Tắt đèn - Chương 04 - 05

Chương 4
Con chó cái nằm ở gậm phản bỗng chốc vẫy đuôi
rối rít, tỏ ra dáng bộ vui mừng.
Anh Dậu lững thững từ cổng tiến vào với cái vẻ
mặt xanh ngắt và buồn rứt như kẻ sắp bị tù tội.
Cái Tý, thằng Dần cùng vỗ tay reo:
- A! Thầy đã về! A! Thầy đã về!
Mặc kệ chúng nó, anh chàng ốm yếu im lặng dựa
gậy lên tấm phên cửa, nặng nhọc chống tay cào gối và bước lên thềm. Rồi lảo đảo
đi đến cạnh phản, anh ta lăn kềnh lên trên chiếc chiếu rách.
Chị Dậu ôm con vào ngồi bên phản, sờ tay vào
trán chồng và sẽ sàng hỏi:
- Thế nào? Thầy em có mệt lắm không? Sao chậm
về thế? Trán đã nóng lên đây mà!
Anh Dậu nằm thừ không cựa, cũng không trả lời.
Chị Dậu lại gặng:
- Chắc thầy em mệt lắm thì phải? Từ sáng đến
giờ đi những đâu? Hỏi vay của ai?
Vắt tay lên trán, anh Dậu thở một tiếng dài và
cất cái giọng lề dề của người ốm:
- Tôi lên nhà lão Hội Ích.
- Có được đồng nào hay không?
- Chẳng được gì cả. Tôi cũng biết cái thằng
già ấy nó bẩn như chó, mình đả mắc nợ của nó, chẳng khi nào nó lại cho mình vây
thêm. Nhưng vì bí quá cho nên phải nhắm mắt đi liều. Quả nhiên mới cất miệng
hỏi, nó đã mắng sấm xơi sới, rồi lại dọa rằng: Ba đồng cầm đất cầm nhà, lãi
mười hai phân, đến tháng sáu này thì vừa hết hạn, tính thành ra năm đồng một
hào sáu xụ. Nếu không trả được nó sẽ cắm cả nhà đất để làm chuồng xí.
Chị Dậu cau đôi lông mày:
- Trời đất ơi! Cắm cả nhà đất để làm chuồng
xí! Ăn nói như thế thì còn trời đất nào nữa? Thế sao thầy em không đến ông cậu
hỏi tạm lấy một đồng vậy?
- Có! Tôi có hỏi! Nhưng cũng chẳng ăn thua gì.
Ông ấy nhiếc mãi vợ chồng sức dài, vai rộng mà có vài ba đồng bạc tiền sưu cũng
không chạy nổi…
Chị Dậu giậm chân xuống đất:
- Khốn nạn! Ấy ông cậu đấy! Ông cậu giàu có
nứt đổ lá vách, cả đời cháu mới hỏi vay mấy đồng, còn nỡ nhiếc móc như thế,
trách chi người ngoài! Thế bây giờ thầy em đã định hay chưa?
Anh Dậu nín lặng một hồi, rồi lại thở dài
tiếng nữa:
- Tôi đã nói với cụ Nghị Quế ở thôn Đoài… hay
là bán quách…
Đương nói giở câu, anh Dậu ngập ngừng lại
thôi, như có vật gì nghẹn ở cổ họng. Chị Dậu cố gắng:
- Bán quách cái gì? Thầy em cứ nói, ở đây có
ai mà sợ!
Anh Dậu đơm dớm nước mắt:
- Hay là bán quách cái Tý cho cụ ấy?
Chị Dậu cũng nước mắt chảy qua gò má dòng
dòng. Chị cứ cúi gầm mặt xuống, không biết trả lời ra sao. Cái Tý nghe thấy
rụng rời củ khoai trong tay, vội vàng đứng lên năn nỉ:
- Con van thầy! Con van U! thầy u để con ở nhà
chơi với em con. Con van thầy! Con van U! Thầy U đừng đem bán con.
Thằng Dần nhả vội miếng khoai trong miệng, và
sụt sịt khóc:
- Em không, nào! Em không, nào! Em không cho
bán chị Tý nào! Có bán thì bán cái Tỉu kia kìa!
Anh Dậu cũng như chị Dậu, ai náy sè sẽ gạt
thầm nước mắt và cũng giả cách làm thinh.
Cái Tý vẫn bai bải van như tế sao, một hai xin
thầy u đừng bán nó đi, tội nghiệp cho nó.
Chừng như cầm lòng không đậu với những lời
ngây thơ và thê thảm của con bé ngoan ngoãn. Chị Dậu xoa suýt cái Tỉu và yên ủi
cái Tý:
- Không! Thầy con nói đùa ấy thôi! Bán con thì
lấy ai ẵm con bé này cho u đi làm?
Cái Tý vui vẻ ngồi vào cạnh đống rễ khoai, nó
lại hý hoáy bới bới nhặt nhặt.
Một bầu không khí tẻ ngắt bao phủ cả mấy gian
nhà, người ta có thể nghe rõ tiếng đập ở hai trái tim của hai vợ chồng anh trai
cùng.
Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát. Rồi tiếng
roi quất vào vách đèn đẹt. Rồi tiếng người hỏi dữ dội:
- Đĩ Dậu có nhà đấy không?
Chị Dậu lật đật bỗng con bé con ra cổng đuổi
chó. Anh Dậu cũng ngồi nhỏm dậy và ngó ra sân.
Người nhà Lý trưởng nghênh ngang múa chiếc tay
thước với sợi dầy thừng, đưa ông Cai lệ và cây roi song hùng dũng bước vào
trong cổng. Hai người cùng ra oai giộ con chó cái và cùng nhẩy lên thềm. Phủ
đầu, ông Cai lệ chỉ cây roi vào mặt anh Dậu và quát:
- Sưu đâu? Sao không đem nộp? Người ta vào hỏi
vẫn còn ngồi ỳ ra đó!
Anh Dậu lẩy bẩy đứng dậy. Cái mặt xanh xao khi
ấy đã đổi ra sắc tái mét. Run run, anh sẽ giơ tay gãi tai:
- Thưa ông, tôi chưa có.
Ông Cai lệ thị hùng bằng hai con mắt giương
tròn:
- Cả năm chỉ có hai đồng bảy hào tiền sưu, bây
giờ anh vẫn chưa có bao giờ anh định mới có?
Với cái dáng điệu có vẻ van lơn, anh Dậu hổn
hển thở và đáp:
- Thưa ông, vì tôi đau yếu, nên chưa lo kịp,
xin ông thư cho đến mai. Thuế còn năm bữa nữa mới đăng trường kia mà!
- À! thuế còn năm hôm nữa mới đăng trường, cho
nên anh không nộp vội, phải không?
Hỏi vậy nhưng ông Cai lệ không để cho kẻ bị
hỏi được có thời gian phân trần. Nhanh như cắt, ông chuyển phắt cây roi song
sang tay trái và nắm chặt năm ngón tay phải, đưa luôn vào ngực anh Dậu một mớ
quả thụi. Cái thụi chuyên môn của người công khác hẳn thứ thụi phổ thông của
thường dân. Anh Dậu chỉ ức ức mấy tiếng, chứ không thể kêu lên được. Thuận tay,
ông Cai lệ túm lấy cổ áo anh Dậu và ngoảnh lại bảo ông người nhà Lý trưởng:
- Thừng đâu? Trói cổ nó lại. Có một suất sưu
bây giờ chưa nộp lại còn chực giở lý sự?
Tức thì hai người xúm lại, mỗi người nắm một
cánh tay anh Dậu bẻ quặt ra đằng sau lưng, rồi luồn thừng vào và riết thật
chặt. Họ trói anh chàng khốn nạn giống kiểu như nhà quê trói chó để làm thịt
vậy.
Thằng Dần òa khóc:
Cái Tý mếu máo nhếch nhác, chạy đến cạnh ông
Cai lệ, chắp tay vái lấy vái để:
- Cháu lạy hai ông! Hai ông tha cho thầy cháu.
Hai ông đừng trói thầy cháu!
Sẵn cây roi trong tay, ông Cai lệ quất luôn
cho nó mấy cái vào đít và quát:
- Bước ngay!
Con bé đau quá. Nó lăn đành đạch xuống đất và
nó rẫy rụa như con gà phải nước nóng. Thằng Dần càng khóc dữ.
Ông Cai lệ đương cơn thịnh nộ, lại thẳng tay
giơ cay roi song, toan trừng phạt thằng bé này. Chị Dậu lếch thếch ôm con bé
con chạy vào:
- Thôi. Tôi xin ông Cai! Ông tha cho cháu…
Chúng nó hãy còn bé bỏng.
Lời nói tiết tha của người đàn bà có duyên vẫn
có đôi chút hiệu lực. Thằng bé ngây thơ đã được ông Cai ân xá.
Ngoảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá, mặt
mũi nhăn như chuột kẹp, chị Dậu lại dẽ dàng kêu van ông Cai:
- Nhà tôi đương ốm… Xin ông làm phúc nới rộng
nút thừng ra cho!
Lần này không có kết quả, những lời nằn nì của
chị chỉ được ông Cai đáp lại bằng một giọng oai nghiêm:
- Không phải nới! Trói thế cũng chưa chết nào!
Mà có chết nữa, chồng chị càng khỏi đóng sưu.
Anh Dần nói xen:
- Nhưng tôi đau quá… xin ông hãy nới lỏng ra
cho tôi một tý. Nào tôi có chạy mất đâu!
Ông Cai lệ nổi cơn lôi đình, tặng luôn anh Dậu
năm bảy cái tát vào mặt và hằm hè:
- Bướng với ông à. Mày có tội thì ông mới
trói. Lại còn bướng với ông à!
Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con mắt đỏ
ngầu:
- Thôi, tôi cũng lạy ông nữa! Chẳng qua nay
mai đủ thuế thì thôi, làm gì ông phải hành hạ chồng tôi quá vậy? Có đánh thì
ông cứ đánh tôi này, bao nhiêu tội tôi xin chịu cả. Chồng tôi đau ốm chẳng làm
nên tội.
- À! Mày thách ông phải không? Hừ! Thấy ông nể
mặt mày càng làm già! Được! Ông thử cho mày biết tay! Này thách! Này thách! Này
thách!
Mỗi tiếng này thách từ miệng ông Cai đã đưa
ra, chị Dậu lại được hai ba quả thụi vào ngực.
Đứng không vững, chị này ngã phịch xuống đất.
Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẻo. Cái Tý, thằng Dần mỗi đứa nấp một
xó cột nhìn trộm bố mẹ phải đòn. Cả hai đứa cùng nức nở khóc không ra tiếng.
Người nhà Lý trưởng chỉ cái tay thước vào mặt
chị Dậu:
- Không thấy người nào lắm đều như chị. Nếu
nhà ai cũng bướng như nhà này, có lẽ thuế của nhà nước đến bỏ. Thôi! Đứng dậy
mà đi chạy sưu cho chồng, đừng ngồi ăn vạ đây nữa!
Rồi hai ông hằm hằm túm lấy đầu thừng, sền sệt
điệu anh Dậu xuống thềm. Tới cổng, anh chàng khốn nạn quay lại dặn vợ:
- U nó để cái Tỉu ở nhà, sang ngay bên cụ Nghị
Quế cho tôi…

Chương 5
Bước vào khỏi cổng thôn Đoài, đã thấy nhà ông
Nghị Quế.
Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp,
hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như phô nhà mình thóc để hàng bốn,
năm mùa.
Nó là một lũ đốn rơm, đốn rạ lớn bằng trái
núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cầy
cấy đến mấy trăm mẫu.
Nó là những tòa mái ngói muốn bảo tồn quốc túy
bằng những đấu vuông tròm trõm, những sôi tầu cong rướn và những con cá chép
mảnh sứ há miệng nằm giáp tường hồi.
Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng ba mẫu,
quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảng chai, cảnh tượng phức tạp, giống
như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ, mới.
Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để lại, ông
Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.
Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông
chủ ruộng kiếm ông chủ thả lãi.
Đụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân.
Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng hay nhà, hoặc phải gửi vật gì
khác làm đồ bảo đảm. Quá hạn thì mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông
cấy, hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn
không trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.
Nhà ông đời đời phát phát về bên hào. Bước
đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lý trưởng vượt qua những bậc Phó
tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức vó nhau
đưa ông lên ghế nghị viên.
Không như những kẻ mặt người dạ thú, mượn
tiếng thay mặt dân để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị
trường, chỉ cốt mua cái vị thứ tân thờí, lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và…
ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.
Cái đức không thèm biết… chữ của ông hơn hẳn
các bạn đồng viện, tuy những ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay cai phụ
Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai
bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giầy
chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt
ghế cho hợp thói quen của ông.
Từ ngày giữ chức ông Nghị, danh tiếng của ông
đã bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm chí tối, ông không phải thết một
ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ.
Cố nhiên, ông phải là một người cơ chỉ, so kè
từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những dịp tết
ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo những
thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.
Với ông, vợ chồng Đĩ Dậu không có họ hàng thân
thích gì cả. Nhưng vì các hắn cầy thuê cấy mướn cho ông đã nhiều, nên đều biết
nhà, biết người.
Sau khi Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã dẫn
anh Dậu ra đình, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho cái Tý, vớ
chiếc nón rách đeo vào cổ taỵ Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm rĩ kêu đói.
Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt.
Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chõ xôi. Những con cua chửa và
những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ nhau bò lên
mặt đường và núp vào các khóm cỏ.
Đông xá với Đoài thôn vẫn là một xã, cách nhau
độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên
lý trong bãi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi gì, vì đời chị đã quen
hàng ngày rạn mặt với thần nắng.
Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách, chị chỉ
bước rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời đứng bóng. Trâu bò lũ
lượt lôi thợ cầy ở ngoài đồng về. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc
lau những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng
nhòm vào trong cổng.
Trên cái sân gạch Bát tràng mông mênh như bãi
đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Đàn chim bồ câu chổng mông mổ trên nong
đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi
phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung quanh chậu
nước vo gạo.
Không có người nào qua lại. Đánh bạo, chị Dậu
xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ ra. Chúng nó
nhảy chồm lên tận mặt người lạ.
Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa
vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:
- Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho
tôi với!
Trong nhà có tiếng thét ra the thé, nghe rõ là
tiếng đàn bà:
- Làm gì mà nheo nhéo thế? Nhà ai không có
chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp còn bận việc khác, nó không phải hầu
chúng bay!
Rồi lại im. Thì ra vợ chồng ông Nghị đương ăn
cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực mình, quát đổng vài
câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế, chẳng khi nào
lại chịu hạ mình mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người làm thuê.
Đàn chó cứ vây kín chung quanh chị Dậu như
quân đèn cù. Hình như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ: con nào con ấy
nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái nón dùng
làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành. Chị Dậu luống cuống không biết
làm thế nào. Bí quá, chị phải giơ hai nắm tay đánh nhau bộ với đội lính coi nhà
của ông Nghị.
Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy
chạy lên. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả.
Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến trước nhà
khách. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu chảy đầm đìa. Ghé
răng, chị xé một miếng ở đầu dải yếm, buộc chặt lấy chỗ bị thương. Rồi rụt rè,
chị lên bực thềm:
- Thưa lạy hai cụ ạ!
Bà Nghị gắt:
- Chó cắn vào tay phải không? Cho chết! Đương
lúc người ta ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào? Hỏi gì?
Ông Nghị đặt bát xuống mâm, vừa nhai nhồm
nhoàm vừa đón:
- Sáng ngày chồng nó đã sang xin bán đứa con.
Chắc nó đến để nói nốt chuyện ấy, chứ gì nữa.
- Bẩm cụ phải, con sang thưa cụ về việc ấy.
Bà Nghị đưa mắt ra hiệu cho ông Nghị rồi bảo
chị Dậu:
- Thong thả! Hãy ngồi đấy! Để cho người ta ăn
xong cái đã. Đừng quấy rầy!
Ông Nghị như đã hiểu ý của vợ, cứ việc chan
chan gắp gắp, không nói không rằng.
Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm
gạch. Mọi ngày tuy vẫn làm mướn cho ông Nghị ấy, nhưng chi, chỉ thì thọt ra vào
trong mấy gian bếp, chưa biết nhà trên thế nào. Hôm nay bạ men tới đây, ấy là
lần đầu chị được trông thấy cảnh tượng nhà khách của ông dân biểu. Trong mắt
chị nhà ấy lịch sự vô cùng. Nào ở cạnh bức hoàng phi khảm trai, mấy cô con gái
tồng ngồng đùi, vú vừa nằm, vừa tủm tỉm cười tình. Nào ở giữa đôi câu sơn then
thiếp vàng hai thằng bé con béo tròn và xoay trần, lễ mễ khiêng hộp sữa bò cao
lớn gần bằng chúng nó. Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái điếu ống vất vểu
vươn cành xe trúc dài thườn thượt như cái cần câu. Rồi ở trong cái tủ chè chạm
dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ khay chè trắng bóng.
Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào một
chiếc bàn mây sơn xanh. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh thâm
và khăn quàng nhiễu xanh cùng vắt một chỗ. Biết bao của quí vật lạ, chị Dậu
nhìn vẫn chưa khắp. Trên bàn ăn có tiếng leng keng.
Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng
bát nước canh, trợn mắt húp một cái đánh soạt. Rồi ông vừa nhai, vừa nuốt, vừa
giục thằng nhỏ lấy tăm. Bà Nghị cầm đĩa dò kho ăn dở, chút vào trong niêu, sai
thằng bếp treo lên lao màn và dặn:
- Bà đã đếm kỹ từng miếng rồi đấy. Còn mười
bốn miếng tất cả. Hễ mất miếng nào thì chết với bà!
Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ đệ chậu
nước vào. Ông Nghị, bà Nghị mỗi người dúng ba ngón tay vào chậu, vuốt qua hai
mép một lượt, rồi cùng uống nước, xỉa răng. Hai đứa đầy tớ đứng hai bên cầm
quạt phẩy lại. Bà Nghị mở cái tráp tròn lấy trầu và cau nhai với một vài sợi
thuốc. Ông Nghị nhắc cái điếu ống để trên trốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít
cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ Ngũ ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi:

- Con mẹ kia! Bán con bán
cái thế nào? Vào mà nói chuyện với bà!
Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập
ngừng:
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai
cụ cứu giúp con.
Bà Nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật
dài cặp môi cắn chỉ:
- Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có bán đứa con
gái tao mua!
- Xin vâng!
- Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đã
lên bảy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho nó hai
đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao triết đi một nửa, chỉ
cho một đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!
Chị Dậu ngơ ngác:
- Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bảy, nó đẻ
tháng dần năm Tý. Chúng con không dám nói dối thưa cụ!
- Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà
mày! Người ta mách tao là nó lên sáu, thì tao hay nó lên sáu. Chứ tao biết đâu
nó đẻ năm Tý hay đẻ năm Tỵ năm Tỳ!
Chị Dậu đờ mặt, không biết nói sao. Bà Nghị
tiếp:
- Vì cái hai bên kia…
Ông Nghị cau mặt ngắt lời:
- Sao bà cứ gọi con bằng lối xách mé như vậy?
Tôi đã dặn bà phải gọi nó là mợ… Bây giờ ở nhà các quan, con gái đều được kêu
là mợ tất cả. Tôi hèn ra cũng là một Nghị viên, có lúc ngồi với quan Sứ quan
Thượng, danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ, cũng
không quá lạm kia mà!
Bà Nghị cười ngặt, cười nghẹo:
- Thế thì ông lầm rồi! Con dâu kia… người ta
mới gọi là mợ; con gái thì người ta gọi là cộ. Chẳng cứ gì nhà các quan, tôi
thấy những nhà ông ký, ông phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.
- Miễn là đừng có gọi chúng nó bằng cái kiểu
tục tằn của những nhà bố cu, bố đĩ… Mợ thì mợ, cô thì cô…
Bà Nghị ra bộ đắc ý:
- Vâng, thì cô! Cô hai bên kia hiếm hoi mấy
lần xem bói, thầy bói đều bảo cô ấy phải nuôi con nuôi thì mới đứng số. Bởi
thế, tao muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó gánh vác đỡ đí. Chứ nhà tao đây
thiếu gì người hầu hạ? Vả lại, con bé mới lên sáu tuổi, đã làm được công trạng
gì mà tao phải chuốc? Huống chi nó sang ở với cô ấy, cơm no áo lành, lại không
sung sướng gấp trăm gấp nghìn ở nhà với vợ chồng mày hay sao? Đáng lẽ biếu
không thì phải… Cho một đồng cũng quá lắm rồi. Không phải nài nẫn gì nữa!
Chị Dậu ngồi đờ như gỗ, không biết trả lời ra
sao.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3