Resident Evil ( Tập 1) - Chương 10 - Phần 01
Jill đẩy chiếc ấn bằng đồng đỏ nặng trịch có khắc hình ngôi sao ở bên cạnh vào đúng vị trí của nó - vị trí trên cùng trên tấm bảng kim loại. Nó trượt vào lỗ nghe "cách" một cái, bề mặt tấm bảng kim loại lại trở nên bằng phẳng.
Một cái đã vào vị trí... Cô bước lùi lại trước cái khóa kỳ lạ, mỉm cười hân hoan.
Lũ quạ vẫn quan sát cô khi cô đi ngang qua cái sảnh trưng bày tranh, chúng không hề rời khỏi vị trí, thi thoảng chúng lại kêu ré lên trong lúc cô đang giải câu đố đơn giản. Có sáu bức chân dung tất cả, từ cái nôi đến ngôi mộ - tức là từ đứa bé sơ sinh tới người đàn ông lớn tuổi có bộ mặt nghiêm nghị. Cô cho rằng tất cả những bức tranh chân dung đó là của Ngài Spencer, mặc dù cô chưa từng nhìn thấy bức ảnh nào của ông.
Bức tranh cuối cùng vẽ một khung cảnh thật tang thương, một người đàn ông xanh xao đang nằm trang trọng giữa những người than khóc đứng đầy xung quanh. Khi cô bật công tắc ở bức tranh đó, bức tranh liền bị bốn cái chốt nhỏ xíu bằng kim loại ở bốn góc đẩy cho rơi xuống khỏi bức tường. Đằng sau bức tranh có một cái hốc nhỏ, bọc nhung, trong đựng chiếc ấn bằng đồng đỏ. Sau đó, cô đã rời khỏi căn sảnh mà không gặp phải bất cứ khó khăn gì; trừ một điều cô không chắc lắm là liệu lũ chim có cảm thấy thất vọng hay không.
Cô hít một hơi cuối cùng thật sâu cái không khí dễ chịu buổi đêm trước khi quay trở lại ngôi nhà, vừa đi cô vừa rút chiếc máy tính của Trent ra khỏi ba lô. Cô bước từng bước một một cách thận trọng qua cái xác nhàu nát nằm giữa hành lang mờ tối, rồi cô kiểm tra lại tấm bản đồ, băn khoăn không biết nên đi đâu tiếp theo.
Có vẻ như là cô sẽ phải trở lại con đường mà cô đã dùng nó để đi đến đây. Cô quay về cánh cửa đôi nối giữa dãy hành lang và cô thấy mình bước vào một hành lang uốn khúc, ấm áp, màu xanh xám với những bức tranh phong cảnh treo trên tường. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đơn ngang chỗ cô đứng sẽ dẫn tới một căn phòng nhỏ, hình vuông, và sau đó căn phòng này sẽ dẫn đến một căn phòng khác lớn hơn.
Hồi hộp, cô vặn tay nắm cửa rồi đẩy nó mở ra, vừa khom người vừa chĩa khẩu Beretta xung quanh. Quả thật căn phòng nhỏ có hình vuông và hoàn toàn trống rỗng.
Jill bước ngang qua căn phòng, cô tiến tới cánh cửa phía bên phải, vừa đi vừa ngắm nghía những đường nét đơn giản nhưng thanh lịch của căn phòng. Nó có một cái trần cao, sáng sủa với những bức tường ốp đá cẩm thạch màu kem lốm đốm vàng; tuyệt đẹp. Và thật đắt tiền, ít nhất cô có thể nói như vậy. Tự nhiên, cô cảm thấy bâng khuâng nhớ lại những ngày tháng cũ khi cô còn sống với bố cô, nhớ lại những kế hoạch và hy vọng to lớn của hai cha con mỗi khi họ thành công. Và đây là thứ mà đồng tiền chân chính có thể mua được.
Cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, cô nắm lấy cái then cửa kim loại lạnh lẽo rồi đẩy nó mở ra. Khẩu Beretta của cô quét nhanh một đường và rồi cô thở phào nhẹ nhõm; chỉ có mình cô ở đây.
Có một cái lò sưởi mốc meo phía bên tay phải của cô, ngay dưới tấm thảm thêu hoa mỹ màu đỏ vàng. Một chiếc ghế tràng kỷ hiện đại cùng chiếc bàn uống cà phê thấp hình bầu dục đặt trên tấm thảm kiểu phương Đông rám nắng màu da cam, và dựa vào bức tường phía sau căn phòng - là một khẩu shotgun pump-action, được đặt trên hai cái móc, sáng lấp lánh dưới ánh sáng của cái đèn kiểu cổ đang chiếu thẳng xuống từ phía trên. Jill nhoẻn miệng cười, cô vội bước ngang qua căn phòng và không thể tin rằng mình lại gặp may đến thế.
Cầu trời cho nó nạp đầy đạn, cầu trời cho nó nạp đầy đạn.
Khi cô dừng lại trước khẩu shotgun, cô nhận ra khẩu súng này tuy hơi nặng đối với cô, nhưng nó lại cùng loại với những khẩu shotgun mà đội S.T.A.R.S. thường dùng: loại Remington M870, bắn 5 phát liền.
Cô cất khẩu Beretta đi rồi dùng hai tay nâng khẩu shotgun lên, miệng vẫn cười tươi - nhưng ngay lập tức nụ cười của cô biến mất khi thấy cả hai cái móc được nhấc lên sau khi thoát khỏi trọng lượng của khẩu súng. Cùng lúc đó, một tiếng động ầm ĩ phía sau bức tường phát ra, nghe như tiếng kim loại đang hoán đổi vị trí cho nhau.
Jill không biết tiếng động đó là gì, nhưng cô cảm thấy không thích nó một chút nào. Cô nhanh chóng quay lưng lại, kiểm tra quanh phòng xem có cái gì di chuyển không. Căn phòng vẫn nguyên si như lúc cô bước vào, không hề có lấy một tiếng chim gào thét, cũng không có tiếng báo động hay ánh đèn lóe sáng đột ngột, và cũng chẳng có bức tranh nào rơi khỏi mấy bức tường cả. Nói chung là không có cái bẫy nào hết.
Yên lòng, cô nhanh chóng kiểm tra lại khẩu súng và thấy rằng nó đã được nạp đầy đạn. Ai đó đã lau chùi nòng súng sạch sẽ, cả khẩu súng bốc lên mùi dầu nhẹ, và đó là cái mùi tuyệt nhất mà cô có thể tưởng tượng ra. Trọng lượng của khẩu súng đè nặng trên cánh tay khiến cô cảm thấy vững dạ, đó là trọng lượng của sức mạnh.
Cô tìm kiếm khắp những chỗ còn lại trong căn phòng, nhưng thất vọng khi thấy không còn một viên đạn nào khác cả. Tuy nhiên, dù gì thì khẩu Remington vẫn là một phát hiện.
Tất cả áo khoác của đội S.T.A.R.S. đều có một bao đựng shotgun hoặc súng trường phía sau lưng, nên mặc dù cô không giỏi lắm việc rút súng vượt-qua-vai, nhưng ít ra thì cô cũng có thể mang nó theo mà không bị mỏi tay.
Chẳng còn gì thú vị trong căn phòng. Jill bước về phía cánh cửa, cô cảm thấy thích thú với việc quay trở lại sảnh chính và nói cho Barry biết về những phát hiện mới của mình. Cô đã kiểm tra tất cả các căn phòng mà cô có thể vào được ở phía bên này của tầng một. Nếu Barry cũng đã kiểm tra hết như cô ở phía còn lại thì họ có thể lên tầng trên và kết thúc quá trình tìm kiếm đội Bravo cùng những thành viên còn thiếu của đội mình.
Và sau đó, biết đâu lại có thể thoát luôn khỏi cái nhà xác này. Cô đóng cửa lại sau lưng rồi sải chân qua căn phòng lát đá màu xám đen, hy vọng, khi cô nắm lấy tay nắm cửa, rằng Barry đã tìm thấy Chris và Wesker rồi. Vì rõ ràng là bọn họ đã không đi lối này
Cánh cửa đã bị khóa lại. Jill cau mày, vặn tới vặn lui tay nắm nhỏ màu vàng. Có tiếng lách cách nhỏ nhưng cánh cửa không hề động đậy. Cô dí sát mắt vào khe hở giữa cánh cửa và cái khung cửa, đột nhiên cô cảm thấy chột dạ.
Đây rồi, mặt kia của cánh cửa, cạnh tay nắm là đoạn then cửa bằng thép đã chốt lại, loại then rất chắc; khu vực còn lại xung quanh cái then cửa lại còn được gia cố. Còn bên này thì chỉ có duy nhất một lỗ khóa và cái tay nắm cửa mà thôi...
Cách! Cách! Cách!
Bụi từ trên trần nhà tự nhiên rơi xuống như mưa trong khi tiếng bánh răng di chuyển tràn ngập căn phòng, tiếng kim loại chạm nhau lách cách đều đều khó hiểu phát ra đâu đó đằng sau những bức tường lát đá.
Cái gì?
Giật mình hoảng hốt, Jill ngó lên trần nhà và ngay lập tức cô cảm thấy bụng mình đau quặn, hơi thở mắc nghẹn lại giữa cổ họng. Trần nhà cao vút, mà lúc trước cô vừa mới ngắm nhìn một cách thích thú, đang di chuyển, đá cẩm thạch ở bốn góc phòng bị nghiền nát thành bụi, tiếng đá nghiến vào nhau kêu ken két. Trần nhà đang hạ xuống.
Trong nháy mắt cô phóng đến cánh cửa dẫn trở lại căn phòng có cây shotgun. Cô vồ lấy tay nắm cửa, đẩy thật mạnh...
... và phát hiện ra nó đã bị khóa cứng như cánh cửa đầu tiên.
Thôi chết! Không may rồi! Không may rồi!
Càng lúc càng hoảng loạn, Jill vừa chạy ngược trở lại cánh cửa đầu tiên vừa nhìn trần nhà đang sập xuống với ánh mắt kinh hoàng. Với vận tốc 2 đến 3 inches một giây thế này thì chỉ chưa đầy một phút nữa, nó sẽ chạm tới tận sàn.
Jill nâng khẩu shotgun lên, chĩa vào cánh cửa dẫn tới hành lang, cố gạt bỏ suy nghĩ ra khỏi đầu rằng sẽ phải mất bao nhiêu phát đạn thì mới thổi bay được cái then cửa làm bằng thép cứng đã được gia cố xung quanh như thế; bắn phá cửa là tất cả những gì cô có thể làm bây giờ vì dụng cụ của cô không thể phá nổi loại khóa như thế này.
Loạt đạn đầu tiên bắn về phía cái cửa, gỗ vụn bay vèo vèo, và điều cô lo sợ đã trở thành hiện thực. Tấm kim loại hỗ trợ cho cái then kéo dài hết cánh cửa. Suy nghĩ của cô bắt đầu rộn lên, đua nhau tìm câu trả lời, nhưng kết quả lại hoàn toàn là con số không. Cô không có đủ đạn để bắn thủng cánh cửa trong khi khẩu Beretta thì hỏa lực lại không đủ mạnh, đạn của nó bị bẹp dí ngay khi chạm vào cánh cửa.
Biết đâu mình có thể làm cánh cửa yếu đi, phải tiếp tục phá nó thôi
Cô lại bắt đầu bắn, nhắm thẳng vào khung cửa. Phát đạn vang như sấm rền, khoét lỗ trên rìa cánh cửa và đục vỡ đá hoa cương, nhưng không ăn thua, thậm chí cự ly còn chưa đủ gần. Trần nhà vẫn tiếp tục hạ xuống trong tiếng lách cách đều đều, giờ thì từ đầu cô đến trần nhà chỉ còn cách nhau chưa đến 10 feet. Cô sắp sửa bị nó đè nghiến lên người cho đến chết.
Chúa ơi, con không muốn chết như thế này.
"Jill? Có phải em đấy không?"
Một giọng nghèn nghẹt phát ra từ phía ngoài hành lang, và đột nhiên cô cảm thấy một niềm hy vọng tràn trề khi nghe thấy tiếng gọi vừa rồi.
Barry
"Cứu em! Barry, phá cái cửa này ra!" Jill gào lên, giọng cô run rẩy và cao vút.
"Lùi lại đi!"
Jill loạng choạng né sang một bên khi cô nghe thấy tiếng huých mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa gỗ rung lên bần bật nhưng vẫn đứng yên. Jill hét lên một tiếng nhỏ, đầy thất vọng, ánh mắt cô khiếp sợ hết nhìn cánh cửa lại nhìn lên trần nhà.
Lại một cú huých mạnh nữa khiến cánh cửa rung chuyển. Trần nhà chỉ còn cách đầu cô có 5 feet.
Coi nào, coi NÀO.
Cú huých thứ ba, cánh cửa kêu lên răng rắc, vụn gỗ bay tứ tung. Cánh cửa bật mở, Barry đứng ngay trước ngưỡng cữa, mặt anh ửng đỏ nhễ nhại mồ hôi, tay anh lần tìm về phía cô.
Jill liền chạy lên phía trước và ngay lập tức anh nắm lấy cổ tay cô, kéo giật trờ lại về phía hành lang. Cả hai ngã nhào ra sàn nhà trong khi sau lưng họ, cánh cửa của căn phòng đang bị nghiến bay khỏi tấm bản lề. Tiếng gỗ và kim loại kêu lên ầm ĩ trong khi trần nhà đang tiếp tục sập xuống, cánh cửa dần dần nứt toác rồi vỡ vụn.
Với một tiếng "rầm" vang dội cuối cùng, trần nhà đã chạm tới mặt sàn. Căn nhà lại trở lại yên tĩnh như một nấm mồ. Họ lảo đảo đứng dậy, Jill nhìn chằm chằm cái ô cửa. Toàn bộ khung cửa đã bị chặn lại bởi một lớp đá cứng ít nhất phải nặng đến vài tấn mà lúc trước chính là cái trần nhà.
"Em không sao chứ?" Barry hỏi.
Phải mất một lúc, Jill không nói được câu nào. Cô nhìn xuống khẩu shotgun mà cô vẫn đang cầm trên đôi cánh tay run rẩy, nhớ lại lúc trước cô đã tự tin đến thế nào khi cho rằng không có cái bẫy nào hết và đây là lần đầu tiên, cô tự hỏi, làm thế nào mà bọn cô có thể thoát ra khỏi cái ngôi nhà khủng khiếp như thế này được.
Họ đứng giữa căn sảnh trước trống rỗng, Chris thì đi đi lại lại trên tấm thảm phía trước cầu thang, còn Rebecca thì bồn chồn đứng cạnh lan can. Căn sảnh chính đồ sộ vẫn lạnh lẽo và đáng ngại y như lần đầu tiên Chris nhìn thấy nó, những bức tường lặng câm như không muốn thổ lộ ra bất kỳ bí mật nào của chúng; còn cả đội S.T.A.R.S. thì đã đi rồi, và không có một dấu hiệu nào cho biết họ đã đi đâu hay lý do tại sao. Từ đâu đó sâu trong tòa nhà, có tiếng ầm ầm nặng nề phát ra, giống như tiếng một cánh cửa khổng lồ vừa bị đóng sập lại. Cả hai đều ngẩng đầu lên, nghe ngóng, nhưng không nghe thêm gì nữa. Chris thậm chí còn không thể nói được âm thanh đó được phát ra từ hướng nào.
Tuyệt thật đấy, phải nói là "hết xảy". Lũ zombie, bọn khoa học gia điên loạn, và giờ thì đến lượt thứ gì đó va đập vào nhau kêu ầm ĩ giữa đêm khuya. Rõ thật khôi hài.
Anh cười với Rebecca, lòng hy vọng rằng trông anh không đến nỗi bối rối như anh đang cảm thấy trong lòng. "Lạ thật, chẳng thấy ai để lại tin nhắn gì cả. Anh nghĩ chúng ta phải tiến hành kế hoạch B thôi."
"Kế hoạch B là gì hả anh?"
Chris thở dài. "Anh cũng chưa biết nữa. Nhưng chúng mình có thể bắt đầu kiểm tra thử căn phòng thứ hai có hình thanh kiếm khắc cạnh lỗ khóa xem sao. Biết đâu lại tìm thấy thêm thông tin nào đấy hữu ích như một tấm bản đồ hay đại loại thế chẳng hạn, trong khi chờ cả đội tập hợp lại."
Rebecca gật đầu, và thế là Chris dẫn đường cùng cô quay ngược trở lại, đi xuyên qua căn phòng ăn. Anh không thích cái ý tưởng là cứ phải đưa cô đến những chỗ có thể có những mối nguy hiểm đang rình rập, nhưng anh lại càng không muốn để cô phải ở lại một mình, ít nhất là ở căn sảnh chính; đó là nơi trông không an toàn chút nào.
Khi họ đang đi ngang qua cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ thì có thứ gì đó cứng cứng, nhỏ xíu vỡ ra kêu canh cách dưới gót giầy của Chris. Anh cúi xuống và nhặt lên một miếng thạch cao màu xám đen. Có hai ba miếng tương tự cũng rơi ở gần đó.
"Em có để ý thấy mấy miếng thạch cao này trong lần trước khi chúng mình đi ngang qua đây không?" Anh hỏi.
Rebecca lắc đầu, Chris liền cúi xuống, tìm thêm những miếng khác tương tự. Và anh phát hiện ra phía bên kia bàn ăn cũng có một đống những mảnh vỡ như thế.
Họ nhanh chóng vòng qua phía cuối của chiếc bàn dài, ngang qua cái lò sưởi được trang trí tỉ mỉ rồi dừng lại trước đống mảnh vỡ tan tành. Chris di mũi giày vào giữa đống mảnh vỡ màu xám. Theo hình dạng và các góc cạnh của chúng, có vẻ như đây là những mảnh vỡ của một bức tượng hay cái gì đó tương tự.
Nhưng cho dù nó từng là cái gì đi chăng nữa thì bây giờ nó cũng chỉ còn là một đống rác rưởi mà thôi.
"Cái này có quan trọng không anh?" Rebecca hỏi.
Chris nhún vai "Có thể có, cũng có thể không. Dù gì thì anh thấy cũng đáng để xem xét. Trong một hoàn cảnh như thế này thì chúng ta không tài nào có thể biết được liệu thứ gì đó có thể trở thành một manh mối hay không."