Phần Hồn - Chương 14 - Phần 1
14.
Cuối cùng, gia đình ông
Hai Rỡ cũng được đoàn tụ. Cái giá thời gian từ hợp tan, đến tan hợp là bảy năm.
Trang sử bắt đầu từ khi
khu trại bò một thời gian thịnh vượng, trở nên tiêu điều suy sụp. Nửa vườn cây
ăn trái quanh năm xanh tươi, mùa nào trái nấy bị chặt phá để đào hồ nuôi cá trê
phi, sâu gần hai mét đất, do lòng hồ là đất pha cát, lại ở vùng cao, nước có
bao nhiêu ngấm hết bấy nhiêu, nên ngay trong mùa mưa cũng phải bơm thường xuyên
mới đủ nước cho cá sống. Nước giếng thiếu ô xi, không có vi khuẩn tự nhiên, cá
không những chậm lớn mà còn sinh bệnh. Sang mùa khô, đến giếng cũng cạn, làm
sao hồ có nước. Nhà định hướng kinh tế Hai Vương và nhà thực hành kinh tế Năm
Thiên trường kì giữ
vững lập trường “đúng đắn và sáng suốt” đến năm thứ ba, bao nhiêu vốn liếng đầu
tư mất sạch, lại còn mang nợ ngân hàng, tính ra gần chục lượng vàng, đành chịu
bỏ cuộc, đổ lỗi tại đế quốc Mỹ ném bom rải chất độc màu da cam triệt hạ rừng ở
Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai khiến mùa khô kéo dài, không có nước nuôi cá. Di
tích thất bại để lại giờ là cái hồ lớn, diện tích gần sáu trăm mét vuông, quanh
năm khô cạn, không có cách nào hàn lấp, và chỉ sau một mùa mưa, từ lòng hồ, cây
hoang dại đủ mọi loại mọc kín, làm chỗ ẩn náu cho muôn loài giun dế, mồng muỗi,
cóc nhái, rắn rết. Đêm đêm, nhất là vào mùa mưa, từ đáy hồ, tiếng kêu, tiếng
gáy của các loài côn trùng, cóc nhái thi nhau inh ả, nghe thê lương, thảm thiết
như lời ai oán của đất đai đang đau đớn.
Vụ quyết định bán hết đàn
bò lấy vốn chuyển sang nuôi heo và cá trê phi, sau khi bị thằng Út phản kháng
bằng bạo lực đã được Hai Vương điều chỉnh lại, chỉ bán hai mươi lăm trong đàn
bò bốn chục con, nhưng ông Hai Rỡ cũng quỵ hẳn. Mọi thuốc thang chữa chạy cũng
không cứu ông khỏi cảnh bán thân bất toại do xuất huyết mạch máu não, chỉ còn
sống như một vong hồn. Người duy nhất tối ngày chăm sóc ông là thằng Khùng,
cũng là một vong hồn khác vì ngôi nhà gỗ giờ đây chỉ còn một mình nó đi lại.
Chuồng bò, ngoài thằng Út giơ vai gánh vác, có thêm Sáu Là, vong hồn thứ ba,
quanh năm suốt tháng không một lần mở miệng.
Giữa lúc đó, Năm Thiên
lấy vợ. Hai Thoàn, một cô gái lẳng lơ, nhân viên văn thư ở ủy ban phường. Đàn
heo hơn hai chục con do Thoàn và lũ em bên nhà sang chăm sóc. Đàn heo tan trễ
hơn đàn cá một năm. Nguyên nhân thất bại thật đơn giản. Gốc nhà Hai Thoàn là
dân chuyên trồng hoa cảnh. Những năm đầu giải phóng, nghề trồng hoa và cây
cảnh, cũng như nhiều nghề mà lợi ích của nó không phục vụ trực tiếp cho miếng
cơm, manh áo, đều bị coi là xa lạ, thứ yếu, không phải trọng điểm kinh tế chiến
lược, chưa thiết thực với đời sống xã hội, đều bị chựng lại, dân trồng hoa cảnh
đua nhau bỏ nghề. Chị em Hai Thoàn là phần nhỏ số dân bỏ nghề hăng hái có mặt
trong chương trình kinh tế chiến lược của Hai Vương và Năm Thiên. Nhưng heo rõ
ràng không phải là hoa nên sau bốn năm liền cụt vốn, nợ mang, các nhà kinh tế
buộc phải ngậm ngùi cho đàn heo theo chân đàn cá. Hai dãy chuồng bò bị biến
thành chuồng heo, giờ đây hoang tàn không khác gì di tích của một vùng bị chiến
tranh tàn phá. Mái lá tanh banh tiêu điều, cột kèo mối xông sụp đổ nghiêng ngả,
nền xi măng rạn vỡ, cỏ hoang, cây dại mọc tùm lum từ những kẽ nứt ngấm phân tốt
tươi chưa từng thấy.
Đổi mới duy nhất của trại
bò thời kỳ khủng hoảng và suy thoái này là Năm Thiên sau khi lấy vợ đã lên luôn
ngôi nhà đúc hai tầng gần nhà Ba Bá, thành ngôi nhà đúc thứ ba của khu trại. Và
nhờ vậy, tuy cá đi đằng cá, heo đi đằng heo, vẫn còn có ngôi nhà ở lại vừa như
một thắng lợi tinh thần, vừa là biểu tượng thăng tiến mới của chủ nhân. Nguyên
do từ chính sách kinh tế “bung ra” nhằm cứu vãn sự suy sụp của nến kinh tế quan
liêu bao cấp lỗi thời của Nhà nước, các cán bộ chính trị, chính quyền, công an,
quân đội... đua nhau nhảy sang đứng đầu các đơn vị kinh tế. Năm Thiên từ chủ
tịch phường qua làm giám đốc Công ty Dịch vụ Xuất nhập khẩu Tổng hợp Quận với
số vốn đầu tư của ngân hàng với vài trăm triệu. Việc đầu tiên gã làm được từ số
vốn đó chính là ngôi nhà đúc kiểu mới. Đời gã cứ thế lên hương. Xe hơi xịn sáng
chiều đưa đón tận nhà. Các cuộc giao tiếp làm ăn lu bù, nay Sài Gòn, mai Đà
Lạt, mốt Vũng Tàu, Hà Nội. Đồ đạc tiện nghi trong nhà toàn thứ sang trọng, đời
mới. Gã đưa cả vợ và lũ em bên vợ vào hết công ty, nắm các khâu chủ chốt. Trong
khi món nợ heo, cá hàng núi, hắn lờ đi như không hề có trên đời.
Hai Vương thì mấy tháng
không về nhà một lần. Gã luôn có lý do công tác bận rộn, thực chất là cao chạy
xa bay. Gã đã ngán và không còn tự tin trước công việc ở nhà nên thực hiện
phương châm sống chết mặc bay. Địa vị công tác ngày càng cao cho gã những hăng
say, lòng tự đắc cũng như sự thụ hưởng cao hơn, nhiều hơn gấp bội lần nhìn về
xó chuồng bò tưởng đơn giản hóa lắm rắc rối, mà nhiều lúc nhìn lại thất bại, gã
rùng mình chỉ vì một lúc cao hứng dám vạch ra đường lối cho những công việc
mình không hề hiểu biết gì.
Trước tình thế đó, một
tay thằng Út lầm lũi nuôi và vực đàn bò từ mười lăm con may mắn sót lại lên dần
thành hai mươi ba con rồi ba chục con.
Nó lẳng lặng, lầm lì làm
quần quật không lúc nào ngơi nghỉ. Đó là những ngày tháng tự do nhất của nó.
Cha nó không còn khả năng can thiệp vào bất cứ việc gì trong nhà. Ông đã thành
người thân tàn ma dại, gượng sống kéo níu nốt đoạn cuối đời. Khả năng di chuyển
duy nhất của ông trông nhờ vào đôi nạng gỗ. Tóc râu ông bạc trắng, lưng còng
gập. Mặt mũi bơ phờ. Nhăn nhúm. Đôi mắt sâu quầng, bạc nhược thấm đậm nỗi đau
xót sám hối hơn sự u buồn. Nhiều lúc đôi mắt ấy chăm chăm hàng giờ theo bóng
thằng Út lom khom cặm cụi trong chuồng bò.
Út làm việc với niềm say
mê và sức dẻo dai kì
lạ. Nó không kêu ca phàn nàn. Cũng không đòi hỏi bất cứ sự trợ giúp nào. Tiền
sữa thu về thực ra không lớn. Lợi nhuận chủ yếu ở tiền bán bê. Đàn bò do Út
chăm, con nào con nấy béo tốt. Nó dám liều tung tiền đầu tư giống mới nhập từ
Hà Lan, một giống bò to thô, dáng rất xấu khiến dân trong vùng nghi ngờ lời
tuyên truyền của mấy ông “Nhà nước”. Từ ấn tượng xấu về sự tắc trách và kém
chất lượng của người và sản phẩm “quốc doanh”, chưa mấy ai dám vội tin vào
thiện chí của Nhà nước khi nhập giống bò mới, thì thằng Út dám tin. Và nó thắng
đậm. Bò thuần giống và bò lai của nó thật mắn đẻ và mỗi con cho mỗi ngày tới
ngót ba chục lít sữa. Bê con nuôi chưa đủ tháng tuổi đã được người mua tranh
nhau đăng ký. Trời lại cũng phù hộ nó làm sao mà tới trăm phần trăm bê con là
bê cái. Chỉ sau ba năm, Út trả sạch các món nợ Hai Vương và Năm Thiên bỏ lại.
Khi Bảy Thiện bị thương
rồi ngã bệnh bởi sốt rét, sau thời gian nằm quân y viện, được giải ngũ trở về
nhà, Ba Bá cũng được ra khỏi trại cải tạo.
Có trời biết tại sao tội
vượt biên lại bị giam lâu như thế. Và lẽ ra gã còn bị giam lâu hơn...
Trong một ngày giỗ vợ,
ông Hai Rỡ đã khóc với Vương và Thiên:
- Tao không đến nỗi ngu
mà không biết vượt biên là tội đáng bỏ tù. Nhưng những thằng vượt biên thoát ra
được nước ngoài mấy năm sau trở về lại được chính quyền đón tiếp nồng hậu, được
gọi là Việt kiều yêu nước, là sao? Căn cứ vào lẽ đó thì thằng Ba ngồi tù tới
sáu năm vì chưa kịp thành anh Việt kiều yêu nước là điều oan trái. Song không
oan trái, thì sáu năm cũng quá dài với một tội như thế, một tội do chính chúng
mày gây ra. Nếu chúng mày không giết bò, không bắt thằng Ba giao đàn bò lại cho
thằng Năm, sau đó, chúng mày đã làm gì với đàn bò, chúng mày tự biết, thì thằng
Ba không uất ức bỏ đi. Bây giờ, tao đã đến lúc gần đất xa trời, không còn điều
gì phải sợ hãi, ham muốn, tao mong trước khi chết được nhìn thấy đủ mặt các
con. Tao muốn chúng mày đứng ra bảo lãnh cho thằng Ba về. Và đó là cách duy
nhất để anh em sau này còn nhìn được mặt nhau.
Hai Vương và Năm Thiên
sực tỉnh trước cơ hội cả hai đều nhận ra, nếu không có sự bảo lãnh thì cũng sẽ
đến ngày Ba Bá trở về và gã sẽ chẳng bao giờ quên nguyên nhân dẫn đến sự phá
sản của gia đình, cũng như con đường dẫn tới cuộc ra đi vào vòng tù tội của gã.
Cả hai cũng đều đã nhận ra những ngày tháng dùng uy tín bừng bừng của người cầm
quyền để hóa giải theo lối áp đặt mọi chuyện tình cảm, luân lý, luật pháp đã
qua, bắt đầu chuyển sang giai đoạn những con người, những công dân điềm tĩnh
trong mọi phạm trù quan hệ mà con người với con người rút cục chỉ là những cá
nhân với nhau. Những cơ thể bệnh hoạn dù có khoác lên mình tấm áo nào, cũng đến
lúc tự mình ngửi thấy mùi thối rữa từ mình. Chính Vương và Thiên vào những lúc
tâm tĩnh, đối diện với mình không khỏi gai ớn khi thấy rõ mình tài vốn hèn, đức
vốn mọn lại có bao năm ngồi chễm chệ trên các ghế phụ mẫu của dân, rồi chúng
bỗng sợ hãi khi bất chợt nhận ra mình đang trên bờ vực thẳm của lòng căm ghét
và phẫn nộ. Chúng bỗng muốn làm một việc gì đó tử tế để mong hạ thấp hoặc san
bằng bờ vực kia, phòng lúc sơ sẩy. Bởi thế, sau khi nghe cha nói, xét thấy là
việc có thể làm được mà không bị liên quan đến chỗ đứng chính trị, Hai Vương và
Năm Thiên đã cùng nhau ký đơn cho Ba Bá về. Một năm sau, khi những lá đơn bảo
lãnh chu du khắp loại bàn giấy của các sếp đủ mọi cấp trên, cấp dưới, ngành
ngang, ngành dọc, Ba Bá được chính Hai Vương và Năm Thiên đánh xe hơi xuống tận
trại cải tạo ở Bến Tre đón về. Thế là oán chuyển thành ơn.
Bảy năm ở trại cải tạo,
da Ba Bá hơi tái, người và mặt phù mập, vẻ nhu lành, duy hai con mắt lì và lạnh
khác thường.
Sáu Là nhìn gã chảy nước
mắt nhưng không dám lại gần.
Gã không vào ngôi nhà gỗ
thăm cha mà vào thẳng chuồng bò, ngắm kĩ từng con. So với thời gã, đàn bò được thay bằng
giống tốt hẳn. Mọi chuyện ở nhà, gã biết hết qua thư của vợ. Điều thằng Út chưa
làm được là phục hồi mấy dãy chuồng bò đổ nát từ hồi nuôi heo. Có được bao
nhiêu tiền Út đều dành cho việc trả nợ, và hơn nữa, một mình nó không sao kham
nổi nhiều việc lớn cùng một lúc.
Ba Bá hoàn toàn thông
cảm. Gã cảm động ôm thằng Út:
- Mày giỏi lắm.
Hai Vương cười khà khà:
- Một tay nó làm tất cả
đấy.
Năm Thiên nói theo:
- Bây giờ bò giống nhà
mình đứng đầu toàn vùng.