Phần Hồn - Chương 12 - Phần 1
12.
Công việc hàng ngày của
thằng Út bây giờ là cắt cỏ. Sáng sớm đạp chiếc xe ba bánh ra khỏi nhà để trưa
đạp về một xe cỏ đầy. Đầu buổi chiều lại đạp đi, tối mịt về với một xe cỏ nữa.
Nơi cắt cỏ không cố định. Có lúc ở khu kho đạn của quân đội chính quyền cũ giáp
với Bình Thạnh, nay thành vùng bỏ hoang cỏ mênh mông là cỏ; có khi vào tận bãi
vành đai sân bay Tân Sơn Nhất, từ ngày giải phóng, chuyện canh gác chỉ còn hình
thức, những vòng kẽm gai lớp trong, lớp ngoài trùng điệp đã bị mở phá từng
khúc, các loại mìn cũng được tháo gỡ, dân cắt cỏ bò, ngựa quanh vùng tha hồ lẻn
vào, nhưng nơi Út thích nhất và thường xuyên đến nhất vẫn là khu nghĩa trang
bên trong bãi rác vừa gần nhà, cỏ lại mềm và ngon.
Những ngày đi cắt cỏ là
quãng thời gian bơ vơ cay đắng nhất của Út. Cái đỉnh cao khốn nạn nó đang lãnh
đủ không phải ở mức độ bị hành hạ và phân biệt đối xử mà do nó đã bước sang
tuổi mười bảy, tuổi
thanh niên trưởng thành, có ý thức về tương lai, và nó đang có trong tay nghề
nuôi và chữa bệnh cho bò thuộc loại giỏi; dù bị nhiều người nghi là “thánh
cậu”, là “phù thủy”, nhưng kết quả hành nghề của nó, dân quanh vùng không mấy
ai không biết. Đời nó, kể từ khi bị là thằng Khùng, mọi sự đày đọa, chửi bới, đánh đập,
khinh bỉ, nó đều chịu được và chịu quen đến nỗi nếu có một ngày, một lúc nào
yên bình không bị ai đụng chạm, nó còn lo lắng thắc thỏm đến đắng miệng và căng
thẳng như thể đang nhận dấu hiệu báo trước tai họa, như thể đang ở trong thời
tiết êm ả giả tạo trước con giông. Gian nan, đau đời thế nào nó cũng chịu được
hết, quen hết. Cứ đóng vai thằng khùng là mọi chuyện thành đơn giản. Khùng luôn
luôn là tấm áo giáp bảo hiểm an toàn trước mọi làn đạn thù ghét, miệt thị, định
kiến. Nó đâu ngờ tâm hồn và thể chất chai lì, miễn dịch của nó lại bị trọng
thương từ nguyên do thật đơn giản. Đi cắt cỏ cũng là công việc cực nhọc khi một
ngày cắt tới hai xe cỏ đầy, nhưng bù lại là không khí tự do hơn cảnh suốt ngày
quanh quẩn trong chuồng bò với sự giám sát ngặt nghèo của Năm Thiên. Tuy nhiên,
ngày này qua ngày khác phải xa chuồng bò, xa đàn bò đối với Út không khác gì cá
bị tách khỏi nước.
Kể từ khi Vương trở về,
mọi nền nếp trong nhà đều đảo lộn. Năm Thiên xưa nay lười biếng, mồm miệng đỡ
chân tay, không bao giờ chú tâm vào công việc, chuyên bóc ngắn cắn dài, sa đà
nhậu nhẹt, lại được Vương chỉ định quản lý trại bò. Ba Bá uất ức, bỏ nhà vượt
biên không thoát, hiện nằm dài trong trại cải tạo tận Bến Tre. Nhà đang thiếu
lao động thì Bảy Thiện đi bộ đội. Chính Hai Vương khuyến khích Bảy đi. Vương
thuyết giảng: Trường học tốt nhất để một thanh niên thời đại mới rèn luyện nên
con người mới không phải là tư tưởng tư hữu chật hẹp bên mảnh ruộng, mảnh vườn
hay đàn bò, đàn heo gia đình mà là trường đại học quân đội. Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa ưu việt, không có gì giá trị hơn những chấm son chính trị trên bản lý
lịch. Có lãnh tụ đã nói: Chính trị là thống soái. Còn gì tốt đẹp, vẻ vang hơn
khi trong gia đình có nhiều người tham gia cách mạng. “Anh Hai” đã là người
tiên phong, một tấm gương sáng, từ con trai một tướng cướp, một thằng bé nuôi
bò, trở thành người có cương vị lớn trong xã hội, không có lý gì các em không
noi theo. Năm Thiên nhờ bước ngoặt lịch sử, nhanh chóng trở thành Ủy viên Ủy
ban Nhân dân phường,
thêm thằng Bảy đi bộ đội, là nhà có ba người đồng chí, đồng lòng. Còn nhiều nơi
trên đất nước, nhất là ở các vùng biên giới, đạn vẫn còn nổ, máu vẫn còn chảy,
là thanh niên yêu nước lẽ nào có thể thờ ơ? Đi là để có dịp thử thách và cống
hiến nhiệt tình cho Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đi cũng là để tự cải tạo mình bởi
những năm sống dưới chế độ của bọn tay sai bán nước và bọn thực dân kiểu mới đế
quốc Mỹ, không nhiều thì ít, thế nào cũng có nhiễm độc, đi để rửa vết nhơ cho
gia đình vì những năm tháng đó trong nhà đã có một phần từ là ngụy quân chống
phá cách mạng. Bảy Thiện hăm hở ra đi. Trong khi đó, Vương hàng tuần mới từ cơ
quan đi xe hơi Mỹ về nhà vào chiều thứ bảy ở qua ngày chủ nhật để nhậu và chỉ
đạo đường lối chung. Năm Thiên suốt ngày ký các thứ giấy tờ ở Ủy ban phường,
tối nào về cũng say xỉn rồi lăn ra ngủ trước gà. Lao động chính trong trại bò
chỉ còn ông Hai Rỡ tập tễnh, Sáu Là và thằng Út.
Nhưng Út lại được “giải
phóng” với chân cắt cỏ chuyên nghiệp. Hai Vương rất tự hào gọi sự phân công mới
với thằng Út là cuộc giải phóng, cuộc cách mạng tinh thần, tạo điều kiện cho nó
mở rộng tầm mắt khỏi khung chuồng chật hẹp, lam lũ, tăm tối ra những vùng cỏ
xanh bao la thoáng đãng, mà thực chất nhằm cách ly Út khỏi đàn bò với lý do:
thần kinh không bình thường, lại từng có thời gian theo thầy Tám hành nghề chữa
bệnh cho bò bằng mê tín dị đoan, nhỡ một lúc đãng trí hay quen thói dị đoan,
cho bò ăn lầm, uống đồ dơ, đồ độc, xảy ra chuyện bò bệnh, bò chết rồi mất cả
chì lẫn chài. Năm Thiên biết thừa đó là cư xử nhẫn tâm và vô lý với Út. Gã
hiểu thằng Út như hiểu chính mình. Giữa người với người thì Út như một thằng
khùng, nhưng với đàn bò, không ai chê nó được điều gì. Tuy nhiên, đính chính
điều này với Vương, một người đang thừa thãi ngạo mạn và đắc thế, luôn tin chắc
mình chỉ có những nhận thức và quyết định đúng đắn, sáng suốt, Năm sợ tự rước
vạ vào thân. Hơn nữa, nếu như Vương hiểu đúng bản chất thằng Út, biết đâu nó
lại được Vương tin cậy, gã sẽ mất chỗ đứng “thủ lĩnh” trong nhà. Thế là gã tán
thành Vương, thậm chí còn ca ngợi: anh Hai thật công tâm và giàu lòng nhân ái
khi xử với thằng Út.
Ông Hai Rỡ chỉ nín lặng
lắc đầu. Kể từ khi bị Ba Bá giết hụt, rồi gãy chân, ông sống mềm nhũn, dường
như mất cả khả năng cảm ứng với mọi biến động sai, đúng xảy ra quanh mình. Thấy
Hai Vương sau hai mươi năm xa cách trở về với vinh quang đầy mình, niềm vui
trong ông chưa kịp nhen thành lửa hâm nóng con tim lạnh giá bởi những mặc cảm
tội lỗi, đã vội tắt lụi. Đau buồn chồng lên đau buồn. Với đôi chân tập tễnh,
suốt ngày, ông tỉ mẩn cần cù từ sáng sớm tới tối khuya, hết việc này sang việc
khác, quanh quẩn bên đàn bò. Trước khi đi ngủ, ông ngồi một mình với chai rượu
đế bên bàn thờ những người thân đã khuất, nhâm nhi cho tới lúc díp mắt. Mọi
chuyện xung quanh, ông như mù như điếc buông trôi hẳn ra ngoài tầm quan tâm. Và
đương nhiên chuyện thằng Út bị đi cắt cỏ, ông cũng không một câu can thiệp.
Hồi Ba Bá ở nhà, vụ cỏ
cho bò giải quyết rất đơn giản. Cứ có tiền là có người đến bỏ. Muốn bao nhiêu
có bấy nhiêu. Nguồn thức ăn chính của bò là cám tổng hợp do các cửa hàng thức
ăn gia súc hợp đồng cung cấp tận nơi. Rơm, hèm cứ sắp hết lại có người chở đến.
Tiền giải quyết tất cả. Từ ngày giải phóng, nghề nuôi bò sữa cả miền Nam bị rơi
vào cuộc khủng hoảng chung, nguồn giống, nguồn thức ăn, nơi tiêu thụ sữa đều
xáo trộn, chệch choạch trong cảnh rã đám, chỉ những nhà trường vốn, có kinh
nghiệm và bản lĩnh mới đủ sức chèo chống, cố duy trì đàn bò, còn phần lớn đều
chuyển nghề. Giữa lúc đó, Ba Bá, trụ cột của trại bò ra đi, sự khủng hoảng, xáo
trộn trong trại càng giống như con thuyền không lái. Lượng sữa hàng ngày ít hẳn,
nguồn thu mua bất ổn, giá thu mua thấp, lại thanh toán chậm, tiền chỉ thấy ra,
không thấy vào, chuyện nuôi bò bằng tiền như thời Ba Bá không khác nào anh túi
rỗng đánh bạc. Không sao. Hai Vương rất tự tin nói: Cho bò ăn tiền là cách chăn
nuôi kiểu tư bản, tạo cho bò thói quen phồn hoa giả tạo thực dân mới. Đó không
phải bản chất chân chính của lao động chăn nuôi mà là vòng quay hàng hóa của
dịch vụ thương mại, phản quy luật xã hội chủ nghĩa. Các nông trường quốc doanh
ngoài miền Bắc người ta nuôi bò bằng cỏ, cứ thả cả đàn hàng trăm con ra bãi,
con nào không chịu ăn, đói ráng chịu, chiều tối lùa về, ấy vậy chẳng thấy con
nào chết hay bệnh, lượng sữa vẫn vượt kế hoạch, đài báo tuyên dương rầm rầm. Mà
tại sao phải bày đặt vụ mua cỏ? Việc khác thì khó, chứ chỉ cắt cỏ thì một thằng
khùng yên phận chắc chắn làm tốt hơn chục lần thằng tỉnh táo đứng núi nọ trông
núi kia. Thế là Út trở thành cái máy cắt cỏ. Chuyện sẽ đưa Út đi khám, chữa
bệnh thần kinh kể từ sau lời tuyên bố hùng hồn của Vương trong cuộc họp mặt gia
đình, họ hàng hôm nào, không bao giờ được nhắc lại và cũng chưa bao giờ trở
thành hiện thực.
Út càng như người mất hồn
sau khi thấm thía thân phận mình. Nó thương đàn bò. Thà rằng rời khỏi nhà theo
hẳn thầy Tám như hồi trước lại đành một nhẽ. Nhiều năm qua, không ít lần nó
chứng kiến đàn bò nhà bị dịch tưởng chết hàng loạt. Những lúc đó nó nôn nao
khắc khoải như chính mình đau bệnh, nhưng bò bệnh như cái hạn tự nó sinh ra. Lo
chữa chạy, khỏi thì tốt; không khỏi, thương tiếc mấy cũng là chuyện vắn số của
mỗi con. Đằng này bò lành mười mươi lại bị ốm o gầy mòn vì đói, bị ghẻ lở vì
thiếu người làm, không được chăm sóc đến nơi đến chốn, bị bệnh vì cho ăn uống
thiếu vệ sinh, tình thương với đàn bò trong Út pha lẫn cả sự phẫn uất. Nó bỗng
thèm nhớ những ngày bên thầy Tám. Thầy tuy có hơi lợi dụng bề ngoài khùng dại
của nó làm tấm bình phong “thánh cậu” để làm an tâm những thân chủ mê tín, tin
thần linh ma quỷ hơn thầy thuốc, nhưng thật sự thầy nhìn nhận nó là con người
tỉnh táo, đáng tin cậy cả về tư cách lẫn nghề nghiệp. Trong khi Vương ngược
lại. Gã vẫn nói với mọi người nó là con người, thậm chí, còn hò hét đấu tranh
cho quyền làm người của nó, nhưng rút cuộc, thân phận nó còn tệ hơn thời Ba Bá
và cha nó. Hồi trước, nó chỉ như đứa trẻ bị ruồng bỏ, thích làm việc gì trong
nhà thì tùy, không ai bắt, không ai ép, và được ăn no. Bây giờ, nó thường xuyên
bị đói vì ngày chỉ có hai bữa trưa và tối; bữa ăn lại thiếu chất nên buông
chén, buông đũa mươi phút bụng đã ngót. Càng nghĩ càng nản. Nó quyết định bỏ
nhà.
Một buổi sáng, nó đạp
chiếc xe ba bánh ra khỏi nhà, thay vì đến nơi cắt cỏ, nó sang nhà dì Bảy gửi
xe, nói đi công chuyện rồi nhảy xe lam đến nhà thầy Tám.
Ngôi nhà hai tầng của
thầy đã được sửa sang thật đẹp. Đồ đạc ở gian nhà ngoài bày chật kín, không thứ
nào hợp với thứ nào, toàn đồ mới, tốt, khác hẳn phòng khách đơn giản trước đây.
Nó mừng - thầy có đời sống khấm khá hơn. Niềm hi vọng được thầy tiếp tục cưu
mang tăng lên.
Nhưng bước vào nhà, nó
bỗng chùn chân khi chủ nhà là một người khác. Một phụ nữ son phấn ở quãng tuổi
hai tư, hai nhăm.
- Chú tìm ai? - Ả hỏi
xẵng.
- Thầy Tám.
- Tám nào? À! Tám thú y,
chủ cũ nhà này hả? Bị bắt vì trốn cải tạo rồi. - Ả nói thêm, - Nhà này bị tịch
thu. Bây giờ tôi là chủ.
Út hốt hoảng lui ra. Ả
chủ mới thấy vậy có vẻ động lòng, hỏi:
- Tìm ông Tám có việc gì?
Út tần ngần đứng lại.
- Bà Tám ở đâu? - Nó hỏi.
Ả chủ nhà chỉ về con hẻm
nhỏ cách chừng chục mét:
- Cứ vô một đoạn hỏi là
biết.
Út lầm lũi đi vào con hẻm
chật chội, khúc khuỷu. Nó không cần phải hỏi thăm vì chỉ đi chừng trăm mét đã
gặp ngay bà Tám và đứa con gái lớn trạc tuổi nó đang ngồi tráng bánh cuốn nóng
ở quầy hàng thô sơ ngay trước cửa ngôi nhà tôn tồi tàn. Bà Tám trông già xọm đi
hàng chục tuổi, hai hốc mắt quầng thâm, người khô xác, ăn mặc giản dị. Vừa thấy
Út, hai mẹ con đã nước mắt ròng ròng.
Hàng quán chỉ lèo tèo hai
người khác thuộc hạng dân lao động. Út rầu rầu kéo chiếc ghế nhỏ bỏ không, khép
nép ngồi cách mẹ con bà Tám một khoảng. Mắt nó cũng rơm rớm.
- Thầy làm sao? - Nó hỏi
nhỏ.
Bà Tám nấc nghẹn, quệt
nước mắt:
- Đi học tập. Chính ông
Hai Vương, anh con, lệnh bắt.
Người Út sởn hết gai ốc:
- Làm sao?
- Sau hôm ông Hai đến đón
con về, thầy đã linh cảm trước điều không hay, lo lắng rạc cả người. Hỏi hoài,
cô mới vỡ lẽ. Cô và thầy xin trực tiếp gặp ông Hai ở tận sở, thật tình kể với
ông về vụ cô Tư tự sát không dính dáng gì đến thầy. Sau khi bị lãnh hai nhát
chém đáng đời, thầy cũng không giận cô Tư, nếu thù giận, thầy đã không nhận con
theo truyền nghề. Thầy cũng thanh minh, đúng là có thời là trung úy chế độ cũ,
nhưng là sĩ quan thú y, đã giải ngũ từ năm 1960, có giấy tờ đầy đủ... Hu hu...
Ông Hai vỗ về: Anh chị cứ an tâm về đi, nếu đúng vậy sẽ không có chuyện gì xảy
ra đâu... Cách mạng không xử oan ai bao giờ... Hu hu...
Út tê tái như chính nó là
kẻ gieo tai họa lên gia đình thầy Tám.
Bà Tám sụt sùi:
- Oan ức cho thầy cô lắm,
con ơi. Thầy bị bắt là hôm sau họ đuổi luôn mấy mẹ con ra khỏi nhà. Bây giờ,
chính vợ chồng ông Hai về ở. Còn cô và các em may có gia đình đi vùng kinh tế
mới bán rẻ ngôi nhà này, mấy mẹ con có chỗ dắt nhau vào ở, chứ không, ra hết lề
đường rồi.
Út thắc mắc:
- Vợ anh Hai con ở ngoài
Bắc mà?
- Đây là cô vợ bé mới
dính. - Cô con gái bà Tám nhìn trước nhìn sau rồi thì thầm. - Mấy ông cách mạng
biến chất bây giờ cũng vợ bé, mèo chuột tùm lum à.
Út choáng váng. Nó nhớ
lại lần đầu tiên gặp Hai Vương, rồi những ngày sau sống chung mái nhà, hễ mở
miệng Vương toàn nói lập trường, đạo đức, lý tưởng, nhân nghĩa, nhân đạo...
Nó lùi lũi ra về. Nó
vụng. Nó không biết nói gì thêm dù chỉ là những lời an ủi ngắn ngủi với bà Tám.
Nó cảm thấy lao đao như người mất phương hướng.
Ra đến phố, nó đứng lại
hồi lâu nhìn ngôi nhà cũ của gia đình thầy Tám như để ghi nhận thật sâu niềm
chua xót rồi mới lảo đảo bỏ đi.
Nó sợ có thể vì cái tội
bỏ nhà ra đi, chính nó cũng sẽ bị Vương bắt đi học tập cải tạo.
Nó lại âm thầm trở về với
việc ngày cắt đầy hai xe cỏ. Tuổi thanh niên vừa nhổ giò, thời gian sống với
thầy Tám có da có thịt lên được ít nào thì những ngày phơi nắng phơi mưa cắt cỏ
vắt rạc đi hết, trông còi cọc khô khẳng chỉ còn như đứa trẻ mười lăm. Nó trở
nên thèm ăn thèm uống đủ mọi thứ. Những bữa ăn có thịt, cá tươi như thời theo
thầy Tám và thời Ba Bá chỉ còn trong ước mơ. Thực tế, ngày hai bữa cơm trưa và
tối, trong nhà bây giờ chỉ còn Út và Sáu Là lủi thủi với nhau vì Hai Vương, Năm
Thiên không mấy khi ăn ở nhà, nếu thảng hoặc có ăn thì là những bữa kéo bạn bè
đệ tử về nhậu nhẹt tưng bừng, ông Hai Rỡ chỉ uống rượu thay cơm, nếu không la
cà ngoài quán thì cũng một mình một bóng.
Những lúc không tránh
được, phải thấy thằng Út và Sáu Là ăn uống cực khổ, Năm Thiên thản nhiên coi đó
là chuyện bình thường, còn Hai Vương vỗ về, an ủi: Giai đoạn quá độ chuyển đổi
giữa hai chế độ, từ kinh tế tư bản phồn hoa giả tạo sang kinh tế xã hội chủ
nghĩa ưu việt, ăn chắc mặc bền thế nào cũng có ít nhiều xáo trộn đòi hỏi mỗi
người phải thắt lưng buộc bụng. Ráng chịu đựng khó khăn một thời gian, sau này,
cải tạo xong kinh tế nông nghiệp theo hướng xã hội chủ nghĩa, bữa ăn sẽ chỉ
toàn thịt cá.
Cả thằng Út lẫn Sáu Là
đều ù ù cạc cạc nhau và trệu trạo như không thể nuốt những lời dạy bóng mỡ từ
miệng lưỡi Vương với miếng cơm trộn bo bo hôi nồng mùi bao bố.
Út thương Sáu Là. Nàng ốm
rạc như xác ve, mất khả năng sinh đẻ, sống và làm lụng trong nhà cực hơn kiếp
con ở, lúc nào cũng bơ vơ sợ hãi bên người chồng lạnh giá. Những tưởng chồng đi
vắng nàng sẽ sống nhẹ nhõm, ai ngờ còn cực nhục hơn. Tháng nào cũng hai lần bòn
góp bất cứ thứ gì trong nhà có thể đem bán lấy tiền, nếu không, phải chạy vay
nợ lãi để có tiền mua đồ xuống Bến Tre thăm nuôi chồng. Hai chị em bên nhau như
hai cái bóng âm thầm xa cách, một đằng kiếp thằng khùng, một đằng mặc cảm tội
lỗi, đến mắt cũng không mấy khi nhìn thẳng vào nhau chứ đừng nói chuyện trò tâm
sự. Mỗi ngày, vừa tảng sáng, Út đạp xe rời khỏi nhà đi cắt cỏ, Sáu cũng có mặt
trong chuồng bò. Tối đến, Sáu lủi thủi về ngôi nhà đúc rộng thênh thang ở góc
vườn một mình một bóng. Út cũng lẻ loi vơ vẩn trước thềm nhà gỗ, cho tới lúc có
thể leo lên giường ngủ vùi. Nói của đáng tội, từ ngày được Vương “giải phóng”
khỏi nhà thầy Tám trở về, nó cũng có được sự thay đổi đáng kể, thay vì phải ngủ
vạ vật dưới chuồng bò như trước, nó được ngủ chung với Bảy Thiện ở tấm phản gỗ
thao lao kê bên trái tủ thờ, trong ngôi nhà gỗ. Khi Bảy đi nghĩa vụ quân sự, nó
được nằm một mình. Vương luôn kể đó là sự đổi đời lớn lao từ kiếp vật lên kiếp
người do mình mang lại cho thằng Út. Gã có biết đâu cuộc đổi đời đó chẳng hề
làm Út sung sướng. Hàng đêm, dù ban ngày cắt cỏ mệt đến đâu thì mệt, nó cũng
không sao ngủ yên mỗi khi có những động tĩnh khác thường từ chuồng bò, điều mà
nếu ở ngay trong chuồng, được tận tay chăm sóc từng con, nó không có tâm lý
thấp thỏm. Nó có cái tật, hễ suốt ngày phải đi cắt cỏ vắng thì đành chịu, nhưng
ở nhà, biết bò bị làm sao mà không chăm sóc được là nó bức bối. Nó quen thân thiết
với bò hơn với người. Từ xa nghe tiếng kêu, tiếng thở hắt, tiếng giậm chân từ chuồng bò, nó
có thể phân biệt được là của con nào, con nào đang đói, đang lạnh, con nào đang
bị ngứa ngáy. Từ ngày Hai Vương bắt thực hiện nuôi bò theo phương pháp khoa học
(!) không cho bò ăn từ tối đến sáng, không đêm nào bò không dậm dịch kêu đói. Nó rành
rẽ và hòa đồng với đời sống loài bò nên nó khổ. Không ít lần không chịu nổi day
dứt, nó đã rời khỏi giường, định lén xuống chuồng chăm sóc bò, nhưng ra đến đầu
hồi nhà, chỉ còn cách chuồng dăm mét nó lại sợ, không dám vào. Khác với Ba Bá,
Vương và Thiên chưa bao giờ đánh đập nó một lần, nhưng lại thường xuyên răn đe,
nghi nó hại đàn bò vì bất mãn. Nghĩ đến việc Vương và Thiên tình cờ bắt gặp
mình có mặt trong chuồng bò giữa đêm hôm khuya khoắt, nó sợ tai họa sẽ giáng
xuống đầu. Nó không sợ bị đánh mà rất sợ bị bắt đi trại cải tạo.