớ là bà Ariane Oliver
đã nói ông thuộc về cảnh sát Bỉ.

- Đúng vậy ạ! Tôi là một con cáo già thuộc
cảnh sát Bỉ mà. - Ông nở một nụ cười lịch sự và tiếp tục nói. - Những ngôi vườn
ở Anh... tôi thật cảm phục chúng. Những giống dân La tinh ưa thích những kiến
trúc đều đặn, những vườn Versailles thu nhỏ, và hơn thế nữa, tất nhiên, họ đã
sáng chế ra potager (vườn rau), đó là một điều rất quan trọng. Ở đâu cũng vậy,
các vị cũng có potager, nhưng chúng đã tới với các vị từ nước Pháp và các vị
không thích rau sống hơn là hoa. Đúng vậy không?

- Phải, tôi nghĩ là ông đã có lý. Nếu ông vui
lòng đi theo tôi. Tôi dẫn ông tới chỗ ông chú chúng tôi.

- Tôi tự cho phép mình đã làm phiền bà vì
lòng mong muốn tới chào quý ông Sir Roderick, nhưng tôi cũng xin bày tỏ lời
chào mừng của tôi tới quý bà nữa. Tôi luôn luôn bày tỏ lòng kính trọng tới sắc
đẹp mà mình có may mắn được gặp.

Ông nghiêng người.

Bà ta cười, hơi lúng túng.

- Ồ, thưa ông Poiroi, ông làm cho tôi đỏ mặt
vì ngượng đó.

- Tôi biết sơ qua ông chú của bà vào năm
1944.

- Ông ta thật tội nghiệp, đã quá nhiều tuổi
rồi. Bệnh điếc lại tăng thêm.

- Tôi lo là sau nhiều năm chắc ông đã quên
tôi. Hồi đó, có một vụ hoạt động gián điệp dính tới sự phát triển của một phát
minh mới. Chúng tôi được biết Sir Roderick qua phát minh đó. Tôi hy vọng là ông
vui lòng tiếp tôi.

- Tôi tin chắc như vậy. Cuộc sống hiện tại
của ông đã mất hết tầm quan trọng rồi. Tôi đã phải thường xuyên đi Luân Đôn...
Chúng tôi cần tìm cho được một căn nhà phù hợp với mình.

Bà thở dài và kết luận:

- Những người già đều tỏ ra khó sống chung
với họ.

- Tôi biết. Tôi đã gần giống như vậy.

Bà ta bật cười.

- Này, ông Poirot, ông không cho là mình đã
quá già chứ?

- Dù sao cũng đã có người nói với tôi điều đó
rồi. - Ông trả lời như vậy, thở dài. - Trong số đó, có những cô gái trẻ.

- Thật không tốt chút nào đối với họ. Nhưng
tôi biết cô con gái của chúng tôi cũng có thể có những nhận xét như vậy.

- Bà có con gái sao?

- Đó là con riêng của chồng tôi.

- Tôi rất vui mừng được gặp cô ấy.

- Tôi nghĩ không thể được vì nó hiện ở tại Luân
Đôn. Nó làm việc ở đó.

- Vào thời đại ngày nay, tất cả các cô gái
đều có nghề cả.

- Mỗi người chúng ta đều phải làm việc. - Bà
đáp lại với giọng buồn tẻ. - Ngay sau khi vừa làm đám cưới, một phụ nữ đã phải
quay về căn phòng hay bục giáo sư của mình rồi.

- Trường hợp của bà có như vậy không?

- Không. Tôi đã được nuôi dạy ở Nam Phi. Tôi
đã về đây với chồng tôi và nước Anh là một quốc gia... còn khó hiểu đối với
tôi.

Bà nhìn quanh mình bằng một cái nhìn mà
Poirot đánh giá là thiếu thiện cảm.

Họ đang ở trong một căn phòng bầy biện tốt
nhưng không có vẻ đặc sắc. Hai bức chân dung to lớn nhìn vào nhau: một người
đàn bà với đôi môi mỏng, bận cái áo buổi tối bằng nhung màu xám và một người
đàn ông khoảng ba mươi tuổi, với cái vẻ kiêm nghị uy nghiêm.

- Tôi nghĩ chắc cô con gái của bà đã buồn khi
phải về ở trong vùng quê như vậy.

- Đúng. Luân Đôn phù hợp với nó hơn. - Bà ta
ngưng lại và nói thêm một cách luyến tiếc. - Nó không yêu tôi.

- Không thể như thế được! - Poirot thốt lên
với một vẻ lịch sự đúng kiểu Pháp.

- Rất không may là như vậy đó. Tôi nghĩ quả
thật là khó cho một cô gái chịu chấp nhận bà mẹ ghẻ của mình.

- Cô con gái của bà có yêu mẹ cô ấy không?

- Tôi nghĩ là có. Nó có tánh nết khó chịu
nhưng tôi cho là các cô gái ngày nay đều như vậy.

Poirot thở dài.

- Các bậc cha mẹ đã có ít sự kiểm soát đối
với con cái hơn trước. Ngày xưa thì không như thế.

- Đúng vậy.

- Người ta do dự khi đề cập tới vấn đề này
nhưng tôi phải thú nhận là đã có ý kiến về cái tật thiếu sự xét đoán của họ
trong việc lựa chọn lấy một bạn trai.

- Norma là nguồn gốc nỗi đau buồn của cha nó,
trong vấn đề này, tôi nghĩ than phiền cũng chẳng ích lợi gì. Giới trẻ phải tự
họ rút tỉa ra được các bài học kinh nghiệm cho mình... Chú Roderick có phòng
trên lầu đó.

Bà ta hướng dẫn Poirot ra khỏi căn phòng, nơi
mà ông vừa nhìn lại một lần cuối. Buồn tẻ... không cá tính... ngoại trừ hai bức
chân dung. Theo kiểu cách cái áo của người phụ nữ, các bức chân dung ấy không
phải mới đây và nếu đó là bà Restarick thứ nhất thì ông không có cảm tình.

- Các chân dung này đẹp quá. - Ông nhận xét.

- Phải. Chúng do Lansberger vẽ đó.

Lansberger là một họa sĩ nổi tiếng và giá rất
mắc, hai mươi năm về trước. Nét vẽ tự nhiên chủ nghĩa của ông hiện nay đã quá
thời rồi và từ ngày ông chết đi, người ta đã không còn nhắc tới ông ta nữa. Các
bức họa của ông được gọi một cách khinh miệt là “thứ phẩm”, nhưng Poirot cho
rằng chúng có giá trị hơn. Ông nhận thấy nụ cười châm biếm cay độc của người
họa sĩ dưới những bức họa ấy.

Ông leo lên vài bậc thang chót của thang lầu,
cách xa ông có ít bước. Bà Restarick tuyên bố:

- Các bức họa ấy mới lấy từ nhà kho ra, phục
chế lại và... - Bà bỗng nhiên ngưng ngay lại và đứng sững, một bàn tay để trên
lan can cầu thang.

Một bóng đen vừa quẹo qua bậc cuối thang lầu,
đi xuống gặp họ... Một bóng đen khá kỳ dị, xem như bận đồ hóa trang không hợp
với không khí ngôi nhà.

Poirot đã quen với những nhân vật như vậy,
qua nhiều lần gặp họ trong những dịp ở trên đường phố Luân Đôn và ngay trong
các đêm dạ hội. Một mẫu người của giới thanh niên thời nay đó. Người ấy bận một
áo vét màu đen, một gi-lê bằng nhung kiểu cách dị hợm, một cái quần dài bằng da
thật chật và một mớ tóc màu hạt dẻ quăn rủ xuống hai bờ vai. Một vẻ ngoại lai
và gần như đẹp, mặc dù phải nhận rõ mặt người đó một lúc trước khi đoán được
giới tính của họ.

- David! - Bà Restarick nói giọng gay gắt. -
Cậu làm cái quỷ gì ở đây vậy?

Cậu thanh niên xem ra không bối rối chút nào.

- Tôi đã làm cho bà sợ phải không? Tôi rất
tiếc.

- Cậu đang làm gì... trong cái nhà này? Cậu
đã tới với Norma phải không?

- Norma? Không, tôi đang hy vọng tìm thấy cô
ta trong phòng ngủ của cô.

- Cậu đã biết quá rõ là cô ấy hiện đang ở Luân
Đôn rồi chứ?

- À không! Dù gì thì nàng cũng không có ở số
sáu mươi bảy Borodene Mansions.

- Vì sao như vậy?

- Dường như cô ta đã quay về đây vào ngày
nghỉ cuối tuần rồi. Tôi cứ tưởng hiện giờ cô đang ở tại đây. Tôi đã tới nơi để
xem có việc gì không?

- Cô ấy đã đi vào tối chủ nhật, như thường
lệ.

Bà Restarick nói thêm, giọng nói bực tức hẳn
lên:

- Vì sao cậu không bấm chuông cửa để báo cho
chúng tôi biết là cậu đã vào đây rồi? Vì sao cậu lại đi rình trong nhà như vậy?

- Thật vậy sao? Xem ra bà có vẻ nghi tôi sắp
ăn cắp các cái muỗng phải không? Vào trong nhà ban ngày ban mặt như vầy cũng là
một việc bình thường phải không?

- Chúng tôi sống kiểu khác và không thích cái
trò này.

- Ô là là! Thiên hạ hay kiếm chuyện quá! Thưa
bà thân mến, nếu tôi không phải là một người được chào đón, và nếu bà quả thực
không biết người con gái riêng của chồng bà đang ở đâu thì tốt hơn là tôi nên
rút lui cho được việc. Trước khi rời đi, liệu tôi có phải trình ra các túi của mình
không?

- David, đừng tỏ ra quá ngu ngốc nữa.

- Vậy thì xin chào!

Người thanh niên đi qua mặt họ, vẫy tay chào
và biến mất.

- Một tay thật kinh tởm! - Mary Restarick
nhận xét với một giọng nói chua cay gây cho Poirot nhiều ngạc nhiên. - Tôi
không chịu nổi hắn ta. Vì sao nước Anh lại phải chịu đựng những con người như
vậy?

- Thưa bà, xin bà đừng nổi giận. Đó chỉ là
một vấn đề thuộc “mốt” mà thôi, và điều này thì luôn luôn tồn tại. Ở nông thôn,
các vị không có nhiều dịp để gặp, nhưng ở Luân Đôn chúng ta thường phải đụng
với những người như vầy tới số trăm chứ không ít hơn đâu.

- Kinh tởm! Thật kinh tởm! Trông như phụ nữ...

- Và tuy nhiên khá giống với chân dung của
Van Dyck, bà có nhận thấy như vậy không? Đặt trong một khuôn hình mạ vàng, với
một vòng ren quấn quanh cổ, bà sẽ không thấy họ như con gái nữa đâu.

- Dám đến kiểu như vậy! Andrew chắc sẽ tức
giận lắm đây. Câu chuyện này sẽ làm ông ấy lo lắng nhiều hơn vì ông ấy không
hiểu hết Norma. Ông ta đã đi ra ngoại quốc trong khi cô ấy chỉ mới là một trẻ
em, để lại cho vợ ông ta trông coi. Cả tôi, tôi cũng không khỏi lo cho cô gái
này và không khỏi nhận thấy cô ấy kỳ lạ lắm. Tên David Baker này đã làm điên
đảo cô ấy và chúng tôi thật là đã hết phép rồi! Chúng tôi đã cấm tên này bước
vào nhà và ông xem đấy: hắn trình diện với một vẻ phớt đời không chê vào đâu
được. Tôi nghĩ không nên cho Andrew biết chút gì về việc này. Tôi hình dung là
Norma đã cặp kè với tên này ở Luân Đôn và có thể, với những tên khác, cũng
giống hệt vậy. Có những tên còn tệ hơn tên này nữa, chúng không tắm rửa bao
giờ, để râu dài lòng thòng và bận quần áo đầy cáu ghét.

Poirot nhận xét vui vẻ:

- Xin bà đừng thất vọng và xin nhớ cho rằng
các lỗi lầm của tuổi trẻ sẽ qua mau thôi.

- Tôi hy vọng là như thế. Nhiều khi, tôi có
cảm nghĩ là Norma đã có gì trục trặc về tâm thần. Nó có những giây phút đãng
trí hay bỗng nhiên ghét cay ghét đắng cái gì đó.

- Ghét cay ghét đắng?

- Nó căm ghét tôi. Không, không, tôi không
nói quá lời đâu! Tôi không hiểu tại sao lại như vậy, vì nếu nó có tôn thờ mẹ nó
thì nó cũng phải biết rằng điều tự nhiên là cha nó rồi sẽ phải đi bước nữa chứ!

- Bà có tin rằng cô ấy căm ghét bà không?

- Nó đã cung cấp cho tôi đầy đủ bằng chứng.
Tôi không thể nói với ông rằng tôi đã nhẹ mình bao nhiêu khi nó đã quyết định
tới Luân Đôn để làm việc. Tôi không muốn kiếm chuyện, nhưng...

Bà ấy ngưng bặt đi như vừa nhận thức ra là
mình đang tâm sự với một người khách nước ngoài.

- Trời ơi! Tôi thật không hiểu sao mình lại
nói với ông những câu chuyện như vậy? Tôi cho rằng mỗi gia đình đều có những
nỗi buồn tương tự như vậy. Các bà mẹ ghẻ đáng thương hại, chúng tôi đã bị đối
xử thật là tệ. Đây, chúng ta đã đến nơi rồi.

Bà ta gõ vào cánh cửa.

- Vào đi! Vào đi! - Vang lên một tiếng nói to
như lệnh vỡ.

- Thưa chú, chú có khách tới thăm ạ!

Một ông lão, to con và lớn mặt, hai gò má đỏ
và có vẻ cáu giận, đang đi qua đi lại. Ông bước tới những người khách, với đôi
chân khập khiễng. Ngồi về phía sau một chiếc bàn, một cô gái đang thu xếp các
thư và giấy tờ, nghiêng lên đó mái tóc nâu và được vuốt thẳng.

- Thưa chú Roddy, cháu xin giới thiệu đây là
ông Hercule Poirot.

Poirot bước tới và lên tiếng nói thật tự
nhiên:

- Sir Roderick! Tôi đã hân hạnh được gặp quý
ông từ bao nhiêu năm nay rồi! Trong cuộc chiến tranh vừa qua. Ở Normandie với
đại tá Race và tướng Abereromby... và cả với ông tướng Sir Edmund Collinsby
nữa. Kỷ luật tuyệt mật của sở an ninh hồi đó! Ngày nay, chắc không cần phải giữ
mồm giữ miệng nữa rồi! Tôi nhớ tới cái tên nhân viên bí mật đó đã làm khổ các
ông biết bao nhiêu... Thưa ông, ông còn nhớ tới cái viên đại úy Henderson đó
không?

- Viên đại úy Henderson? Tôi nhớ quá
chứ! Con heo chết giẫm đó! Chúng tôi dù sao cũng đã lột được mặt nạ hắn!

- Có thể là ông không còn nhớ ra tôi nữa phải
không?

- Có, có, tôi đã nhớ ông rất rõ mà. Chúng ta
cùng thoát nạn với nhau. Ông là người đại diện cho phía Pháp, phải không? Hồi
đó đã có một hay hai... tôi không chịu nổi một trong hai người đó... Tôi không
còn nhớ tên anh ta. Nào, ngồi xuống đi, ngồi xuống đi. Không gì tốt hơn là cùng
nhau nhắc lại những ngày tốt đẹp đã qua.

- Tôi đã thật lo ngại rằng quý ông không còn
nhớ đến tôi hay bạn đồng nghiệp là ông Giraud.

- Có, có, tôi nhớ lại rõ lắm.

Cô gái đứng dậy và đẩy thật lễ phép một cái
ghế tới chỗ Poirot.

- Tốt lắm, Sonia ạ, tốt lắm. - Sir Roderick
tỏ vẻ tán thành, ông quay mình lại phía nhà thám tử. - Cho phép tôi giới thiệu
với quý ông, đây là cô thư ký rất đáng mến của tôi. Điều này thay đổi tôi rất
nhiều. Cô ấy giúp đỡ, cô ấy sắp xếp các công việc làm của tôi. Tôi tự hỏi,
trước khi có cô ấy, không rõ tôi đã xoay xở ra làm sao?

Đáp lại lời chào rất duyên dáng của Poirot,
cô gái thì thầm vài tiếng. Đó là một cô gái nhỏ con, tóc cắt như kiểu bà Jeanne
d’Arc và xem ra hơi nhút nhát. Đôi mắt cô màu xanh sậm, thường hay cúi xuống
nhưng đã mỉm cười rất dễ thương với ông chủ mình.

Ông ta vỗ nhẹ bàn tay vào lưng cô.

- Tôi thật sự không biết mình sẽ ra sao nếu
không có cô.

- Dạ, tôi đâu có làm được gì nhiều! Tôi còn
đánh máy rất xoàng.

- Thế là đủ với tôi rồi, cô thân mến ạ! Cô
còn là trí nhớ, đôi mắt, đôi lỗ tai của tôi nữa...

Cô cười với ông lão.

- Tôi còn nhớ trong óc mình, Poirot xen vào
nói, một số câu chuyện lý thú mà tôi được nghe kể hồi đó, và cụ thể về một câu
chuyện có dính dáng tới quý ông, cái ngày ngưới ta đã đánh cắp cái xe hơi của
quý ông.

Nhà thám tử thuật lại câu chuyện. Nó làm nức
lòng người nghe.

- À! À! Đúng là vậy! Hơi khuếch đại nhưng
đúng. Phải, phải, tôi không nghĩ rằng sau bao nhiêu năm, ông còn nhớ được tới
như vậy. Nhưng, tôi có thể kể lại với ông một câu chuyện còn hay hơn vậy nữa.

Tới phiên mình, ông lão lao vào câu chuyện.

Poirot lắng nghe và vỗ tay. Cuối cùng, ông
liếc nhìn vào đồng hồ của mình và đứng dậy.

- Tôi không dám làm phiền quý ông lâu hơn
nữa. Tôi thấy rõ là quý ông đang bận vào những câu chuyện quan trọng hơn. Nhân
đi qua đây, tôi không thể tự kềm mình tới đây trình bày với quý ông lời cảm
phục của mình. Năm tháng trôi qua, nhưng tôi nhận thấy quý ông không chút thay
đổi nào trong sức mạnh và nhiệt huyết của mình cả.

- Có thể. Tuy nhiên, xin đừng quá khen tôi
như vậy. Ông ở lại dùng một chén trà? Tôi tin chắc là Mary đã chuẩn bị cho ông
rồi.

Ông nhìn quanh mình.

- Ồ! Cô ấy đã đi đâu rồi! Một cô gái thật dễ
mến làm sao...

- Rõ ràng là vậy. Và còn rất đẹp nữa. Tôi
hình dung rằng, từ nhiều năm nay, cô ấy đã là một niềm an ủi lớn đối với quý
ông phải không?

- Họ mới lấy nhau đây thôi. Cô ấy là người vợ
kế của người cháu trai tôi. Tôi nói thành thật với ông là tôi chưa bao giờ yêu
Andrew nhiều. Cái cậu ấy, sống không nề nếp chút nào cả. Tôi thích người anh cả
của cậu ấy hơn. Không phải vì tôi đã biết cậu ấy nhiều hơn đâu... Nhưng Andrew
đã cư xử với người vợ đầu không được tốt lắm. Cậu ấy đã bỏ cô ta để chạy theo
một cô gái mà cậu ta si mê. Mối tình chỉ kéo dài được vài tháng mà thôi... Thằng
ngốc! Còn cô mà cậu ấy vừa lấy đây xem ra tốt, tuyệt nữa là khác. Về Simon, cậu
ấy là một con người ổn định nhưng lại buồn chán. Tôi đã không hài lòng khi bà
chị của tôi nhập vào gia đình này. Đó là những ông thương gia lớn, dĩ nhiên là
rất giàu, nhưng đồng tiền đâu phải là tất cả. Do truyền thống, cả gia đình tôi
đều thiên về quân đội. Tôi đã không bao giờ gần gũi với dòng họ Restarick.

- Tôi thấy hình như là họ có một cô con gái
thì phải. Một trong các bà bạn tôi đã gặp cô ấy vào tuần cuối.

- Norma. Một con bé ngu ngốc. Nó bận quần áo
trông thật kinh người và đi yêu một tên ghê tởm. Ngày nay, bọn trẻ chúng đều
giống nhau như lột, với mái tóc dài thượt của chúng, những tên Beatnick, những
tên Beatles, đủ các loại tên gọi. Chúng nói lên những thứ tiếng, trên thực tế
khác hẳn tiếng nói của chúng ta. Tuy nhiên, ai mà để ý tới lời phê bình của một
người già lão cơ chứ? Mary, ngay cô ấy cũng... Tôi luôn luôn cho rằng cô ấy là
mẫu mực của một người vợ đảm người Anh. Nhưng, cả cô ấy, tôi nghĩ rằng cô ấy
cũng bị rối loạn, về phương diện sức khỏe ấy, tôi muốn nói vậy. Những câu
chuyện liên quan tới vụ nằm ở bệnh viện để xét nghiệm, hoặc đôi điều đại loại
như vậy. Ông uống một ly nhé? Uýt-ky? Không à? Ông có muốn uống một tách trà
trước khi từ giã chúng tôi không?

- Cám ơn, nhưng tôi đang có những người bạn
đang đợi tôi.

- Vậy, tôi phải nói là mình rất hài lòng được
hầu chuyện với ông. Nói lại những chuyện đã qua mới vui làm sao! Sonia, xin cô
bé làm ơn dẫn ông đây đi nhé... Xin lỗi, tôi đã quên mất tên ông rồi... À! Đúng
rồi. Poirot. Cô làm ơn dẫn ông đây tới chỗ bà Mary nhé!

Poirot lật đật từ chối.

- Không, không. Tôi không muốn quấy rầy quý
bà Restarick dưới bất cứ lý do nào nữa. Tôi dễ dàng kiếm ra được đường về mà.
Tôi thật rất vui mừng là đã được gặp lại quý ông.

Ông rời căn phòng.

- Tôi hoàn toàn không biết cái ông này là ai
cả. - Sir Roderick nhận xét, sau khi Poirot đã đi khỏi.

- Ông không biết ông ta là ai ư? - Sonia tròn
đôi mắt hỏi.

- Tôi không biết tới một nửa con số những
người đã tới thăm tôi trong thời kỳ này. Tất nhiên là tôi đã thực hiện bổn phận
mình một cách đầy đủ. Tôi phải học tập cách giữ bộ mặt của mình chứ? Đối với
các cuộc hội nghị cũng như vậy. Có một kẻ tới gặp tôi, hỏi: “Có lẽ, ông đã nhớ
tới tôi rồi chứ? Tôi đã gặp ông lần chót vào năm 1939.” Tôi phải trả lời: “Ồ,
có tôi nhớ chứ.” Thực ra thì không nhớ một chút nào cả. Bị gần như điếc và mù
là một tai vạ rất lớn. Vào thời cuối của chiến tranh, chúng tôi đã liên hệ
nhiều với những người Pháp như cái ông này. Tôi đã quên họ hết cả rồi. Với cái
ông này, cũng vậy mà thôi. Ông ấy đã biết tôi và về phần tôi, tôi chỉ nhớ lại
được khá nhiều các tên người mà ông ta đã nói tới. Câu chuyện cái xe hơi của
tôi bị mất cắp là có thật tuy nó đã bị thổi phồng lên khá nhiều. Vào thời kỳ
đó, nó là một trong các câu chuyện tiếu lâm. Nói cho cùng... Tôi hy vọng ông ấy
không để ý tới sự việc tôi đã quên mất nhiều rồi. Ông ấy một con người thông
minh, rất đặc trưng cho người Pháp, cô có nghĩ vậy không? Cái tư thế đĩnh đạc,
các cử chỉ lễ phép quá mức đó... Nào, chúng ta đã tới đâu rồi?

Cô gái trẻ cầm lên một bức thư, đưa cho ông
lão cùng với cặp mắt kính. Nhưng ông ta đẩy lui cặp mắt kính thật nhiệt liệt.

- Tôi không muốn các thiết bị mắc dịch này!
Không có chúng, tôi cũng đã nhìn thấy rất rõ rồi.

Ông lão nheo hai mắt, nghiêng người trên tấm
giấy, nhưng phải đầu hàng ngay.

- Cầm lấy này. Tốt nhất là cô tự tìm hiểu nó.

Cô gái bắt đầu đọc văn bản với cái giọng
trong treo và dịu dàng của mình.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3