Tứ quái TKKG (Tập 15) - Chương 10 - Phần 1
MƯỜI:
BỊP BỢM
Thằng nhãi ranh chừng mười
hai tuổi mà đã phì phèo thuốc lá. Nó bước vào gian sảnh khách
sạn Palace với bộ mặt câng câng ra vẻ một tay anh chị trong làng du
đãng miệng còn hôi sữa. Nó thản nhiên ngó đám người lớn đứng tụm năm tụm ba rồi
khinh khỉnh đi một mạch lại quầy tiếp đón.
Thằng nhãi ranh không thèm
để ý đến ai, chống một tay xuống mặt quầy. Tay còn lại nó gí phong
thư vô sát khuôn mặt người gác cổng, lúc đó đang trò chuyện với một bà lão
chống gậy.
Nó hất hàm:
- Ê này ông. Cho ngài Thomas Owen đó. Hiểu vấn đề chớ?
Người gác cổng giận tím người nhưng không dám
vọng động. Một thằng oắt con đầu đường xó chợ liều lĩnh như thằng nhãi này
có thể làm phiền phức nguyên một cái khách sạn “VIP” chứa toàn “ông lớn” như
chơi. Nó mà “quậy” thì ông chỉ có nước bị giám đốc đuổi việc. Ông cắn răng nuốt
cục bồ hòn và cầm lấy lá thư dơ dáy.
Có điều cả ông gác cổng và thằng nhãi mất dạy đều không biết
họ đang là mục tiêu theo dõi của một chàng cao bồi. Coi, gã cao bồi để ria mép
vừa đi ngang đã dừng lại nhìn họ chằm chằm.
Thằng nhãi tiếp tục phun một luồng khói thuốc làm bà lão ho
sặc sụa. Nó nhếch mép:
- Nhớ đó nha gác-dan. Phải đưa tận tay ngài Thomas Owen!
- Tao biết rồi. Mày cút đi thằng nhóc!
Thằng nhãi cười láu lĩnh rồi búng tàn thuốc lá bay thật điệu
nghệ trước khi rời khỏi khách sạn. Nó huýt sáo một bài nhạc đường phố mà không
biết gã cao bồi để ria mép đang bám theo.
“Mẹ mày, thằng chó chết!” – gã đàn ông rủa thầm. Trời đất, gã
chính là họa sĩ thiết kế phim, bạn chí thân của đạo diễn kiêm tài tử Owen và
nhà quay phim đầu hói Louis Walker chớ ai. Tên gã là: Joe Bingham không thêm
không bớt.
Mặt Bingham lúc này sa sầm. Gã phun một bãi nước bọt rồi dính
với thằng nhãi như bóng với hình.
Ê, thằng nhãi ranh tỉnh bơ băng qua đường, quẹo vào một con
hẻm rồi lẩn vào giữa những khu vườn sau khi cắm lên miệng một điều thuốc mới.
- Đứng yên!
Hai bả vai gầy nhom của thằng nhãi kêu răng rắc như bị một
tảng đá từ phía sau đập tới. Nó nhăn mặt đau đớn quay nhìn “cao thủ” Bingham.
Trời ạ, cái gã cao bồi gian ác này nó chưa diện kiến một lần nào trong đời. Nó
rên rỉ:
- Buông... tao... ra...
- Mày hỗn hả?
Thằng nhãi nổ đom đóm mắt vì cái tát bất ngờ như trời giáng.
Máu từ môi nó bắt đầu chảy ri rỉ. Bingham rít lên:
- Mày chỉ có hai cách chọn lựa thôi thằng oắt con ạ. Thứ
nhất, mày phải nói cho tao biết đứa nào đã đưa lá thư gửi ông Owen cho mày, mày
sẽ được thưởng 50 mark. Thứ hai, mày có quyền câm như hến. Và a lê hấp, tao sẽ
tẩn cho mày đến lúc xuống lỗ.
Bao nhiêu nỗi đau đớn trong cơ thể thằng nhãi ranh biến mất.
Chứ gì nữa, 50 mark đâu phải chuyện khơi khơi. Nó nhe răng ranh mãnh:
- Tôi chọn cách thứ nhất. Tôi đâu phải là thằng ngu, đúng
không?
- Vậy... thằng nào?
- Chớ nôn nóng ông bạn, ủa xin lỗi, anh Hai. Rồi đâu còn có
đó. Cái thằng cho tôi 5 mark để đưa thư có một cái sẹo trắng bên mép trái.
- Tên họ của nó?
- Ai mà biết. Anh Hai cứ đến nông trại tàn tạ của nó ở ngoại
ô mà hỏi. Để tôi vẽ bản đồ cho sư huynh thưởng ngoạn nghe.
Thằng nhãi lấy mấy ngón chân nguệch ngoạc dưới đất là Bingham
hiểu liền. Tưởng gì chớ cái nông trại chó đẻ ấy gã và đoàn làm phim có lần suýt
chọn làm ngoại cảnh cho đĩa bay đổ bộ nữa kia.
Gã hài lòng móc túi đưa đúng 50 mark.
- Mày câm tuyệt đối, nhớ chưa? Hễ hé răng với thằng sẹo mép
là tao cho qua đời.
- Hề hề, tôi sẽ câm như thóc, nhưng xin anh Hai chi thêm cho
“em” 5 mark nữa.
- Hả? Tao đã giao kèo với mày rồi kia mà?
- Lạy ông trời, sư huynh thiếu sáng suốt quá. Cặp môi rỉ máu
của tiểu đệ cần phải có thuốc men đắp lên chớ.
- Thằng cà chớn!
Mặc kệ Bingham chửi rủa, thằng nhãi rất “vô tư” cầm từ 5 mark
chấm vô mép như chấm một miếng bông gòn.
*
Trên chiếc đi-văng trong một căn phòng khách sạn, lão đầu hói
làm nghề quay phim tên Louis Walker liếc cặp mắt ti hí như mắt lươn về sếp
Thomas Lucky Owen. Coi, nhà đạo diễn phim viễntưởng dận gót giày trên nền
phòng nghe thình thịch.
- Khốn nạn thật!
Lão hói cũng thở dài:
- Ừ, quá khốn nạn.
- Không lẽ tụi mình phải bó tay trong những trường hợp này
sao?
- Ừ, đành phải bó tay.
- Đầu mày còn nhức không?
- Còn nhức.
- Nếu mày không xử sự ngu xuẩn như vậy thì mọi chuyện đã
không xảy ra.
- Nhưng nó tấn công tao từ trong bóng tối. Ừ, tao ngu xuẩn
thật.
Thomas Lucky Owen hai tay bưng lấy đầu. Gã gầm lên như muốn
rung chuyển căn nhà:
- Tại sao cái câu gì mày cũng lặp lại lời tao nói hết vậy?
Khác chi mày lấy cục đá nện vào đầu tao.
Đúng lúc đó cánh cửa phòng mở toang. Bingham xồng xộc bước
vào với bộ ria vểnh lên như hai thanh kiếm. Gã họa sĩ chưng hửng nhìn hai đồng
nghiệp đang to tiếng cãi vã.
- Có chuyện gì hả Owen?
- Ừ, điều tao lo lắng đang xảy ra. Tao vừa nhận được một lá
thư nặc danh ở quầy tiếp đón. Mày đọc là biết liền.
Bingham liếc sơ qua và quăng tờ giấy đánh máy nát nhàu đó
xuống sàn. Gã định dùng chân chà nát tờ giấy.
- Ê, khoan làm rách đó Bingham. Mày đã đọc câu tụi nó đòi
mình “chi” tới 100.000 mark chưa?
Giọng Bingham lạnh lẽo:
- Rồi. Sau khi mình giao một trăm ngàn mark thì chúng mới trả
lại chiếc xe Camping chớ gì?
Lão hói Walker nắn ngón tay lên trán, rên rỉ:
- Chó đẻ thiệt... Không xì tiền, tụi nó sẽ tố cáo chúng ta.
Owen nghiến răng kèn kẹt:
- Bởi vậy mới bế tắc. Chẳng lẽ...
Bingham đấm cườm tay vô tường nghe cái rầm:
- Không có chuyện đầu hàng ở đây. Chúng đừng hòng rớ được một
xu gỉ.
- Hả? Mày có mưu kế gì à?
- Chẳng mưu kế gì ráo. Tao muốn thằng chó đẻ tống tiền phải
nhừ xương.
- Sao?
Lúc này, gã họa sĩ mới ngoác miệng cười:
- Vì tao đã biết địa chỉ của nó và diện mạo nó, thưa ngài
Owen.
Owen và Walker hí hửng nghe gã kể đầu đuôi vụ thằng
nhãi giao liên “bán đứng” người giao thư như thế nào. Khỏi phải nói, đạo diễn
kiêm tài tử Owen cười lên khoái trá:
- Mày đúng là vàng khối Bingham ạ. Chậc chậc, tao ngứa nghề
quyền Anh lắm rồi. Tao thật chẳng muốn ở vào địa vị thằng tống tiền đó chút
nào. Giờ đây nó sẽ biết thế nào là lễ độ...
*
Tại khách sạn Palace.
Khi ba quái trở về thì rừng người đã thưa thớt. Đám báo chí
và truyền hình đã lên xe đi mất từ lúc nào. Tuy nhiên rải rác đây đó từng nhóm
người vẫn ráng tụ tập để tranh cãi bất tận.
Gaby nghe một quý bà đeo kim cương đầy người nói với người
đàn ông cùng đi:
- Ơn Chúa, chúng ta đã được nghỉ lần cuối trước khi mọi thứ
sẽ nổ tung Alyons à. Mà lúc này sau chuyến đổi gió, mới là lúc em muốn sống
nhất, thật khủng khiếp!
Alyons của bà ta nhún vai:
- Chỉ cần những người ngoài Trái Đất có
chút óc thẩm mĩ thôi, chúng sẽ thấy là em cực kì quyến rũ, em yêu ạ. Như vậy,
chuyến đi nghỉ đâu có vô ích.
Tarzan nghe vậy nhún vai:
- Nhưng tôi tin có một nhân vật không
biết buồn chút nào.
Hắn tiên đoán như thần. Đúng là có duy
nhất một người chẳng hề quan tâm đến hiểm họa tận thế trên toàn Trái Đất. “Gã”
điềm nhiên ngự tại chỗ, no nê và thỏa mãn. “Gã” vừa kết thúc món điểm tâm thứ
sáu với một li kem khổng lồ. “Gã” không phải là Tròn Vo thì còn ai vào đây.
Tarzan nhìn nó đầy thán phục:
- Ở đây có chuyện gì mới không?
- Có. Nhà bếp ở đây nấu ăn hết sảy!
- Thôi, dẹp chuyện ăn uống đi! Mày biết
giáo sư Oberthur đang ở đâu không? Tao đã nghĩ lại. Có lẽ trước khi đi gặp tên
Săn Tóc Người, tụi mình nên hỏi thêm giáo sư về chuyện đĩa bay.
- Hừm. Đợi tao trả tiền đã.
Tại phòng họp còn lại giáo sư Oberthur,
giáo sư Alusbyn, ông giám đốc khu nghỉ, ông thị trưởng và ông cảnh sát trưởng.
Chỉ trừ giám đốc Schneider là lăng xăng chạy qua chạy lại, còn hai nhà bác học
và hai nhà chức sắc ngồi phịch một chỗ với vẻ tiều tụy thấy rõ.
Bóng của Tứ quái thập thò ngoài cửa
khiến Oberthur thấy ngay. Ông đứng dậy nói với các nhân vật trong phòng:
- Xin lỗi quý vị, tôi phải ra ngoài với
các cháu nhỏ. Chắc chắn là tôi sẽ nhức đầu bởi các câu hỏi hóc búa của bốn nhà
báo trẻ tuổi đây. Tôi vẫn luôn luôn tin vào các tờ báo nhà trường, nó làm tôi
hồn nhiên và sống lâu hơn.
Ông bắt tay từng quái một:
- Lên phòng tôi đi, các bạn trẻ.
Phòng của giáo sư Oberthur thật xinh xắn
và thuận lợi. Cửa lớn, cửa sổ đều trông ra phố, sàn trải thảm xanh lá cây,
tường quét vôi màu hồng. Trong tủ lạnh có nước ngọt và cô-la, tha hồ uống tùy
thích.
Oberthur nói mệt mỏi:
- Tôi không ưa cái trò đăng đàn diễn
thuyết này chút nào. Cứ như là một trò hề. Họ đã thổi phồng quá đáng. Đem khoa
học đi làm xiếc cho người ta bàn tán bù khú. Nhưng tôi đã không kiềm chế họ
được, nhất là khi hai ông giám đốc khách sạn và giám đốc khu nghỉ đã về hùa với
nhau. Thật đáng tiếc.
Gaby nhìn ông lo lắng:
- Sức khỏe ông sau vụ bị tấn công ra sao
ạ?
- Ồ, yên tâm đi cháu gái. Thậm chí, nhờ
thuốc mê, đêm qua tôi đã ngủ rất ngon lành.
Karl lên tiếng:
- Tụi cháu vẫn quan tâm đến vấn đề đĩa
bay. Có thật có những chiếc đĩa bay không ông? Và ngành nghiên cứu vũ trụ nói
gì về những hiện tượng này?
Vị giáo sư gật đầu:
- Mọi việc khởi sự từ năm 1945. Trong
năm đó, người ta ghi lại những cuộc chứng kiến đĩa bay đầu tiên. Hiện thời con
số thống kê đã lên đến một trăm nghìn vụ. Thậm chí cựu tổng thống Mỹ Jimmy
Carter cũng nằm trong số người tin rằng đã trông thấy đĩa bay. Kiểu trông thấy
này được gọi là sự gặp gỡ ở dạng một. Nếu đĩa bay hạ cánh và các sinh vật ở
trong đó bước ra thì gọi là sự gặp gỡ ở dạng hai. Còn gặp gỡ dạng ba là lúc
sinh vật bắt chuyện với người Trái Đất hoặc người Trái Đất bị bắt và bị đưa vào
lòng đĩa bay.
- Như trường hợp của ông phải không ạ?
- Có vẻ là như vậy. Và cháu Gaby thì ở
dạng hai. Cách đây ba mươi năm, chính phủ Mỹ đã kêu gọi lập một hội đồng các
nhà bác học chuyên nghiên cứu các hiện tượnng đĩa bay. Họ gồm các nhà thiên văn
học, khí động học, kĩ sư và các nhà vật lý. Kết quả cuộc nghiên cứu là trên
chín mươi phần trăm những vụ trông thấy đĩa bay được lí giải dễ dàng. Và trong
thực tế, những vật được coi là đĩa bay chỉ là những tinh cầu sáng, sao băng,
thiên thạch, các quầng sáng phương bắc, những đám mây đen, khinh khí cầu, luồng
đèn pha, những con chim... Tuy nhiên vẫn còn mười phần trăm hiện tượng không
thể phân tích bằng lời được. Nhưng không phải vì thế mà mười phần trăm còn lại
là các đĩa bay.
Gaby kê sổ tay lên đầu gối ghi chép lia
lịa. Cô bé có vẻ hào hứng hơn bao giờ hết.
Vị giáo sư uống một hớp cô-la thấm giọng
rồi nói tiếp:
- Riêng về các cuộc gặp gỡ ở dạng hai và
dạng ba thì có thể giải thích trong mọi trường hợp. Hầu hết người ta đều đổ
thừa cho sự nhầm lẫn của giác quan. Để kết luận về đĩa bay tôi nhớ đến chuyện
này: Ngày nay chúng ta đã có những hệ thống thiết bị mà không một đĩa bay nào
qua mắt được. Chẳng hạn hệ thống “Prairie Meteorite Network” ở bang Nebraska,
Hoa Kỳ. Hệ thống quan sát này bao gồm sáu mươi tư ống kính tự động, chia làm
mười sáu trạm cách nhau 225 cây số. Các ống kính làm việc hai mươi tư trên hai
mươi tư. Các máy điện tử sẽ chụp lại mọi vệt sáng mà các thiên thạch kéo theo.
Từ mục đích bình thường đó, người ta theo dõi luôn trên phim đường bay của một
đĩa bay, nếu có. Ấy thế mà đến nay vẫn chưa phát hiện được một chiếc đĩa bay
nào.
Tarzan hỏi một câu cắc cớ:
- Vậy theo ông, có đĩa bay thực hay
không?
- Cho tới nay, khoa học về vũ trụ bác bỏ
sự tồn tại của các vật thể bay đến từ ngoài Trái Đất. Nhưng rất nhiều người
không đồng ý điều đó. Đối với họ đĩa bay phải có thực như cơm áo hàng ngày.
Đừng có tưởng tôi nói đùa, kể từ khi chúng ta ngày càng có nhiều bằng chứng là
vũ trụ vừa bao la vừa trống rỗng thì nhân loại cảm thấy chán nản. Chứ sao, cuộc
sống phải có sự cạnh tranh và hấp dẫn nếu trên các hành tinh khác đầy những
sinh vật sống. Và nếu những sinh vật này tiến bộ hơn chúng ta một ngàn lần về
mặt khoa học kĩ thuật thì rõ ràng họ lái đĩa bay đến thăm Trái Đất là chuyện tự
nhiên. Có người còn nghĩ biết đâu những sinh vật dị dạng ấy lại là cứu tinh của
chúng ta trong những lúc hiểm nghèo như nạn đói, chiến tranh, dịch bệnh, nạn
tàn phá môi trường... Tôi luôn luôn cho rằng đó là những ý nghĩ lười biếng và
dựa dẫm của những kẻ bất lực.
Tròn Vo xoa cái bụng căng cứng:
- Còn sự kiện tối qua mà ông gặp phải
thì sao hả ông?
- Sẽ có ngày tôi trả lời được cho cháu.
Tarzan nói bằng tất cả sự kính trọng:
- Tụi cháu xin cảm ơn ông.
*
Tứ quái đạp xe về tới phố Forcheimer thì
mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Cựu huấn luyện viên Judo kiêm công chức bưu điện
về hưu Gutsche đang lúi húi nhổ cỏ dại ngoài vườn. Cô cháu gái Petra chụp
lên đầu chiếc nón bằng vải Jeans cũng phụ ông bác ruột một tay lao động.
Tứ quái ập vào cổng như một cơn lốc.
Giọng Tròn Vo lớn nhất:
- Đã tìm ra Người Tỏi
rồi Petra ơi!
Hai bác cháu Petra xúm xít
quanh Tròn Vo. Nhưng nó có biết gì mà kể. Tarzan đành làm thay nhiệm vụ của
thằng mập.
Ông Gutsche nghe xong ngẩn ngơ:
- Thằng Ewald Nossel ư? Tôi chưa nghe
chưa thấy bao giờ. Nhưng cái nông trại tồi tàn đó thì tôi biết. Tôi vẫn thường
lái xe ngang qua đó.
Tròn Vo định nhào xuống phía bếp vì đánh
hơi thấy mùi vị bánh nướng nhưng đại ca Tarzan đã phá tan những khát vọng của
nó. Hắn nói:
- Tụi cháu phóng về đây chủ yếu là để
trình diện cho gia đình khỏi lo. Bây giờ tụi cháu phải lên đường gấp. Cần phải
tiếp cận sào huyệt bọn Săn Tóc Người để coi thằng Nossel và gã đồng bọn ba đầu
sáu tay đến cỡ nào. Cháu tin rằng lần này...
Ông Gutsche ngắt lời:
- Phải thật cẩn thận, Tarzan. Bọn đồ tể
mới này không từ khước bất cứ thủ đoạn dã man nào.
- Dạ.
Tứ quái mở cuộc hành trình trong vòng
nửa tiếng. Bốn chiếc xe đạp lao vùn vụt qua thị trấn, một cánh rừng thưa, một
đoạn đường quốc lộ rồi băng vào con đường đồng.
Đất nơi này bằng phẳng. Mặt trời chói
chang trên bầu trời không một gợn mây. Tròn Vo mồ hôi đầm đìa, nhăn nhó luôn
miệng vì bị... hụt món bánh nướng. Bầy muỗi vo ve quanh lũ trẻ. Một khu rừng
nhỏ nhô lên trước đường chân trời. Ngay liền đó là nông trại của Nossel không
trật vào đâu được. Đám trẻ tản ra núp sau những thân cây ở bìa rừng.
Tròn Vo nhận xét:
- Khỏi cần đĩa bay tấn công, căn nhà này
cũng tự... tận thế.
Thằng mập nói không sai. Cái nông trại như sắp sập. Ngôi nhà
chính, nhà kho, nhà chứa cỏ và dãy nhà phụ đã tàn tạ hết chỗ nói. Cạnh nhà có
một buồng cầu tiêu lộ thiên. Buồng cầu tiêu có khi tồn tại lâu hơn số phận
những thứ khác.
Coi, cánh cửa nhà cầu mở ra. Một gã đàn ông mặc áo sơ-mi dài
tay, kéo quần tỉnh bơ bước đủng đỉnh nheo mắt ngắm mặt trời.
Gaby cảm thấy choáng váng. Cô bé nói xúc động:
- Chính là gã nói giọng khàn khàn.
Tarzan giật mình:
- Thằng... Sẹo Mép?
- Ừ, mình đã nhận ra gã.
Cô bé đột ngột ngưng bặt bởi tiếng động cơ xe rền lên trên
con đường xuyên rừng. Đồng bọn chúng đến chăng? Tarzan ra hiệu cho các chiến
hữu rúc vô các đám lá. Kia kìa, một chiếc xe hơi thể thao Hoa Kỳ màu nhũ bạc
phóng như bay từ khu rừng ra bằng tốc độ như sắp sửa ủi sập cái nông trại ọp
ẹp. Máy Tính Điện Tử ngơ ngác:
- Nó sẽ biến căn nhà thành bình địa. Trời ạ, giống hệt chiếc
xe tăng khạc đạn vào lô cốt kẻ thù. May phước nó dừng lại đúng lúc. Tạ ơn Chúa!
Tarzan cũng sửng sốt:
- Tao đã từng thấy chiếc xe này. Nó là của nhà làm phim Owen.
Gã đến đây để làm gì kìa? Ồ, các bạn nhìn Sẹo Mép mà coi.
Thằng Sẹo Mép đã trả lời thắc mắc của Tarzan. Ba giây đầu
tiên thấy chiếc xe hơi màu nhũ bạc, gã cứng đờ người như bị biến thành đá, giây
thứ tư gã bật như chiếc lò xo nén bay tuốt vào nhà.
Chiếc xe đậu đúng chỗ gã vừa quay gót. Thomas Lucky Owen
xuống xe. Sau lưng nhà đạo diễn là họa sĩ cao bồi để ria mép và lão hói quay
phim tròn ùng ục với mẫu băng dính trước trán coi dị hợm.
Ba nhân vật đi như ba hung thần tới cửa nhà.
Owen đá một cú trời giáng vào tấm gỗ. Cánh cửa bật tung trong
tiếng rít rùng rợn của gã.
Cả ba vị khách không mời mà đến làm như trần gian không còn
ai.
Tròn Vo nhúc nhích sau bụi rậm. Nó nhạy cảm chuyện này nhanh
hơn hết.
- Trời đất, đám làm phim này đến đây để thanh toán Nossel và
đồng bọn chớ chẳng đùa đâu.
Tarzan cũng có suy nghĩ tương tự. Hắn dặn dò:
- Các bạn hãy chờ tôi ở đây. Phải bám thắt lưng tụi nó mới
biết chuyện gì xảy ra. Tường nhà làm bằng ván. Tôi chỉ cần áp tai vào đó là thu
thanh được nội dung cuộc “chuyện trò” của chúng.
Hắn đã nói là làm. Trong nháy mắt, dưới
sự che chở của những bóng lá um tùm, Tarzan đã mon men được tới góc chết của
gian chứa cỏ. Hắn băng qua những đống rơm cao nghệu, rồi rón rén theo hông nhà
kho, nhảy qua những mét cuối cùng giữa nhà kho và nhà chính, để rồi có mặt phía
sau ngôi nhà.