Người đọc - Phần I - Chương 01 - 02 - 03
Phần
một
1
Hồi mười
lăm tuổi tôi bị viêm gan. Bệnh phát vào mùa thu và dứt vào mùa xuân. Tiết trời
càng lạnh và càng tối thì người tôi càng yếu đi. Sang đến năm sau thì tình hình
mới khá lên. Tháng Giêng trời ấm, mẹ kê giường cho tôi ra ngoài bao lơn. Tôi
nhìn thấy bầu trời, mặt trời, mây và nghe thấy lũ trẻ chơi trong sân. Sẩm tối
một ngày tháng Hai tôi nghe con chim két hót.
Gia đình
tôi ở trên tầng ba một ngôi nhà bề thế xây hồi cuối thể kỷ ở phố Blumenstrasse.
Lần đầu ra đường, tôi đi từ nhà đến phố Ga. Vào một ngày thứ Hai trong tháng
Mười, trên đường từ trường về nhà tôi đã bị nôn. Đã từ vài hôm tôi thấy yếu
trong người, yếu như chưa bao giờ yếu thế trong đời. Chân cẳng nặng như chì. Ở
nhà hay đến trường, mỗi khi lên thang gác là tôi không nhấc nổi chân. Ăn uống
cũng không vào. Ngay cả khi đói bụng ngồi vào bàn thì chẳng mấy chốc đã ngán
tận cổ. Sáng sớm ngủ dậy mồm khô khốc, có cảm giác gan ruột nặng như đá và nằm
sai chỗ trong cơ thể. Tôi xấu hổ vì yếu nhược như thế. Tôi càng xấu hổ khi bị
nôn. Đó cũng là chuyện chưa xảy ra lần nào trong đời. Mồm đầy ứ, tôi mím chặt
môi định nuốt xuống, tay bưng mồm nhưng vẫn nôn ộc ra kẽ tay. Rồi tôi dựa vào
tường nhà, nhìn đống nôn dưới chân và ọe ra chất nhầy nhàn nhạt.
Một người phụ nữ
chạy lại giúp tôi, và cô làm việc đó một cách thô bạo. Cô tóm tay và xềnh xệch
lôi tôi qua một hành lang tối đi và sân sau. Phía trên là dây phơi quần áo
chăng từ cửa sổ này qua cửa sổ kia. Ngoài sân xếp đầy gỗ, trong nhà xưởng mở
toang có tiếng lưỡi cưa rít và mùn cưa bay. Bên cạnh cửa vào sân có vòi nước.
Người phụ nữ mở vòi, trước tiên rửa tay tôi, rồi cô hứng nước trong lòng bàn
tay khum khum táp vào mặt tôi. Tôi lấy khăn mùi soa lau khô mặt.
“Cầm lấy cái kia!”
Bên cạnh vòi nước có hai cái xô, cô lấy một cái và vặn nước vào. Tôi hứng nước
vào cái xô thứ hai và đi theo cô qua hành lang. Cô lấy đà thật mạnh, nước hắt
tóe xuống vỉa hè và cuốn bãi nôn xuống cống. Cô lấy xô nước kia khỏi tay tôi và
xối thêm lần nữa xuống vỉa hè.
Cô đứng thẳng lên
và thấy tôi khóc. “Cậu bé,” cô ngạc nhiên nói, “kìa cậu bé.” Cô choàng tay ôm
tôi. Tôi không cao hơn cô là mấy. Tôi cảm nhận bầu vú cô áp vào ngực mình, ngửi
thấy hơi thở hôi hám của chính mình cùng mồ hôi mới của cô trong vòng tay ôm
chặt và không biết để hai tay vào đâu. Tôi thôi khóc.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Cô hỏi nhà tôi ở
đâu, đặt xô vào hành lang rồi đưa tôi về nhà. Cô đi cạnh tôi, một tay cầm cặp
xách của tôi còn tay kia nắm tay tôi. Đường từ phố Ga về Blumenstrasse không
xa. Cô đi nhanh và dứt khoát, làm tôi cũng dễ bước theo. Đến trước cửa nhà tôi
cô chia tay.
Ông bác sĩ mà mẹ
tôi mời đến nhà cùng ngày hôm ấy chẩn đoán chứng viêm gan. Một hôm nào đó tôi
kể cho mẹ nghe về người phụ nữ. Nếu không thì tôi đoán là mình cũng chẳng đến
thăm cô. Song đối với mẹ tôi thì dĩ nhiên là khi nào khỏe trở lại tôi nên bỏ
tiền túi mua một bó hoa, đến chào và cảm ơn cô. Vậy là cuối tháng Hai tôi đi
đến phố Ga.
2
Ngôi nhà ở phố Ga
bây giờ không còn nữa. Tôi không nhớ nó bị phá đi bao giờ và tại sao. Đã nhiều
năm tôi không về thành phố quên hương. Ngôi nhà hiện tại được xây hồi thập kỷ
1970 hay 89, có năm tầng và tầng mái hoàn thiện, không có cửa sổ nhô ra hoặc
bao lơn, tường trơn nhẵn và sáng màu. Nhiều nút chuông cửa của các căn hộ nhỏ,
những căn hộ mà người ta đến rồi đi, tựa như thuê xe hơi để đi rồi trả tiền. Hiện
nay ở tầng trệt có một cửa hàng máy tính, ngày trước là một hiệu thuốc, một nhà
bán thực phẩm và hiệu cho thuê băng video.
Ngôi nhà ngày xưa
cũng cao như thế nhưng có bốn tầng, tầng trệt là các khối sa thạch mài góc, ba
tầng trên xây gạch với các cửa sổ nhô ra, bao lơn và khung viền cửa sổ bằng sa
thạch. Bậc tam cấp dẫn lên tầng trệt và cầu thang ở dưới rộng, trên hẹp dần,
hai bên xây bệ chắn làm nên cho tay vịn bằng sắt rèn và đoạn kết xoắn trôn ốc.
Hai bên cửa là đôi cột, mỗi góc kèo có một chiếc đầu sư tử, một con nhìn ngược
lên phố Ga, con kia nhìn xuôi xuống. Lối đi vào nhà mà người phụ nữ dẫn tối đến
vòi nước trong sân là lối cửa bên.
Từ bé tôi đã để ý
đến ngôi nhà này. Nó chế ngự cả dãy phố. Dường như nếu nó nặng hơn và rộng hơn
chút nữa thì mấy nhà xung quanh phải né ra nhường chỗ cho nó. Tôi tưởng tượng
ra trong đó là khoang cầu thang với đường diềm đắp nổi, lắp gương và trải thảm
có họa tiết Đông phương được đè căng bởi các thanh đồng bóng loáng. Tôi cho
rằng trong một căn nhà quý phái thì phải có những người quý phái ở. Nhưng vì
ngôi nhà đã ngả màu sẫm bởi năm tháng và khói tàu hỏa nên tôi hình dung ra
những cư dân quý phái ấy cũng u ám, kỳ quặc, có khi điếc hay câm, biết đây lại
gù lưng hoặc thọt chân cũng nên.
Những năm về sau
tôi luôn nằm mơ về ngôi nhà ấy. Những giấc mơ từa tựa nhau, là những biến thái
của một giấc mơ hay một chủ đề. Tôi đi qua một thành phố lạ và nhìn thấy ngôi
nhà. Trong một khu phố mà tôi không quen, tôi thấy nó đứng trong một dãy phố.
Tôi đi tiếp, đầu óc rối bời vì tuy biết ngôi nhà nhưng lại không quen khu phố
đó. Rồi tôi sực nhớ ra là mình đã thấy nó rồi. Nhưng tôi lại không nghĩ đến phố
Ga ở thành phố quê hương mà nghĩ đến một thành phố khác, một nước khác. Ví dụ
tôi mơ đến thành Rome, nhìn thấy ngôi nhà và nhớ là đã từng thấy nó ở Bern. Với
hồi ức trong mơ ấy, tôi cảm thấy yên tâm; nhìn thấy ngôi nhà trong một khung
cảnh lạ lẫm tôi cảm thấy không có gì đặc biệt hơn là tình cờ gặp mặt một người
bạn cũ ở chốn xa lạ. Tôi quay lại ngôi nhà ấy, đi lên bậc tam cấp. Tôi muốn vào
nhà. Tôi ấn nắm đấm cửa.
Nếu tôi mơ thấy
ngôi nhà ở nông thôn thì giấc mơ dài hơn, hoặc sau đó tôi hồi tưởng rõ hơn về
các chi tiết. Tôi đi ô tô, tôi thấy ngôi nhà phía tay phải và đi tiếp, thoạt
tiên chỉ thấy bối rối vì một ngôi nhà rõ ràng ở trên phố mà nay lại đứng giữ
cánh đồng. Sau đó sực nhớ là tôi đã thấy nó ở đâu rồi, và lại càng bối rối gấp
bội. Nếu tôi nhớ lại đã thấy nó ở đâu thì tôi quay xe trở lại. Đường sá trong
mơ lúc nào cũng vắng bóng người, tôi quay đầu xe trong tiếng bánh xe rít ken
két và phóng như bay. Tôi sợ đến quá chậm và phóng nhanh hơn. Rồi tôi thấy nó.
Ngôi nhà đứng giữa những cánh đồng bao quanh, cải dầu, lúa mạch hoặc nho ở vùng
Pfalz, oải hương miền Đông Nam Pháp. Đồng rất bằng phẳng, đâu đó gợn đồi nhấp
nhô. Không có cây cối. Trời rất sáng, nắng chói, không khí lung linh, và mặt
đường loáng thoáng vì nóng. Những bức tường chắn chịu lửa làm cho ngôi nhà mang
vẻ dị biệt và hụt hẫng. Như những bức tường chắn chịu lửa của bất kỳ nhà nào.
Trông nó không u ám hơn ngôi nhà ở phố Ga, nhưng cửa sổ đầy bụi bặm và cản
không cho thấy trong các phòng có gì, kể cả rèm cửa. Ngôi nhà mù.
Tôi dừng xe cạnh
đường và đi ngang qua đường tới cạnh nhà. Không có ai cả, chẳng nghe thấy gì,
kể cả tiếng động cơ xa xa hay tiếng gió, tiếng chim. Một thế giới chết. Tôi đi
lên bậc tam cấp và ấn nắm đấm cửa.
Nhưng tôi không mở
cửa. Tôi thức dậy và chỉ biết đã đặt tay lên và ấn nắm đấm cửa xuống. Thế rồi
tôi nhớ lại toàn bộ giấc mơ, và nhớ cả việc là mình đã nằm mơ.
3
Tôi không biết tên
người phụ nữ nọ. Với hoa trong tay, tôi ngập ngừng đứng trước cửa và hàng nút
chuông. Có lẽ nên quay về thì hơn. Nhưng lúc ấy có một người đàn ông từ trong
nhà đi ra hỏi tôi muốn tìm ai, và chỉ tôi lên nhà cô Schmitz ở tầng bốn.
Không có đường diềm
đắp nổi, không có gương, không có thảm. Những gì của vẻ đẹp ngày xưa có lẽ từng
có trong khoang cầu thang thì nay đã tàn lụi, và vẻ đơn sơ của nó không thể so
sánh với mặt tiền tráng lệ. Màu sơn đỏ của các bậc thang bị vết chân mài vẹt ở
giữa, tấm nhựa dập nổi dán lên tường cao tới vai đã mòn, và những thanh gỗ bị
khuyết ở tay vịn cầu thang được thay bằng dây buộc. Có mùi nước tẩy sàn. Cũng
có thể mãi về sau này tôi mới nhận ra tất cả những điều đó. Lúc nào mọi thứ
cũng vừa bệ rạc vừa sạch sẽ và toát ra vẫn một thứ mùi nước tẩy sàn, thỉnh thoảng
trộn lẫn mùi cải và đậu, mùi xào nấu thức ăn hay quần áo ngâm sôi. Chẳng bao
giờ tôi được biết gì hơn về những người khác sống trong nhà, ngoài những mùi
ấy, những tấm thảm chùi chân trước cửa và tấm biển ghi tên dưới nút chuông. Tôi
không nhớ đã gặp mặt ai đó trong số họ ở cầu thang.
Tôi cũng chẳng nhớ
ra là đã chào cô Schmitz như thế nào. Chắc là tôi đã sắp xếp sẵn và nói vài ba
câu về bệnh trạng của tôi, về chuyện cô giúp đỡ tôi và cảm ơn. Cô chỉ tôi đi
vào bếp.
Phòng bếp là căn
lớn nhất trong căn hộ. Trong bếp có bếp lò và bồn rửa, bồn tắm và lò đun nước
tắm, bàn và hai ghế đẩu, tủ lạnh, tủ quần áo và bộ ghế đệm. Trên ghế trải tấm
chăn nhung the. Phòng bếp không có cửa sổ. Ánh sáng lọt qua ô kính trên cửa dẫn
ra bao lơn, không nhiều lắm, bếp chỉ hửng lên khi cửa mở ra. Lúc ấy nghe được
cả tiếng cưa rít và ngửi thấy mùi gỗ từ xưởng mộc dưới sân.
Trong căn hộ còn có
một phòng khách nhỏ và hẹp, với cái rương đựng bát đĩa, bàn, bốn chiếc ghế, ghế
mềm có tựa đầu và lò sưởi. Phòng này hầu như không bao giờ được sưởi trong mùa
đông, còn mùa hè đến thì chẳng mấy khi sử dụng. Cửa sổ mở ra hướng phố Ga và từ
đó nhìn ra khuôn viên của nhà ga ngày xưa được đào đi xới lại nhiều lần, đây đó
đã đổ xong lớp móng của các ngôi nhà mới cho tòa án và công sở. Cuối cùng,
trong căn hộ còn một nhà xí không cửa sổ. Nếu trong nhà xí có mùi thì hành lang
cũng có mùi.
Tôi cũng chẳng nhớ
là chúng tôi nói chuyện gì trong bếp nữa. Cô Schmitz ủi quần áo, cô trải một
chiếc chăn len và khăn lanh lên bàn và lấy từng thứ quần áo một từ trong giỏ,
ủi, gấp rồi đặt lên một trong hai chiếc ghế. Tôi ngồi trên ghế kia. Cô cũng ủi
cả đồ lót của mình, và tôi không muốn nhìn, song cũng chẳng ngó ra chỗ khác
được. Cô mặc một chiếc yếm dài không tay, nền xanh với những đốm hoa đỏ nho nhỏ
in chìm. Mái tóc vàng tro dài ngang vai, cặp lại sau gáy. Cánh tay để trần
trắng bệch. Cô nắm lấy bàn ủi, đẩy và đặt trở lại, sau đó gấp và cất quần áo
bằng những động tác chậm rãi và tập trung như thế khi cúi xuống ngẩng lên.
Trong ký ức của tôi, những khuôn mặt mà cô có sau này lấp lên khuôn mặt cô ngày
ấy. Khi tôi làm tái hiện hình ảnh cô ngày xưa trước mắt mình thì cô hiện ra
không có mặt. Tôi phải tái tạo khuôn mặt ấy. Trán cao, lưỡng quyền cao, mắt
xanh xám, cặp môi nở đều đặn không vết nhăn, cằm cương nghị. Một khuôn mặt to,
nghiêm và nữ tính. Tôi biết là tôi thấy khuôn mặt cô đẹp. Nhưng tôi không hình
dung ra được vẻ đẹp ấy.