Hàm Cá Mập - Chương 04 phần 1

4

Những
ngày tiếp theo, thời tiết vẫn sáng sủa và êm lặng. Gió nhẹ từ hướng tây nam
thổi suốt - làn gió hây hẩy làm gợn lăn tăn mặt nước đại dương mà không cuốn
lên những lớp sóng trắng. Sự tươi mát trong không khí chỉ về đêm mới thấy, đất
cát sau nhiều ngày nắng chang chang đã nóng lên.

Chủ
nhật rơi vào ngày hai mươi tháng sáu. Các trường quốc lập còn làm việc một tuần
nữa, nhưng các trường tư ở New York đã thả học trò về nghỉ hè. Các gia đình có
nhà riêng ở Amity đã bắt đầu đi nghỉ từ đầu tháng năm. Những người đi nghỉ thuê
nhà từ mười lăm tháng sáu đến mười lăm tháng chín, đã dỡ đồ đạc ra, dần dần ổn
định ở nơi mới và đã bắt đầu cảm thấy như ở nhà mình. Đến giữa trưa bãi tắm dọc
đường Scotch và đường Old Mill đã đầy những người là người. Ông bố các gia đình
nằm thiu thiu nửa thức nửa ngủ trên các tấm khăn tắm, lấy sức trước ván tennis
và đường về lại New York trên tuyến tàu tốc hành Long Island. Các bà vợ ung
dung an tọa trên những chiếc ghế nhôm dài dọc Helen MacInnes, John Cheever và
Taylor Caldwell, thỉnh thoảng lại bỏ sách để làm một hớp rượu vécmút. Đám thanh
thiếu niên nằm thành những dải sít chật. Không thể xếp đám thanh niên này vào
hạng hippi được. Họ không tuôn ra những lời nói đã cũ mòn về hòa bình hay ô
nhiễm môi trường, về công bằng hay cần phải nổi loạn. Họ thừa hưởng các đặc
quyền đặc lợi cũng như thừa hưởng các gen di truyền vậy; thẩm mỹ của họ, cách
nhìn của họ, cũng như màu mắt họ, đã được định sẵn bởi các thế hệ đi trước. Họ
không mắc bệnh thiếu vitamin, cũng không thiếu máu. Hàm răng họ, không hiểu tại
tự nhiên hay nhờ vào các nha sĩ giỏi giang, thẳng, trắng và đều tăm tắp, thân
hình họ dây dây, các bắp thịt rắn chắc - chả là từ năm lên chín họ đã tập đánh
bốc, từ năm mười hai tuổi đã học cưỡi ngựa và suốt những năm sau chuyên đánh
tennis. Người họ luôn luôn bốc ra mùi thơm, kể cả giữa lúc nóng nực. Các cô gái
thì luôn tỏa ra hương thoang thoảng của nước hoa, còn các chàng trai thì đơn
thuần là mùi thân thể sạch sẽ. Đám thanh niên vàng ấy tuyệt nhiên không ngốc
nghếch hay hư đốn. Nếu có ai đó thử đo hệ số phát triển trí óc bình quân của họ
thì hẳn là, xét theo những số liệu tự nhiên của mình, họ có thể được xếp vào
tầng lớp trí thức tinh hoa chiếm một phần mười toàn bộ cư dân trái đất. Họ được
đào luyện trong các trường, có dạy đủ các ngành khoa học khác nhau, kể cả nghệ
thuật giao tiếp với đại diện các dân tộc thiểu số, các lý luận triết học đa
dạng, sách lược chiến tranh chính trị, họ được làm quen với các vấn đề kinh tế,
các vấn đề ma túy và dục giới. Nói chung họ biết khá nhiều, nhưng lại thích
không nhớ đến các kiến thức này. Họ cho rằng (chí ít thì ở họ cũng có cái cảm
giác như thế): đối với những gì đang diễn ra trên thế giới, vị tất họ đã có can
hệ gì đến. Quả thực không có cái gì khuấy động được cõi lòng của họ: cả những
cuộc nổi loạn chủng tộc ở Trenton (bang New Jersey) hay ở Gary (bang Indiana);
cả sự kiện là tại hàng loạt nơi dọc sông Missouri đã bị ô nhiễm đến mức mặt
nước thỉnh thoảng lại bắt lửa bùng lên; cả sự tham nhũng trong ngành cảnh sát
New York; cả mức gia tăng của tội ác ở San Francisco; cả những tố cáo động trời,
chẳng hạn trong xúc xích đã phát hiện thấy các ấu trùng giun sán và chất
Hexaclorôphin gây bệnh não. Họ tỏ ra thờ ơ ngay cả với cuộc khủng hoảng kinh tế
mà toàn bộ nước Mỹ đang trải qua. Các dao động trên thị trường chứng khoán đối
với họ chỉ là những trạng huống đáng bực mình để cho các ông bố của họ vin vào
mà nhiếc móc họ chuyện tiêu xài phung phí, có thực hay chỉ do bố mẹ họ tưởng
tượng ra.

Đấy
là những con người trẻ trung đến Amity mỗi mùa hè. Tổ chức biểu tình, to mồm về
các loại chủ đề, túm năm tụm ba ký kiến nghị và thường thường cả mùa hè làm
việc ở những cơ quan nào đó có những tên viết tắt khó hiểu là những con người
khác kia - trong số đó có cả bọn ma cà bông. Nhưng bởi lẽ bọn họ nói chung
không chấp nhận Amity, cùng lắm chỉ hòa nhập với cư dân của nó vào ngày lễ lao
động mà thôi, cho nên cũng chẳng ai thèm để mắt đến bọn họ cho lắm...


trẻ con thì chơi bên mép nước, đào hố và ném cát ướt vào nhau, chẳng buồn bận
tâm lo nghĩ đến chuyện chúng sẽ là ai và cái gì đợi chúng mai sau.

Một
cậu bé quãng lên sáu ném những mảnh đá dẹt xuống nước một hồi lâu - cố cho
chúng nảy trên mặt nước, một lúc sau cậu đâm chán. Cậu đi dọc bãi tắm đến chỗ
mẹ cậu đang nằm và ngồi xuống bên cạnh.

-
Mẹ ơi, nghe con nói này, - cậu vừa nói vừa lấy ngón tay vẽ những hình loằng
ngoằng trên cát.

Mẹ
cậu quay lại, lấy tay che mắt cho khỏi chói.

-
Chuyện gì, con?

- Ở
đây con chán lắm rồi.

-
Chán rồi à? Sao mà chóng vậy? Mẹ con ta chỉ vừa mới đến đây thôi mà.

-
Mới thì mới chứ. Con thấy tẻ. Chả có việc gì làm cả.

-
Con nhìn xem bãi tắm tuyệt chưa kìa, con muốn chơi ở đâu thì chơi.

-
Vâng, con biết rồi. Nhưng chả có việc gì làm cả. Con thấy tẻ lắm.

-
Thế sao con không chơi bóng?

-
Có ai mà chơi? Ở đây chẳng có ai cả.

-
Sao lại không có ai? Con đã tìm gia đình bác Harris chưa? Thế Tommy Converse
đâu?

-
Chẳng có ai cả đâu. Họ còn chưa đến. Con thấy tẻ lắm.

-
Này, Alex, sao con cứ lải nhải mãi thế nhỉ.

-
Con đi tắm có được không?

-
Không. Nước lạnh đấy.

-
Làm sao mẹ biết?

-
Mẹ biết, có thế thôi. Với lại mẹ không thể thả con xuống một mình được.

-
Thế mẹ không xuống với con à?

-
Xuống tắm ấy ư? Tất nhiên là không rồi.

-
Thì mẹ chỉ đứng nhìn thôi cũng được.

-
Alex, mẹ đang mệt chết đi đây. Chả lẽ con không biết chơi gì nữa hay sao?

-
Thế con bơi trên cái nệm hơi có được không?

- Ở
đâu?

- Ở
ngay gần bờ thôi mà. Con không tắm đâu, chỉ nằm trên nệm thôi.

Người
mẹ ngồi dậy, đeo kính râm vào và nhìn quanh bãi tắm. Cách họ vài chục yát, một
người đàn ông đang đứng đỡ một đứa bé trên vai, nước ngang thắt lưng anh ta.
Người đàn bà nhìn anh, bất giác lòng chị dấy lên sự tủi thân: lúc này chị không
còn có chồng để có thể trút trách nhiệm chơi với con được. Người đàn bà chưa kịp
chuyển cái nhìn sang đứa con thì cậu bé đã hiểu chị đang nghĩ gì. Nó nói:

-
Giá có bố thì bố đã cho phép con rồi.

-
Alex, đã đến lúc con phải hiểu rằng bằng cách ấy con không thể bắt mẹ nhượng bộ
được đâu.

Chị
lại nhìn quanh bãi tắm. Bãi tắm vắng vẻ, chỉ có vài đôi ở phía xa.

-
Thôi được rồi. Đi đi, - chị cất tiếng. - Nhưng đừng có bơi xa qua
đấy nhé và cũng đừng có bơi không nệm đấy.

Chị
nghiêm nghị nhìn cậu bé, thậm chí còn gỡ kính ra để cậu ta thấy được ánh mắt
của chị.

-
Vâng, - cậu bé thưa.

Cậu
ta đứng lên, vớ lấy cái nệm cao su và lôi nó xuống nước. Sau đó cậu nâng nó lên,
và vừa vươn dài tay bám lấy nó, vừa lội trong nước. Khi nước đã lên đến thắt
lưng cậu thì cậu nằm lên nệm. Nước xô nhẹ chiếc nệm và làm nó nổi lên cùng với
cậu bé. Cậu bé nằm ung dung trên nệm, bắt đầu đều đặn dùng cả hai tay thong thả
quạt nước. Chân cậu thò ra khỏi nắp nệm đến mắt cá. Cậu bơi được vài yát, quay
ngang và bắt đầu quạt nước dọc theo bờ. Dòng nước yếu nhẹ nhàng đưa cậu ra phía
đại dương, nhưng cậu không nhận ra.

Cách
bờ năm chục yát đáy biển đột ngột hạ xuống, tuy không thình lình thụt xuống, nhưng
cũng vát chéo xuống rất dốc. Nơi bắt đầu võng xuống, có độ sâu mười lăm bộ. Xa
tí nữa độ sâu đã đạt đến hai mươi lăm, rồi bốn mươi, sau đó là năm mươi bộ. Ở
độ sâu một trăm bộ, đáy trở nên bằng phẳng, nó cứ bằng phẳng như thế độ nửa dặm,
sau đó cao lên thành một đoạn nông cách bờ một dặm. Phía ngoài đoạn nông này, đáy
biển nhanh chóng hạ xuống tới hai trăm bộ, còn tiếp nữa là những độ sâu thực
thụ của đại dương.

Con
cá to lớn chầm chậm bơi, đuôi quẫy nhẹ ở độ sâu ba mươi lăm bộ. Nó không nhìn
thấy gì, vì những cơ thể thực vật nhỏ li ti làm đục làn nước. Con cá bơi dọc
theo bờ. Sau đó nó đổi hướng, hơi nghiêng người và nhoi lên mặt nước theo hình
tròn. Trong nước bây giờ sáng sủa hơn, nhưng con cá vẫn không trông thấy gì.

Cậu
bé đang nghỉ, tay thả lơ lửng trong nước, cơn sóng dồn đến vỗ vỗ vào hai bàn
chân. Cậu nhìn bờ, thông thường người mẹ không cho cậu bơi ra xa như thế. Cậu
trông thấy mẹ cậu vẫn nằm trên tấm khăn, còn người đàn ông và đứa con đang chơi
đùa trong những lớp sóng gần bờ. Cậu bé không thấy sợ - nước êm lặng, vả lại
cậu cũng mới bơi ra cách bờ có bốn chục yát. Thế nhưng cậu vẫn quyết định bơi
vào gần hơn, vì nhỡ đâu mẹ cậu trông thấy thì sẽ bắt cậu lên bờ. Cậu trườn khỏi
chiếc nệm một chút để chân có thể hoạt động được. Tay cậu khua nước gần như
không phát ra tiếng động, nhưng chân cậu thì lại khua loạn xạ làm bắn cả bọt
nước lên.

Con
cá không nghe thấy âm thanh, nhưng nó xác định được những cơn nước xô mạnh từng
hồi do những cú đập chân phát ra. Những tín hiệu hãy còn yếu, nhưng con cá đã
nắm bắt được và hướng tới phía đó. Thoạt đầu nó bơi chậm, nhưng sau đó, mỗi
chốc tín hiệu càng trở nên rõ rệt hơn, nên nó nhanh chóng tăng tốc độ.

Cậu
bé dừng lại trong giây lát để nghỉ lấy sức. Những tín hiệu không phát ra nữa.
Con cá bơi chậm lại, đầu quay hết bên này sang bên kia, để cố bắt lại các
tín hiệu. Cậu bé nằm hoàn toàn bất động, còn con cá thì bơi phía dưới cậu, ở độ
sâu lớn. Sau đó nó lại bắt đầu ngoi lên.

Cậu
bé lại bơi. Cậu chỉ đập chân sau hai ba lần quạt nước - hoạt động bằng chân
nặng nhọc hơn nhiều so với chèo bằng tay. Những cú đập chân chốc chốc lại lặp
lại ấy truyền cho con cá những tín hiệu mới. Nó thu nhận được ngay, bởi vì nó
gần như ở ngay phía dưới cậu bé. Con cá lao vọt lên.


bơi gần như thẳng đứng, bởi đã cảm thấy những chuyển động nào đó trên mặt nước.
Nó không biết chắc cái vật đang khua khoắng trên đó có ăn được không, nhưng
điều đó bây giờ không quan trọng. Con cá chuẩn bị tấn công. Nếu cái vật nó sắp
nuốt tiêu hóa được thì đấy tức là đồ ăn, còn nếu không thì nó sẽ ợ ra sau.
Ngoác hàm và một lần nữa quật cái đuôi hình lưỡi liềm, con cá lao tới nạn nhân.

Cái
cảm giác cuối cùng của cậu bé là một đòn giáng mạnh vào bụng. Hơi thở ứ lại, cậu
không kịp kêu gì cả, mà vả chăng có kịp thì cũng không kêu lên cái gì, bởi lẽ
cậu đâu có nhìn thấy con cá. Con cá húc chiếc nệm tung lên không. Đầu, tay, vai,
gần như toàn bộ khúc thân của cậu bé và phần lớn cái nệm chui tọt vào hàm cá, và
quai hàm nó sập lại. Con cá vọt khỏi nước, bay về phía trước rồi đập bụng xuống,
hàm nó nghiền thịt, xương, cao su lẫn lộn. Đôi chân cậu bé bị dứt rời khỏi thân,
quay chầm chậm và chìm xuống đáy.

Người
đàn ông đang chơi với đứa con bên mặt nước kêu lên:

-
Ối!

Anh
ta không tin vào mắt mình nữa, anh cứ nhìn mãi ra phía chỉ vừa mới đây vẫn còn
cậu bé, rồi đưa mắt lên bờ, nhưng một đợt sóng phản hồi mạnh làm anh phải quay
mặt ra ngoài khơi, chỉ có điều anh chẳng trông thấy gì ngoài những cơn sóng đã
dấy lên và tản thành những vòng tròn.

-
Con có nhìn thấy không? - Anh ta hỏi to. - Con có nhìn thấy không?

-
Cái gì hở bố? - Đứa con sợ hãi giương mắt lên nhìn bố.

-
Kia kìa! Cá mập, hoặc cá voi, hoặc cái gì đó nữa? Cái gì đó to lắm!

Mẹ
cậu bé đang thiu thiu ngủ trên chiếc khăn mở mắt ra và hơi nheo mắt nhìn người
đàn ông. Anh ta vừa nói cái gì đó với đứa con của anh vừa chỉ mặt nước, thế là
đứa trẻ chạy lên cát tới đống quần áo. Người đàn ông đâm bổ đến chỗ người mẹ
của cậu bé. Chị ngồi dậy và mãi vẫn chưa hiểu anh nói gì, nhưng anh cứ chỉ ra
mặt nước; và chị lấy tay che mắt rồi nhìn ra đại dương. Chị không trông thấy gì
cả và thoạt đầu chẳng ngạc nhiên một tí nào, nhưng bỗng chị sực nhớ ra: “Alex!”

***

Brody
đang ăn trưa: gà rán, khoai tây nghiền nhừ và đậu.

-
Lại khoai tây nghiền, - anh kêu lên, khi Ellen đặt đĩa trước mặt. - Em làm gì
với anh thế?

-
Em không muốn anh chết đói. Với lại anh có béo thì trông mới hợp.

Chuông
điện thoại vang lên.

-
Để em. - Ellen nói. Nhưng Brody đã đứng dậy. Bao giờ chả thế. Ellen thì sắp sửa
bước lại máy điện thoại, nhưng người đi đến đó lại là anh. Cũng như khi chị
quên một thứ gì đó dưới bếp. Chị nói, chẳng hạn là quên khăn ăn và sẽ đem ngay
lên, nhưng cả hai người đều biết rằng anh sẽ đi lấy.

-
Thôi, chắc là gọi cho anh đấy, - Brody nói.

Những
lời anh nói là không chủ định, anh biết rằng người ta có thể gọi cho chị lắm
chứ.

Đó
là đồn cảnh sát gọi tới.

-
Bixby đang nói đây, thưa thủ trưởng.

-
Có việc gì thế, Bixby?

-
Thủ trưởng tới đây nhé, thế thì tốt hơn.

-
Để làm gì?

-
Thủ trưởng ạ, chả là... - Rõ ràng Bixby không muốn trình bày chi tiết. Anh
ta nói điều gì đó với người đứng bên cạnh, sau đó lại nói vào máy. - Ở đồn
chúng ta có một phụ nữ, thủ trưởng ạ... Chị ta đang điên lên...

-
Chuyện gì vậy?

-
Đứa con của chị ta. Ở ngoài bãi tắm ấy.

Tim
Brody thót lại.

- Đứa
bé làm sao?

-
Thưa... - Bixby lúng búng, sau đó nói lào thào. - Hôm thứ năm...

-
Nghe đây, đồ dấm dớ... - Brody chực nói nữa những bỗng chững lại ngay. Anh
đã hiểu cả. - Tôi sẽ tới bây giờ, - và anh ngắt máy.

Anh
thấy nôn nao như đang lên cơn sốt. Sự sợ hãi, ý nghĩ mình có lỗi và cơn giận dữ
bất lực - tất cả hòa nhập vào thành một cơn đau nhói. Anh bỗng vỡ lẽ rằng anh
đã bị lừa đảo và bị phản bội, và chính bản thân anh cũng thấy mình là kẻ lừa
đảo và phản bội. Người ta đã dồn ép anh vào một việc bẩn thỉu. Anh đã trở thành
một kẻ bù nhìn bạc nhược. Toàn bộ tội lỗi giờ đổ lên đầu anh, tuy không phải
chỉ một mình anh có lỗi. Đó cũng là lỗi của Larry Vaughan và các bạn hàng của
ông ta, cho dù thực ra có tồn tại bọn họ hay không. Anh muốn hành động tuân
theo bổn phận, nhưng người ta không cho. Anh có còn là một cảnh sát viên nữa
không, nếu như anh đã chịu nhún Vaughan? Lẽ ra anh phải đóng cửa các bãi tắm.

Giả
sử anh đã đóng cửa các bãi tắm. Con cá chắc đã bỏ đi tới bờ biển mạn East
Hampton chẳng hạn và đã tấn công một người nào đó ở đằng ấy. Nhưng anh đã không
đóng cửa các bãi tắm, thế nên đứa trẻ mới chết. Rõ như ban ngày. Nguyên nhân và
hậu quả. Brody bỗng thấy ghê tởm chính mình. Nhưng đồng thời anh lại thấy
thương mình.

-
Chuyện gì xảy ra thế? - Ellen hỏi.

-
Một đứa trẻ vừa mới chết.

-
Chết như thế nào?

-
Lại cái con cá mập đáng nguyền rủa ấy.

-
Trời! Giá như anh đóng cửa các bãi tắm...

Chị
toan nói, nhưng lại im bặt.

- Ừ
anh hiểu.

Khi
Brody lái xe đến, Harry Meadows đã đợi anh ở bãi để ôtô đằng sau đồn cảnh sát.
Ông ta mở cửa trước cửa ôtô và giúi cả thân hình to lớn của mình vào chỗ ngồi
cạnh Brody.

-
Sắp lắm chuyện đây, - Meadows nói.

-
Ừ. Ai ở đằng kia thế, Harry?

-
Một anh chàng ở báo Times, hai người ở Newsday, một người ở báo tôi. Còn có cả
một phụ nữ. Và một người nữa là người khẳng định rằng dường như anh ta đã trông
thấy mọi diễn biến.

-
Làm sao mà bọn ở Times đã đánh hơi được?

-
Không may thôi. Anh chàng của báo Times có mặt ở bãi tắm. Với anh ta còn có một
tay của Newsday. Cả hai đi nghỉ cuối tuần. Cho nên chuyện xảy ra là họ biết
ngay.

-
Chuyện xảy ra từ bao giờ?

Meadows
nhìn đồng hồ.

-
Mười lăm, hai mươi phút trước đây. Không hơn đâu.

-
Họ có biết đến cô nàng Watkins không?

-
Tôi nghĩ là không. Anh chàng ở báo tôi tất nhiên là có biết, nhưng anh ta khá
khôn ngoan để không khua môi múa mép bừa bãi. Những người còn lại thì còn tùy ở
việc họ đã nói chuyện với những ai. Vị tất họ đã lần ra. Chẳng qua họ không có
thời gian.

-
Sớm muộn gì họ cũng lần ra.

-
Tôi hiểu, - Meadows nói. - Tôi sẽ bị đặt vào một tình thế khá gay go đây.

- Anh ấy à?! Anh cứ đùa.

- Nghiêm túc đấy, Martin ạ. Nếu có ai đó của báo
Times đánh hơi được và chuyện này được đăng ở số báo ngày mai cùng với tin về
vụ tấn công vừa rồi của cá mập, thì tờ Leader sẽ khốn đốn đấy. Tôi đang định sử
dụng dịp này cứu lấy danh dự của tờ báo, ngay cả nếu như những người khác không
buồn bận tâm đến.

- Anh định sử dụng nó như thế nào, hả Harry? Anh
muốn viết gì?

- Hiện giờ tôi chưa rõ. Xin nói với anh là tôi
đang ở vào một tình thế khá gay go.

- Thế anh định kết tội ai là kẻ đã mưu toan ỉm vụ
này đi? Larry
Vaughan chăng?

-
Chưa hẳn.

-
Tôi chăng?

-
Ấy không, không đâu. Việc ai đã ra lệnh ỉm nó đi thì nói chung tôi sẽ không
viết. Không có mưu mô thông đồng nào cả. Tôi muốn nói chuyện lại với Carl
Santos. Nếu tôi thuyết phục được anh ta nói điều cần nói thì ta sẽ tránh được
nhiều phiền toái.

-
Nếu viết sự thật ra thì sao?

-
Cái gì mới được chứ?

-
Nếu viết ra mọi diễn biến thì sao? Rằng tôi đã muốn đóng cửa các bãi tắm và
cảnh báo cho mọi người biết có sự nguy hiểm, nhưng các ủy viên tòa thị chính
không đồng ý, và bởi vì tôi là thằng hèn, không giữ vững được ý kiến của mình
để thực thi công vụ, nên tôi đã bị họ dắt mũi. Viết rằng các ông chủ địa phương
đã quyết: không có cơ sở để gây hốt hoảng cho mọi người chỉ vì cái việc ở bờ
biển Amity đã xuất hiện một con cá mập thích đớp trẻ con.

-
Thôi đi, Martin. Cậu không có lỗi. Không ai có lỗi cả. Chúng ta đã quyết
định, đã mạo hiểm và đã thua cuộc. Cả thảy chỉ có thế.

-
Kinh thật. Giờ tôi chỉ còn mỗi một cách là đến nói với người mẹ đứa trẻ kia là:
chúng tôi rất lấy làm tiếc, nhưng buộc phải hy sinh con trai chị cho trò chơi
này như hy sinh quân bài ấy.

Brody
ra khỏi xe và bước lại lối cửa sau vào đồn. Meadows đi phía sau. Brody dừng
lại.

-
Harry này, điều tôi muốn biết là trên thực tế ai đã quyết định như vậy? Anh bị
phụ thuộc. Tôi bị phụ thuộc. Theo tôi thì ngay Larry Vaughan cũng không tự
quyết định được mọi cái. Tôi cho rằng ông ta cũng phụ thuộc vào ai đó.

-
Sao anh lại nghĩ vậy?

-
Tôi có một số căn cứ. Anh có biết gì về những bạn hàng kinh doanh của ông ta
không?

-
Ông ta chẳng có bạn hàng nào cả.

-
Điều ấy mới xui tôi suy ngẫm đấy. Thôi được, ta hãy... tạm quên chuyện đó
đi. - Brody bước lên các bậc thang, Meadows theo sau. - Anh nên đi lối cửa
chính thì hơn, Harry ạ... - Brody nói.

Brody
qua cửa sau vào phòng làm việc của mình. Một người phụ nữ đang ngồi bên bàn, tay
vò chiếc khăn mùi soa. Chị ta đi chân trần, áo choàng ngắn phủ lên bộ quần áo
tắm không cài khuy. Brody lo âu nhìn chị, trong lòng lại trào lên cảm giác có
lỗi. Anh không biết chị ta có khóc hay không, vì mắt chị bị che bởi chiếc kính
râm to. Một người đàn ông đứng ở phía tường đối diện. Brody hiểu rằng đây chính
là người dường như đã chứng kiến mọi diễn biến. Người đàn ông lơ đãng nhìn
những tấm bằng khen của các tổ chức xã hội, những bức ảnh có hình Brody chụp
với các vị khách tiếng tăm treo trên tường. Vị tất những cái đó có thể gây được
nhiều hứng thú đối với một người khách lớn tuổi, nhưng có phải ai cũng trầm trồ
chuyện đó vào lúc này với người phụ nữ đang mất trí vì đau khổ kia đâu.

Chưa
bao giờ Brody có biệt tài an ủi con người, thế nên anh chỉ tự giới thiệu và lần
lượt ra câu hỏi. Người phụ nữ nói rằng chị không trông thấy cá mập nào cả: cậu
bé con trai chị vừa mới bơi trên nệm, thế mà bỗng dưng mất hút. “Tất cả những
gì tôi trông thấy chỉ là những mảnh nệm.” Giọng chị nhỏ nhẹ, đều đều. Người đàn
ông thì kể rằng anh ta có trông thấy. Hay là anh ta chỉ trông gà hóa cuốc mà
thôi.

-
Tóm lại thực tế chưa ai nhìn thấy cá mập, - Brody kết luận, đâu đó tận đáy lòng
anh vẫn còn le lói hy vọng.

-
Thế thì còn có cái gì vào đây được nữa? - Người đàn ông hỏi.

-
Thiếu gì cái, - Brody tự dối mình, cũng như dối người. Anh vẫn thầm hy vọng sẽ
có một giả thuyết nào đó ít nhiều hợp lý. - Cũng có thể cái nệm bị xì hơi và
cậu bé bị chìm.

-
Thằng Alex nhà tôi bơi khá lắm, - người phụ nữ bác lại. - À... nó đã bơi...

-
Thế còn sóng cồn là nghĩa làm sao? - Người đàn ông nói.

-
Thằng bé có thể vùng vẫy dưới nước.

-
Thế mà nó lại không kêu!

Brody
hiểu rằng cái giả thuyết ấy không xuôi tai. Anh nói:

-
Thôi được. Dù thế nào đi nữa thì ta cũng sẽ sớm biết nguyên nhân thôi.

-
Ông nói thế là ý thế nào ạ? - Người đàn ông hỏi.

-
Những người chết dưới nước thường bị dạt vào bờ. Còn nếu bị cá mập tấn
công thì sẽ rõ ngay thôi. - Người phụ nữ rũ vai xuống, khiến Brody tự rủa mình
thiếu tế nhị. - Xin lỗi chị, - anh nói. Người đàn bà lắc đầu và bật lên tiếng
khóc.

Brody
yêu cầu hai người hãy đợi anh trong phòng làm việc, còn anh bước ra phòng khách
phía ngoài. Meadows đang đứng ở cửa, lưng tựa vào tường và bị một thanh niên
cao lớn, cân đối, đứng bên cạnh hỏi tới tấp. Phóng viên tờ Times đây, Brody
nghĩ bụng. Anh thanh niên đi đôi xăng đan, mặc quần bơi và khoác chiếc áo cộc
tay có in hình cá sấu trên ngực ở phía bên trái. Biểu trưng ấy gây ngay cho
Brody một cảm giác khó chịu đối với người phóng viên.

Thời
trẻ, đối với Brody những chiếc áo như thế có vẻ gì đó như là tượng trưng cho sự
giàu có và địa vị cao trong xã hội. Tất cả những người đi nghỉ đều mặc những
chiếc áo ấy. Brody cứ nằng nặc đòi mẹ mãi, cuối cùng, mẹ anh đã phải mua cho
anh “cái áo phông hai đôla với hình con thằn lằn sáu đôla”, như lời bà nói. Khi
đã mặc chiếc áo ấy rồi anh thấy những người đi nghỉ vẫn thờ ơ bước lướt qua anh
như trước kia, chẳng coi anh vào đâu cả, thì anh cũng thấy bị xúc phạm. Anh
giật con cá sấu khỏi túi áo, và đem áo ra để lau chiếc máy cắt cỏ - mùa hè anh
kiếm thêm bằng việc cắt cỏ. Mới đây Ellen đã mua dăm chiếc áo dài đắt tiền cũng
của công ty ấy; vị tất họ đã dám cho phép mình tiêu tiền vào những con cá sấu
nọ, chẳng qua Ellen hy vọng rằng điều đó sẽ giúp chị quay trở lại môi trường mà
chị vốn xuất thân. Có hôm Brody - bất ngờ ngay cả với chính mình - đã nhiếc
Ellen về chuyện mua “cái áo dài mười đôla với con thằn lằn hai mươi đôla”.

Hai
người đàn ông ngồi trên chiếc ghế dài là phóng viên tờ Newsday. Một người mặc
quần bơi, người kia mặc áo vét và quần thể thao. Tay phóng viên của Meadows -
hình như tên là Nat - thì ngồi ghé vào mép bàn và đang tán chuyện với Bixby.
Trông thấy Brody, họ ngừng nói.

- Tôi
có thể giúp gì được các vị? - Brody hỏi.

Anh
thanh niên đang đàm luận với Meadows bước một bước về phía trước và nói:

-
Tôi là Bill Whitman của New York Times.

“Vinh
dự biết ngần nào!” - Một ý nghĩ thoáng trong đầu Brody.

-
Tôi đã ở ngoài bãi tắm.

-
Vậy ông đã trông thấy gì ở ngoài đó?

-
Tôi cũng đã ở ngoài ấy, - một trong hai ký giả của tờ Newsday chen vào - mà
chẳng trông thấy gì cả, trừ cái anh chàng hiện giờ đang ngồi trong phòng làm
việc của ông. Có lẽ anh ta có trông thấy cái gì đó.

-
Vâng, có thể thật, - Brody nói, - chỉ có điều chính anh ta cũng không rõ đó là
cái gì.

-
Ông định viết gì vào biên bản, cá mập tấn công chăng? - Phóng viên Times hỏi.

-
Hiện giờ tôi chưa định viết gì cả và cũng muốn khuyên các ông đừng vội làm gì
cả cho đến khi nào mọi việc sáng tỏ.

Tay
phóng viên Times khúc khích cười.

-
Thôi xin đủ, thưa thượng cấp. Ngài muốn gọi đó là sự mất tích bí hiểm hay sao?
Một cậu bé bị lạc ngoài đại dương?

Brody
cố sức kiềm chế để khỏi đáp lại lời khích bác của tay phóng viên nọ.

-
Ông nghe này, ông Whitman - họ ông là Whitman, nếu tôi không nhầm? Chúng ta
chưa có nhân chứng nào nhìn thấy cái gì, ngoài cơn sóng cồn. Người đang ngồi
trong phòng làm việc của tôi cam đoan rằng ông ấy đã nhìn thấy một vật thể lớn
màu bạc và theo ý kiến của ông ấy thì đó có thể là cá mập. Ông ta nói rằng
trong đời chưa bao giờ trông thấy cá mập cả, cho nên lời nói ông ta không thể
là kết luận của một chuyên gia được. Chúng ta không thấy có thi thể, không có
bằng chứng về việc cậu bé bị cá mập tấn công... Chúng ta chỉ biết rằng cậu
bé đã mất tích. Có thể cậu ấy bị chết đuối. Biết đâu cậu ta bị chuột rút hay bị
lên cơn lên kiếc gì đó. Mà cũng có thể cậu ta bị một con cá nào đó, một sinh
vật nào đó, thậm chí một con người nào đó nếu giả định cho đến cùng, tấn công.
Mọi chuyện đều có thể xảy ra, nhưng hiện giờ chúng ta chưa nhận được...

Tiếng
bánh xe siết trên sỏi ở bãi đỗ xe công cộng trước đồn làm Brody bỏ dở câu nói.
Cửa xe kêu sầm một tiếng, và Len Hendricks lao như bay vào đồn. Trên người anh
chỉ độc chiếc quần bơi. Thân anh lấm tấm dính những hạt cát xám nhạt, đồng màu
với cốc cà phê nhựa. Anh ta dừng lại giữa phòng khách.

-
Thưa thủ trưởng...

-
Cậu mới tắm về đấy à, Leonard? - Brody, sửng sốt vì hình dạng anh ta, bèn hỏi.

-
Lại một vụ tấn công nữa! - Hendricks hổn hển thốt ra.

Tay
phóng viên Times hoạt bát hẳn lên:

-
Thế vụ đầu tiên là từ bao giờ?

-
Chúng tôi vừa mới bàn đến nó, Leonard ạ, - Brody nói. - Tôi không muốn một ai
đưa ra những kết luận hấp tấp, trước khi chúng ta có thể nắm chắc là chuyện gì
đã thực sự xảy ra. Mẹ kiếp, cậu bé có thể chết đuối được lắm chứ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3