Tắt đèn - Chương 01 - 02 - 03
Chương 1
Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục tục
kéo thợ cày đến đoạn đường phía trong điếm tuần.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com/
- gác nhỏ cho người yêu sách.]
Mọi ngày, giờ ấy, những con vật này
cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần lượt đi mò ra ruộng làm việc
cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải rác ở
hai vệ đường, giống như một lũ phu cờ chờ đón những ông quan lớn.
Dưới bóng tối của rặng tre um tùm, tiếng trâu
thở phì phò, tiếng bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng.
Cảnh tượng điếm tuần thình lình hiện ra trong
ánh lửa lập lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh dãy sào, giáo ngả nghiêng dựng
ở giáp tường, một lũ tuần phu lố nhố ngồi trên lớp chiếu quằn quèo. Có người
phì phò thổi mồi. Có người vê vê mồi thuốc và chìa tay chờ đón điếu đóm. Có
người há miệng ngáp dài. Có người dang hai tay dụi mắt. Cũng có người còn gối
đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu, ngoảnh mặt vào vách mà ngáy.
Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm, sáu người
chuyên tay, chiếu đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt, trong điếm chỉ
còn tiếng nói chuyện rầm rầm.
Gà gáy giục. Trời sáng mờ mờ.
Trâu bò, con đứng, con nằm, thi nhau quai hai
hàm răng nhai trầu suông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái trứng.
Thợ cày khắp lượt dùng bắp cày, vai cày làm
ghế ngồi, cùng nhau bàn tán bâng quơ về chuyện sưu thuế.
Những con chèo bẻo chẽo choẹt hót trên ngọn
tre, như muốn họa lại khúc ca réo rắt - mà người quê vẫn gọi là khúc “váy cô,
cô cởi” - của mấy con chào mào đậu trên cành xoan, đon đả chào vẻ tươi đẹp của
cảnh trời buổi sáng.
Trong cổng vẫn đóng chặt. Tuần phu lại lần
lượt thổi mồi hút thuốc lào.
- Ông Trương ơi, ông làm ơn mở cổng cho tôi
đánh trâu ra đồng. Mọi ngày bây giờ tôi đã cày được ba sào ruộng rồi. Hôm nay,
bây giờ còn nhong nhóng ở đây… Phỏng chừng từ giờ đến trưa, cầy sao cho xong
cái ruộng mẫu hai? Thôi ông làm phúc, làm đức…
Sau tiếng năn nỉ của anh chàng cục mịch, vai
vác cày, tay cầm thừng trâu, Trương tuần quẳng cái điếu cày xuống đất, thở nốt
khói thuốc trong miệng, rồi giương đôi mắt say thuốc lờ đờ:
- Nay chẳng xong thì mai! Ông lý đã bảo thuế
còn thiếu nhiều, không cho một con trâu, bò nào ra đồng hết thảy…
- Thưa ông, ông chủ tôi nóng tính lắm kia! Ông
ấy đã dặn buổi nay tôi phải cày cho xong ruộng ấy, nếu không xong, đến trưa về
ăn cơm, ông ấy mắng như tát nước và nói như móc cơm ra… Chớ tôi có muốn vất vả
vào mình làm gì? Vả lại, ông lý sai tuần đóng cổng, cốt để bắt trâu, bắt bò của
những người thiếu thuế kia chứ! Ông chủ tôi nộp thuế đủ từ hôm qua rồi, xin ông
mở cổng cho tôi…
Trương tuần nhăn mặt:
- Tôi không phải tộc biểu, không phải phần
thu, biết đếch đâu ông chủ anh nộp thuế rồi hay chưa nộp. Bây giờ mở cổng cho
anh, chốc nữa ông lý ông ấy chửi cha tôi lên, anh có nghe hộ tôi không?
Anh chàng cục mịch lủi thủi đánh trâu gồng cày
lùi xuống, để nhường khu đất trước điếm cho người khác vác bừa và đuổi trâu
lên.
- Người ta cắt bỏ trâu của nhà, ông chẳng cho
thì chớ. Đây tôi, trâu thuê… đồng hai một buổi đáp, ông ạ. Xin ông lượng tình
mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng, kẻo trưa quá mất rồi.
Người ấy nói tuy thiết tha, Trương tuần chỉ
đáp lại bằng cái lắc đầu:
- Nếu trưa quá thì bừa luôn đến chiều. Trâu
thuê sợ gì!
- Thế được thì còn gì nói truyện gì nữa! Của
một đống tiền, ai để cho mình ốp nó đến chiều! Chỉ đến non trưa, ông chủ có
trâu cho thuê đã ra tận ruộng tháo vai trâu mà dắt trâu về, muốn bừa thêm một
nửa đường nữa, người ta cũng không cho, ông ạ. Thôi! Mùa làm ăn, ông nghĩ lại…
- Tôi chẳng nghĩ lại, nghĩ đi gì cả! Bố tôi
sống lại, bảo tôi mở cái cổng này bây giờ, tôi cũng xin chịu, đừng nói anh…
Người ấy lại vác bừa, đưa trâu trở lại chỗ cũ
với cái sắc mặt thìu thịu.
Mặt trời ngấp nghé mặt lũy, muốn nhòm vào
điếm. Tuần phiên lẻ tẻ vác sào, cắp chiếu, đeo hiệu đi về. Trong điếm chỉ còn
Trương tuần duỗi gối kiểu gọng bừa, ngồi trên chiếc chiếu điểm những tro mồi,
bã điếu, đốc suất mấy tên đàn em ở lại canh ngày.
Xa xa nẻo trong đình, một hồi mõ cá thật dài, tiếp
luôn đến trống ngũ liên nện đủ ba hồi chín tiếng.
Như có vẻ kinh ngạc về những thứ hiệu lệnh dữ
dội, mấy con trâu bò đang nằm còng queo trên đường, đồng thời lóp ngóp đứng
dậy.
- Mẹ cha chúng nó! Hôm nay vẫn chưa đóng thuế,
chúng nó định để tội vạ cho ai? Được! Cứ bướng đi, ông thì bắt hết trâu bò! Bán
ráo!
Tiếng chửi om sòm như giục mấy chục cặp mắt
ngơ ngẩn của bọn cày đều phải nghiêng về phía đình. Ông lý nách cắp cuốn sổ,
một tay cầm gậy song, một tay xếch đôi ống quần móng lợn, vừa đi ra phía điếm
tuần vừa thét mắng những người chậm thuế.
Đã năm hôm nay, nghĩa là sau khi bài bổ trình
phủ đã giao về với một chữ “y”, Lý trưởng Đông Xá ngày nào cũng vất vả về thuế.
Đầu tiên hắn còn cho mõ đi rao. Rồi đến tộc
biểu, phần thu đi hỏi. Rồi đến đầy tớ của hắn đưa đầy tớ chánh tổng đi thúc
từng người. Trong năm ngày nay, ngày nào cũng vậy, mõ cá, trống thúc liên hồi,
hiệu ốc, hiệu sừng thổi inh ỏi. Suốt từ sáng sớm cho đến tối mịt, trong làng
lúc nào cũng như đám đánh cướp. Bây giờ đã gần đến ngày đổ thuế, công việc càng
gấp. Hôm qua hắn đã lên phủ, xin với ông phủ phái cho một người cai lệ và hai
người lính cơ về làng để trừng trị những kẻ bướng bỉnh. Nhờ có cái thần thế ấy,
hắn mới chửi rủa, thét mắng khắp làng cho oai.
Thợ cày và tuần phu đều biết cái hách dịch của
ông lý, ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi chùm chửi lợp bằng sự nín im.
Trâu, bò nhiều con vẫy tai như muốn chào một
người chức việc chăm chỉ phận sự trong khi người ấy qua trước mặt chúng.
Bước lên sàn điếm, Lý trưởng quăng tạch cuốn
sổ xuống bàn, giơ tay chỉ vào mặt mấy tên đàn em:
- Hiệu không thổi, để làm sỏ bố chúng mày à?
Một hồi còi tu tu đồng thời nổi lên, hiệu sừng
xen với hiệu ốc cố theo đúng lệnh của “nhất lý chi trưởng”.
Đập hai bàn chân vào nhau, giũ cho sạch bụi,
rồi co chân lên ngồi vào chiếu, Lý trưởng vớ luôn lấy cái điếu cày và sai tuần
phu lấy đóm, thổi lửa.
Mấy anh thợ cày của những điền chủ đã nộp đủ
thuế, bạo dạn tiến đến trước mặt ông lý:
- Thưa ông, trưa lắm rồi! Xin ông cho tuần mở
cổng để chúng tôi đánh trâu đi cày…
- Thong thả! Hãy đứng đấy! Cày đã nóng bằng
thuế của nhà nước à?
Vừa nói, Lý trưởng vừa giặt mồi thuốc vào
điếu, hút luôn một xạp ba điếu. Khói thuốc theo hai lỗ mũi tuôn ra như hai ngà
voi, Lý trưởng dõng dạc:
- Trương tuần, anh bảo nó mở cổng ra. Nhà nào
đủ thuế thì cho trâu bò ra đồng. Còn nhà nào thiếu thì bắt trâu bò điệu cả về
đình cho tôi, để tôi liệu cho chúng nó!
Sau một tiếng dạ của Trương tuần, mấy tên đàn
em loay hoay tháo nêm, rút then cổng. Rồi cùng đứng choãi chân chèo, cố lấy hết
sức của lực điền, họ kéo mãi mới được hai bức cánh lim bị sịt xuống gạch vì cối
cổng đã mòn nhiều quá. Lý trưởng đứng lên mở sổ xướng tên những người đủ thuế
cho Trương tuần nghe. Ước chừng mươi con trâu bò được đi với bọn thợ cày cùng
ra ngoài cổng. Còn độ hai chục con nữa đều phải vâng lệnh ông lý, theo gót
Trương tuần và tuần phu lũ lượt kéo vào sân đình, chờ khi phải chịu tội thay
cho chủ
Chương 2
Mõ cá trên cột đình lạ há miệng nhận những cây
dùi giận dữ. Trống cái dưới xá đình lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng. Vừa
dứt hồi vang của những tiếng mõ, tiếng trống bị những lũy tre ngăn cản phải lật
trở lại, Lý trưởng liệng dùi trống xuống sân đình và quát một cách a dáng ra
phết:
- Từ sáng đến giờ vẫn chưa đem chiếu ra trải,
thì cha nó ngồi vào đâu? À cái thằng Mới láo thật! Xong thuế rồi ông tống cổ…
Mẹ Mới ở phía sau đình lếch thếch ôm mấy chiếc
chiếu đặt lên sàn đình:
- Bẩm ông hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng
nay phải đi chợ sớm…
- Trải ra! Rồi đi gọi các ông phần việc đến
đây… Kệnh dệnh, kệnh dệnh! Bố người ta đấy mà hôm nào cũng bắt người ta phải
mời… Chẳng qua việc là việc làng, chứ việc riêng nhà ai! Ngày mai mà không đủ
thuế, thì ông khai hết ra cho, thử xem thằng nào ngồi tù?
Đằng sau có tiếng léo xéo:
- Làm gì mà gắt gỏng dữ thế ông lý? Bà cháu
bận đi mang cơm thợ cầy, tôi phải nấu chín nồi cám cho con lợn sề nó ăn. Vì nó
mới đẻ, sợ bỏ đói thì nó mất sữa, rồi con nó xấu. Bởi thế tôi mới chậm ra một
chút, chứ có kệnh dệnh gì đâu?
Những câu phân trần tha thiết kéo dài từ ngoài
đường vào đến giọt đình. Thủ quỹ nhanh nhảu bước lên thềm đình với cái tráp sơn
đen bệ vệ nấp ở sườn tay phải. Lý trưởng vội vàng nói chữa:
- Tôi nói là nói người khác kia! Chứ ông… nhà
neo, lắm việc, tôi có trách gì ông đâu… Kìa các ông ấy đã ra cả kìa!
Chưởng bạ ôm đống sổ và một tập sổ đi đầu một
bọn độ hơn mười người: Thư ký lồng khăn xếp vào cánh tay, Phó lý quần áo thâm
trên cổ. Chánh hội vắt áo the bên vai, năm sáu ông kỳ cựu và tộc biểu lệt xệt
kéo đôi guốc gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai
nấy trụt guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi
lên trên.
Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột
đình một cái điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi
rơm dài chừng một sải. Hai đứa con nó kỳ kệch khiêng lên chỗ đó nồi nước chè
khô mới nấu, khói đương bốc lên nghi ngút và chồng bát đàn sơn bằng những cáu
nước chè.
Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì
người nhà Lý trưởng lễ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước Chánh tổng từ
nẻo xóm dưới đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ Chánh vào trước
cửa đình. Trong đám đông mỗi người một câu:
- Cụ đã ra!
- Lạy cụ.
- Xin mời cụ lên trên.
Chánh tổng khoan thai bỏ giầy, bước qua một
giẫy chiếu dưới, để lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo
ngồi lên chiếc chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà Lý trưởng sang tay
cai lệ, lên nằm làm bạn với quan trong hàng tổng.
Ngay từ sáng sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ
vài chục điếu ở nhà Lý trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo. Nghiêm nghị, cụ lên
giọng kẻ cả:
- Các ông chức việc làng này thật lười quá.
Hôm nay mà thuế còn thiếu be thiếu bét, chưa thu được một nửa bài chỉ! Tôi hạn
từ giờ đến tối phải thu cho đủ. Nếu không đủ, sáng mai tôi phải trình quan.
Lý trưởng đón:
- Vâng! Xin cụ thúc giục đi cho! Chứ mấy hôm
nay các ông ấy cứ ỳ ra đó, chẳng ông nào chịu ra miệng ra tiếng… thì phỏng ai
nó nộp cho?
Mọi người đều im lặng. Không phải sợ câu dọa
nạt của Chánh tổng Lý trưởng, họ còn mãi nhìn ra cổng đình.
Thằng Mới kĩu kịt trên vai chiếc đòn gánh treo
hai chiếc quang. Đằng trước là một xanh vừa gan vừa phổi, vừa tiết để trên rỗ
lòng. Đằng sau thì một thúng thịt lợn.
Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh
xuống sân đình, và mời ông lý ra xem.
- Bẩm ông, hôm nay thịt đắt, tất cả hết sáu đồng
rưỡi.
Ông Chánh hội, ông thủ quỹ và nhiều ông khác
cùng đổ xô ra. Ai nấy đều bĩu môi chê đắt, Chánh tổng nằm trong giữa đình nói
ra:
- Đắt với rẻ chẳng qua cũng của mấy đứa phụ
canh, các ông có mất gì đâu! Thôi để cho nó đem về làm đi, trưa lắm rồi!
Thằng Mới mừng rỡ lại cất quang gánh lên vai.
Lý trưởng dặn theo:
- Phải đánh mỗi mâm một bát tiết canh, mày
nhé!
Rồi mọi người cùng lên sàn đình, bắt đầu nhúng
tay vào việc.
Lý trưởng quăng cuốn sổ điền ra chiếu và bảo
thư ký:
- Ông đọc cho các ông kia tính, xem rằng chủ
nào bao nhiêu… rồi biên ghi vào mảnh giấy. Tính những chủ chưa nộp đồng nào ấy
thôi.
Thủ quỹ mở tráp lấy ra cái bàn tính, cái bút
chì và một tờ giấy tây, rồi đưa bàn tính cho ông lý cựu:
- Ông tính ta, tôi tính tây, rồi cùng kháp
lại, hễ hai đằng mà không sai nhau là đúng.
Một người đàn bà rón rén bước vào sàn đình với
một chuỗi tiền chinh trong tay:
- Lạy cụ Chánh, lại các cụ ạ…
Bên bàn đèn, một cậu lính cơ ngẩng cổ lên
quát:
- Làm gì mà đến hôm nay mới đem nộp thuế? Lại
còn vác những khải định ra đấy! Ai lấy cho?
Lý trưởng gạt đi:
- Người nhà tôi đấy… các ông tính giùm, xem
của bà ấy có bao nhiêu ruộng tất cả.
Thư ký giở sổ đọc:
- Nguyễn Thị Quí điền dĩ hạ: nhất sở Đồng Bắc
xứ bảy sào chín thước, nhất sở Đồng Cá xứ sáu sào ba thước hai thốn…
Lý cựu vừa gẩy con toán lách tách vừa nhẩm:
- Nhất ngũ như ngũ, nhị ngũ nhất thập chi, tam
ngũ nhất thập ngũ…
Thủ quỹ chăm chỉ để hai con mắt vào mảnh giấy
tây dưới ngọn bút chì. Một hồi sau, Thư ký đọc hết, Lý cựu hỏi:
- Có phải ba mẫu bốn sào năm thước ba thốn hay
không?
Thủ quỹ đáp:
- Không biết. Bây giờ tôi mới tính. Cộng bằng
tính tây vẫn chậm hơn tính ta ông biết thế.
Thị Quí nói theo:
- Vâng, ông thủ tính kỹ cho. Ruộng nhà cháu có
đâu mà được ba mẫu!
Một hồi nữa, thủ quỹ hì hục với cây bút chì,
rồi ngẩng đầu lên mắng Thị Quí:
- Bà nói lạ! Bốn mẫu hai ruộng cả thảy, sao
dám bảo không được ba mẫu!
Thị Quí thề sống, thề chết:
- Cháu có ăn gian thì trời không chứng! Thật
quả ruộng của nhà cháu chỉ có hai mẫu bảy sào…
Lý cựu, Thủ quỹ cùng sô lại dồn Thị Quí. Người
đàn bà ấy nhất định không chịu. Cái bàn tính và cây bút chì phải làm việc thêm
nhiều lần nữa.
Chánh tổng sốt ruột, giục Lý trưởng:
- Ai tính cứ tính, ai đi đốc cứ đi đốc. Chứ
xúm nhau ở cả đây, thì đến tết cũng không thể thu xong thuế!
Lý trưởng lấy làm phải, liền sai mấy tên gia
nhân đi đưa các ông lệ, lính cơ đầy tớ Chánh tổng vào khắp những nhà đinh cùng
và dặn:
- Đứa nào chưa có sưu hay chưa có thuế thì cứ
trối cổ nó lại và điệu ra đây, để tôi cho chúng một mẻ.
Mõ lại thúc, trống lại giục, tù và lại inh ỏi
thổi lên.
Ánh nắng bứt rứt chiếu đến nửa sân đình. Mấy
con trâu, bò vẫn nằm gò lưng dưới những gốc gạo, gốc đa, hơi thở trong cổ họng
kéo ra hồng hộc.
Chương 3
Nếp nhà tranh lủn củn nấp dưới rặng tre là
ngà, lặng lẽ úp lấy khu đất dề thành và kín đáo náu trong một con xóm cuối làng
Đông xá, đứng xa ngó lại, có thể lầm với nơi nhốt lợn hay chứa tro, đó là nhà
của Nguyễn Văn Dậu.
Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy mái hiên
cườm cượp nhòm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái cộc bươu
đầu choáng óc, nếu họ quên không cúi đầu.
Với lớp rêu xanh điểm những lá tre vàng úa và
những cỏ gấu phất phơ, cái sân đất rộng bằng đường bừa, lỗ chỗ vết chân chó xen
vết chân người, vừa làm đường đi, vừa làm khu vực hoãn xung, phòng bị những lúc
mưa rào, đất ở chân thành khỏi lở vào thềm và cửa.
Bao nhiêu bộ phận cần có của một gia đình, đều
được thu cả vào trong nhà.
Nhà cất theo lối kiến trúc phổ thông của các
cụ, toàn thể gồm có một chái và hai gian.
Gian đầu là buồng.
Bức mành rách mép lướt thướt rủ ngoài cửa
buồng, cũng như bức phên nan nứa sừng sững chắn ngang lòng nhà, đều hết sức giữ
cho trong buồng có vẻ bí mật. Trái lại, những khe hở ở cạnh cửa và nhưng lỗ
thủng ở chân phên lại cùng ra ý phô sòng, như muốn khai rằng: ngoài chiếc
giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có một chum mẻ, vại hàn, chen
nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột.
Đối với buồng, ấy là bếp đun, cảnh tượng lại
càng bề bộn.
Dưới từng máy chái thấp hẹp, những luồng ánh
sáng xanh tía, thông thống kéo thẳng từ nóc đến nền, cố hun cho khô những chỗ
đêm qua mưa dột.
Cạnh bó củi giong ẩm ướt, đoàn vung sứt miệng
hềnh hệch nằm ngửa trong những cái rế tre, như muốn cười với lũ mêu đất thư
nhàn, lông lốc lăn nghiêng lăn ngửa.
Trên bãi tro trấu tanh bành, nguội lạnh, mấy
hòn gạch vỡ chầu đầu vào nhau, nghiêng mình nằm theo thế chân vạc, đương chờ
đến lúc đội nồi.
Kề đó đến bàn thờ.
Chiếc ngưỡng tre uốn lưng gù gù đỡ lấy một đố
tre, dõng dạc đứng ra hình chữ môn và hộ vệ cho một mớ nan tre lành phành long
bựt, giường thờ giống như cái chạn đựng bát. lơ lửng gác giữa khoảng cột của
bếp và buồng.
Tờ giấy xanh lạnh lùng phủ ngoài vách đất tỏ
rằng nhà mới có tang.
Nhưng mớ mạng nhện chằng chịt quấn trên đám
chân hường lơ thơ, lại làm chứng cho một thời gian khá lâu, chủ nhân không hề
cúng lễ. Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ trên tấm phản long
đinh.
Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đòi ăn, ăng
ẳng kêu không dứt tiếng.
Và ở ngoài hiên, quang, gánh, liềm, hái sen,
với áo yếm, áo, váy, quần, lôi thôi rủ suốt mấy gian ruổi.
Trong tay bồng đứa con gái hai tuổi, chị Dậu
thơ thẩn ngồi trên chiếc chõng long nan. Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt,
cái sinh sắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen giòn và cái nuột
nà của người đàn bà hai mươi bốn tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo phiền
buồn bã trong đáy tim. Nét mặt rầu rầu, chị im lặng nhìn sự ngoan ngoãn của hai
đứa con nhỏ.
Cái Tý và thằng Dần, đương hỳ hục bới đống rễ
khoai, tìm những củ mập, củ giày, bỏ vào trong rổ. Chúng nó mừng reo hý hửng
khi thấy một củ nguyên lành, và chúng nó cãi cọ lầu nhầu khi lục mãi chẳng được
gì cả.
Mặt trời gần đến đỉnh đầu.
Ánh nắng xuyên qua lũy tre chiếu xuống trước
thềm khoang cửa.
Đằng sau gà gáy te te.
Nóc bếp láng giềng ngọn khói bốc lên nghi
ngút.
Thằng Dần với bộ mặt thìu thịu, bỏ đống rễ
khoai đứng dậy lùng bùng:
- Nhặt mãi từ sáng đến giờ mới được ba mẫu
khoai ranh! Con không phải tội mà bới nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu
cơm trưa rồi, nhà ta vẫn chưa ăn cơm sáng! Chúng con đói quá!
Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào:
- Con hãy cố nhặt thêm vài chục mẫu nửa, rồi
chị nó luộc cho ăn, chứ u làm gì có tiền đông gạo?
Thằng bé phụng phịu:
- Hôm qua và hôm kia u bán hai gánh khoai lang
được năm hào mà… đã tiêu gì đâu!
Vừa nói nó vừa tung tăng chạy đến cạnh mẹ,
toan lần dải yếm của mẹ. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em:
- Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho
ông lý chứ? Dễ được đem mà mua gạo đấy hẳn? Em có đói thì hãy ăn tạm củ khoai
sống vậy!
Câu nói nghĩa lý của con bé bảy tuổi, hình như
có một sức mạnh thần bí, khiến cho chị Dậu hai hàng nước mắt chạy quanh. Uể
oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã
về chưa.
Chồng chị - anh Nguyễn Văn Dậu - tuy mới hai
mươi sáu tuổi, nhưng đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm.
Với cái sức khỏe mạnh, với cái tính nhanh
nhẩu, với cái đức chịu thương chịu khó trong nghề cầy thuê cuốc mướn, những năm
son rỗi, vợ chồng nhà anh cũng vẫn kiếm được thừa ăn. Mấy năn nay phần vì thóc
cao, gạo kém, phần thì con đẻ thêm ra, vợ bận mọn luôn, sự tiêu dùng của anh
mới không được rồi rào như trước, vắt mũi chỉ đủ đút miệng mà thôi.
Rồi tháng tám năm ngoái, mẹ anh bị bệnh qua
đời. Lại tháng giêng năm nay, thằng em trai của anh cũng vì phải gió mà chết.
Dầu anh hết sức tằn tiện, hai cái ma ấy cũng cứ lôi kéo đi mất của anh hai món
là làng hết đúng sáu đồng, và hai cổ quan tài hết gần tám đồng. Nhà không có,
anh phải quang co tần tảo cho có. Hai cái rớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc
nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh rồi. Hơn nữa, tháng ba đến giờ thần bệnh sốt
rét ở đâu kéo đến, nó bắt anh cứ phải nghỉ việc nằm nhà.
Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp
chi tiêu của một gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay trắng
của người đàn bà con mọn.
Sự đói rách của con và sự lầm than của vợ, đắp
đổi tiến đến trước mắt, đã làm cho anh gan ruột nẫu nà. Thêm mấy bữa nay, Lý
trưởng ngày ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến bò
trong chảo nóng, không biết lo liệu thế nào. Sớm ngày, cơn sốt đã tan anh phải
gắng gượng chống gậy ra đi, cũng định vay mượn lấy một vài đồng, trả cho xong
món nợ nhà nước. Nhưng đi thì đi, chính anh cũng không tự biết mình sẽ đi đến
nhà ai, và chừng bao giờ thì về.
Mong mãi không thấy bóng chồng, chị Dậu lại
bỗng cái Tỉu trở vào, ngồi phịch xuống chõng.
Cái Tý vẫn loay hoay với đống rễ khoai. Thằng
Dần đương ráu ráu nhai mẫu khoai sống.
Bên nhà láng giềng có tiếng mâm bát lạch cạch.
Mấy con nít tíu tít gọi nhau ăn cơm. Mùi canh rưa và mùi cá khi theo ngọn gió
nồm đưa sang ngào ngạt.
Thằng bé háu đói nuốt vội miếng khoai trong
miệng, vớ tấm áo nâu toạc vạt khoác luôn vào mình, đon đả chạy lại vỗ vào vai
mẹ:
- Con sang chơi bên nhà ông Bác, u nhé!
Cái Tý chừng mắt:
- Bên ấy sắp sửa ăn cơm ấy mà! Sang làm gì?
Rồi bà Bác lại đuổi oai oái như hôm nọ ấy. Thôi, đói thì chịu vậy, chứ em cứ
nhặt cố lấy mấy củ nữa, rồi chị đứng lên bắc nồi.
Thằng Dần quăng tọt cái áo vào chõng, ngoảnh
đít quay lại, trên mặt đầy vẻ thất vọng:
- Khổ lắm, bao nhiêu củ ngon củ lành, u đã lựa
hết đem bán, ở đây chỉ còn những rễ và rễ, lấy đâu ra khoai mà nhặt?
Cái Tý lại dịu nét mặt:
- Chả bán thì lấy tiền đâu đóng sưu? Em hãy
chịu khó nhặt đi với chị! Hãy còn vô khối củ mẫm ra đấy.
- Nhưng mà em còn đói vàng cả mắt, không nhặt
được nữa…
Nói xong, thằng Dần bước đến bên cạnh rổ
khoai, cho.n lấy một củ lớn nhất, nó chùi vào bụng cho sạch cát bụi rồi cho vào
mồm cắn…
Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói, nhưng ở
khóe mắt, nước mắt lại cứ chan chứa chảy ra. Chừng như không muốn để cho các
con thấy sự đau lòng của mình, chị vờ ngoảnh mặt nhìn vào trong vách.