40 gương thành công - Chương 27 + 28
27. Đại Tá Robert Falcon Scott
Tôi chưa thấy truyện nào
kích thích hơn, có những nét anh hùng mà bi thảm hơn đời đại tá Robert Falcon
Scott, người thứ nhì đã tới Nam
cực. Cái chết của ông và hai bạn ông ở Ross còn làm cho nhân loại cảm
động.
Tin ông mất tới nước Anh
vào một buổi chiều nắng ráo tháng hai 1913. Cây ky phù lam nở đầy bông ở vườn Regent Park.
Dân tộc Anh choáng váng như tin Nelson mất ở Trafalgar thời trước.
Hai mươi hai năm sau,
nước Anh dựng một viện kỷ niệm Scott, một viện khảo cứu lưỡng cực, viện thứ
nhất về loại đó trên thế giới. Ngay trên cửa viện có một hàng chữ: "Người
tìm những bí mật của Nam Cực và Người đã tìm thấy những bí mật của Thượng
Đế".
Scott bắt đầu cuộc thám
hiểm ở Terra Nova, và từ khi tầu ông tiến vào cõi băng tuyết là sự rủi ro cứ
theo riết, quấy phá ông hoài.
Những ngọn sóng vĩ đại
đập vào tàu đánh trôi hết những hàng hóa ở trên boong xuống biển. Hàng tấn nước
biển ào ào như sấm, cuồn cuộn chảy vào hầm tàu. Nước tràn cả vào lò lửa đốt nồi
súp de. Máy bơm hóa vô dụng. Và mấy ngày như vậy, chiếc tàu hùng dũng cứ lăn ở
giữa những làn sóng, trên mặt biển tung tóe, không cách gì cứu được.
Nhưng sự rủi ro nào đã
hết đâu. Đó mới chỉ là những bước đầu.
Ông đem theo mấy con
ngựa nhỏ khỏe mạnh đã quen chịu lạnh ở miền băng tuyết xứ Sibérie; nhưng lúc đó
chúng hấp hối, dãy dụa trên băng tuyết, cẳng thì gẫy vì thụt xuống hố; thành
thử ông phải bắn cho chúng chết.
Tới chó cũng vậy. Ông
dắt theo toàn là giống chó mạnh khỏe ở Yukon,
mà chúng hóa ra như khờ dại, cứ nhắm mắt chạy trên bờ những lỗ nẻ trong
băng.
Thành thử Scott và bốn
người bạn đồng hành phải thay ngựa, thay chó, kéo một chiếc xe lướt tuyết nặng
nửa tạ, thui thủi trên đường tới Nam cực. Ngày lại ngày, họ mắm môi
mắm lợi tiến trong cánh đồng băng tuyết, hổn hển đẩy hoặc kéo, nghẹt thở vì
không khí lạnh và loãng ở một nơi cao, cách mặt biển ba ngàn thước.
Vậy mà họ không phàn
nàn. Vì ở cuối con đường đau khổ đó, họ sẽ thấy sự thành công, sẽ thấy Nam cực huyền
bí, nằm yên lặng từ hồi khai thiên lập địa tới nay. Nam cực, nơi mà không có lấy một
sinh vật, cả đến bóng một con hải âu lạc bầy cũng không có.
Và tới ngày thứ mười
bốn, họ tới được Nam
cực. Nhưng họ sửng sốt và đau lòng làm sao! Trước mặt họ, ở đầu một cây gậy,
một miếng vải rách phất phới bay trong gió lạnh. Họ nhìn kỹ thì là một ngọn cờ,
ngọn quốc kỳ của Na Uy, Amundsen, người Na Uy, đã tới trước họ! Thành thử, sau
mấy năm dự bị, sau mấy tháng đau khổ, họ đã thất bại chỉ vì trễ mất năm tuần
lễ.
Chán nản, họ trở
về.
Cuộc chiến đấu lâm ly
trên đường về đáng là một khúc ngâm đoạn trường. Gió lạnh buốt tới xương, áo họ
đầy tuyết và râu họ đó băng. Họ lảo đảo té: mỗi vết thương đưa họ tới gần cõi
chết hơn một chút. Trước hết, sĩ quan Evans, người lực lưỡng nhất trong đoàn,
trượt chân, té, đầu đập vào băng, chết tươi.
Rồi tới đại táOates đau.
Chân ông bị lạnh quá, nứt ra. Ông đi không nổi. Ông biết rằng mình làm chậm
việc hồi hương của các bạn. Cho nên, một đ êm ông làm một việc chỉ thần thánh
mới làm nổi. Giữa cơn dông tuyết gầm thét, ông rời bạn bè, đi ra ngoài trời để
chết cho các bạn sống.
Không làm bộ anh hùng,
cũng không tỏ vẻ quan trọng, ông bình tĩnh bảo các bạn: "Tôi ra ngoài một
chút". Rồi ông đi luôn. Không ai tìm thấy xác chết cóng của ông. Nhưng
hiện nay một đ ài kỷ niệm được dựng tại chỗ ông ra đi, trên đ ài có hàng chữ: Ở
khoảng này, một vị trượng phu anh hùng đã lìa đời.
Scott và hai bạn còn lại
lảo đảo tiến. Họ không còn ra vẻ con người nữa. Mũi, ngón tay, chân đều nứt nẻ
vì lạnh. Và ngày mười chín tháng hai năm 1912, nghĩa là mười lăm ngày sau khi
họ rời Nam cực, họ cắm trại lần cuối cùng. Họ còn đủ than để nấu hai chén trà,
và đủ thức ăn cho hai ngày. Họ tin rằng họ sẽ thoát chết vì chỉ còn khoảng hai
chục cây số nữa là tới một chỗ mà họ đã chôn thức ăn trong lúc đi. Rán sức: ghê
gớm thì tới được.
Thình lình tai nạn thê
thảm xảy ra.
Từ chân trời, một cơn
dông tuyết gào thét, ào ào thổi tới, mạnh tới nỗi cắt ngang những chỏm băng.
Trên trái đất không có sinh vật nào tiến trong cơn dông tuyết đó mà sống nổi.
Scott và hai bạn đ ành ngừng bước, nằm trong lều mười một ngày nghe dông gầm.
Thức ăn đã hết. Tất chết. Họ biết rằng họ phải chết.
Có một cách để chết, một
cách êm ái. Họ mang theo nha phiến để phòng những lúc cần phải chết như lúc
này. Nuốt một phân lượng lớn là họ nằm đó, lơ mơ mộng thích thú rồi ngủ
luôn.
Nhưng họ không thèm dùng
nha phiến. Họ quyết nhìn thẳng vào cái chết một cách trượng phu đặc biệt của
nước Anh thời cổ.
Trong giờ cuối cùng của
đời ông, Scott viết một bức thư tả cảnh chết cho ông James Barrie. Thức ăn hết
đã lâu. Thần chết đã lởn vởn ở trong lều. Vậy mà Scott viết:"Nếu ông nghe
được chúng tôi ca vang cả lều thì lòng ông chắc cũng vui vui".
Tám tháng sau, một ngày
nọ, trong khi mặt trời Nam cực yên lặng chiếu sáng cảnh băng tuyết lấp lánh,
mênh mông, một đoàn người kiếm được thi hài của ba vị anh hùng đó.
Người ta chôn ba vị ở
ngay chỗ ba vị lìa trần, chôn dưới một thánh giá làm bằng hai cái pa tanh cột
với nhau. Và trên nấm mồ chung đó, người ta viết những vần thơ này của
Tennyson:
Có tính bình tĩnh của
những tâm hồn anh hùng,
Thì mặc dầu thời vận, số
mạng làm cho yếu nhưng chí vẫn mạnh.
Để phấn đấu, tìm tòi,
thấy, chứ không chịu khuất phục.
28. Al Smith
Năm mươi tám năm trước,
một người lái xe cam nhông chết ở Nữu Ước. Ông ta quê quán ở Ái Nhĩ Lan, đã đau
từ lâu, phải bỏ nghề lái xe mà làm nghề gác đ êm. Khi ông mất, nhà nghèo tới
nỗi bạn bè phải góp nhau mỗi người một ít mua cho ông cỗ quan tài. Ông để lại
vợ góa và hai con. Bà vợ mơ mộng những chuyện xa xôi, quyết chí cho con đi học,
tới đâu hay tới đó. Bà xin được một việc trong một hãng làm dù và làm mười giờ
một ngày. Mặc dầu vậy, tiền công không đủ ăn, bà phải đem đồ ở hãng về nhà làm
thêm tới mười, mười một giờ đ êm. Thành thử người mẹ đó làm quần quật mười bốn
mười lăm giờ một ngày để nuôi con.
Đáng thương tâm làm sao!
Bà không vén được tấm màn tương lai để mà thấy trước rằng một ngày kia người
con nhỏ của bà làm Thống Đốc tiểu bang Nữu Ước, không phải một lần mà là bốn
lần, lâu hơn hết thảy những Thống Đốc trước.
Đáng thương tâm làm sao!
Người đó không thể thấy trước rằng năm 1928, con bà là ứng cử viên của đảng Dân
Chủ để tranh chức Tổng thống.
Đáng thương tâm làm sao!
Bà không được biết trước rằng ngày mùng 5 tháng 5 năm 1944, tờ báo New York
Times gọi con bà là "công dân được nhiều người mến nhất ở Nữu
Ước".
Vì Al.Smith chính là
người con cưng của thành phố lớn nhất châu Mỹ (...)
Một lần tôi hỏi ông đi
học được bao lâu. Ông ngập ngừng một chút rồi nói: "Để tôi tính - để tôi
tính...Tôi không nhớ rõ lắm. Tôi sanh năm 1873, tôi đoán rằng tôi được đi học
khoảng bảy hay tám năm, nhưng tôi không chứng thực được điều đó. Tôi không được
bằng cấp nào hết mà cũng không có tấm giấy nào chứng tỏ rằng tôi đã đi
học".
Vâng, Alfred Emmanuel
Smith không có miếng giấy nào chứng tỏ rằng ông đã đi học, nhưng ông có những
tờ giấy chứng tỏ rằng ông được sáu trường đại học lớn, trong số đó có trường
Columbia và trường Harvard, tặng ông học vị danh dự vì những thành công xuất
chúng của ông về chính trị và lòng hy sinh của ông cho nhân loại.
Tôi hỏi ông có buồn vì
lẽ không được vô đại học không. Ông đáp không. Ông bảo rằng người nào muốn tiến
lên những bực cao trong chính giới thì phải có tài đắc nhân tâm, phải biết cách
cư xử ở đời, mà ông cảm thấy rằng có lẽ khi vác đồ ở các chợ tại đường Fulton
và khi làm thừa phát lại trong tám năm, ông đã học được về cách xử thế nhiều
hơn là nếu ông học trong một trường đại học.
Hồi mười tuổi, ông ở
trong nhạc đội nhà thờ, mùa lạnh cũng phải dậy sớm từ năm giờ để hầu lễ vào sáu
giờ.
Năm hai mươi hai tuổi,
ông bán báo ở bến tàu. Lúc rảnh ông chơi dã cầu ở dưới gầm cầu Brooklyn Bridge... Nhưng ông thích nhất là được
lái xe cứu hỏa. Ông chỉ mong được làm lính cứu hỏa, nên sống chung với lính cứu
hỏa, ca múa cho họ vui. Và khi có chuông kêu cấp cứu thì ông chụp lấy bình cà
phê và hộp bánh luôn luôn để sẵn ở cửa sổ, can đảm leo lên xe cứu hỏa khi xe
bắt đầu phóng trong thành phố (...)
Năm ông mười bốn tuổi,
một việc xảy ra, định hướng cho đời ông. Ông thắng được một cuộc tranh biện
trong trường. Sự thành công đó đưa ông lên sân khấu và làm tăng lòng tự tin của
ông. Ông được mời vào hội Saint James Players, một hội tài tử diễn kịch để giúp
cô nhi viện. Ông thành công. Khán giả thích nụ cười và thiên tài của ông.
Chẳng bao lâu ông thành
ngôi sao và linh hồn của hội. Ông thích cuộc đời sân khấu đó quá! Nó đưa ông
qua một thế giơi khác. Ban ngày ông làm mười hai giờ ở chợ cá Fulton Street để
lãnh mỗi tuần trên hai Anh kim; Nhưng ban đ êm ông sống trong cái thế giới sân
khấu rực rỡ ánh đ èn và phấn son. Ban đ êm ông thành một anh hùng, một nghệ sĩ,
lòng nở ra khi khán giả vỗ tay khen. Ông đóng những vai quan trọng nhất trong
các kịch May Blossom, The Confederate Spy, the Ticketof Leaveman và The
Almighty Dollar. Nhờ kinh nghiệm trên sân khấu, ông tập được tài ăn nói dễ dàng
và tự nhiên trước thính giả, tài chỉ huy một đám đông. Ít lâu sau ông diễn
thuyết về chính trị, trên một chiếc xe cam nhông, giữa đám quần chúng ở các góc
đường. Hồi đó, ông là một người lao động, làm chật vật trong một xưởng chế tạo
máy bơm ở Brookly; nhưng trong khi ông ngồi ăn bánh của bà thân ông làm và gói
mang theo tới hãng, ông đã mơ mộng một ngày kia được bầu là nghị sĩ tiểu bang
Nữu Ước. Mộng đó sau thực hiện được, nhưng ông còn phải trải qua một thời làm
thừa phát lại.
Trong tám năm ông viết
trát kêu người ta đi hầu tòa. Nhờ công việc đó, ông tiếp xúc với đủ hạng người,
từ anh bán bánh, bán thịt tới các nhà lý tài ở Wall Street. Ông học được nhiều
kinh nghiệm về bản chất con người và tập được tánh nhẫn nhục chịu sự ngược đãi
vì hai chục phần trăm những người ông đem trát tới, tố cáo và nguyền rủa
ông.
Tháng giêng năm 1904,
khi ông tới Albany lãnh chức nghị viên viện lập pháp, ông ba chục tuổi. Trong
ba chục năm đó ông chưa lần nào ngủ ở khách sạn. Đêm ấy ông lại khách sạn, vô
phòng và đọc một tờ báo ra buổi chiều, đăng tin một đám cháy tại một khách sạn
Chicago làm nhiều người chết. Trời lạnh, nhiệt kế biểu xuống tới mười sáu độ
dưới số không. Đọc những chi tiết rùng rợn về đám cháy, ông không khỏi nghĩ tới
những người mà ông thấy chất củi trong lò sưởi khách sạn ông ở. Một khách sạn
bằng gỗ. Ông ở trên từng lầu thứ bảy. Nếu cháy thì không có cách nào thoát
được. Ông thống đốc tương lai của Nữu Ước không ham cái nạn bị chết cháy, nhất
là trong đ êm đầu tiên ông ở khách sạn, cho nên ông đánh thức một người bạn để
chơi bài tiêu khiển với ông tới năm giờ sáng. Rồi hai người mới thay phiên nhau
ngủ, cứ mỗi người ngủ một giờ rồi dậy canh cho người kia ngủ, để khỏi bị chết
cháy.
Mấy năm đầu ở Albany ông
điên đầu vì những công việc trong viện Lập pháp. Ông hết sức nghiên cứu các dự
án về luật mà chẳng hiểu gì cả, vì những dự án đó dài dòng, rắc rối và tối tăm
đối với ông, như thể viết bằng tiếng Ấn Độ. Lại thêm người ta giao cho ông
những trọng trách mà ông chưa biết chút gì, người ta bầu ông vào Ủy ban về Ngân
hàng mà ông chưa hề tới một ngân hàng nào, trừ phi để giao trát kêu một vài chủ
ngân hàng đi hầu tòa. Người ta lại bầu ông vào Ủy ban về Lâm sản mà ông cũng
chưa hề đặt chân vào một khu rừng nào. Sau khi làm việc ở viện Lập pháp mười
lăm tháng ông thất vọng đến nổi muốn bỏ. Nhưng ông không bỏ, chỉ vì một lẽ là
nếu chịu thua thì sẽ mắc cỡ với mẹ và bạn bè, sau cùng ông tự nhủ: "Mình
đã thắng được trong những vấn đề khác thì sẽ thắng được trong vấn đề
này".
Từ đó trở đi ông làm
việc mười sáu giờ một ngày, nghiên cứu các dự án, cách thức thảo luật. Người ta
bảo ông là người thứ nhất không khi nào chịu chấp thuận một đạo luật nào mà
không đọc và hiểu kỹ mỗi khoản trong đó, dầu nó có đến cả ngàn khoản. Ông nhất
định dùng tiền của những người đóng thuế cũng kỹ lưỡng như tiêu tiền của ông.
Nếu bộ nào cần một người thư ký thì ông đòi biết thư ký đó vào hạng nào, sẽ làm
công việc gì và tại sao lại phải cần dùng đến họ.
Chín năm sau khi tới
Albany, ông làm chủ tịch viện Dân biểu của tiểu bang và chắc chắn biết nhiều về
việc nước hơn bất cứ người nào khác, nên mọi chính khách phải khâm phục
ông.
Hỏa hoạn tai hại phát ở
một xưởng tại Nữu Ước năm 1911, làm cho ông cũng như mọi người kinh khủng: 148
nạn nhân bị cháy thành than, phần đông là đ àn bà và trẻ con, có nhiều người
nhảy từ từng lầu thứ bảy xuống đất, chết tan xương. Từ đó Al Smith thành lập
một thập tự quân chiến đấu cho những điều kiện làm việc được hoàn hảo hơn; ông
giúp được nhiều trong việc cải thiện luật lao động của tiểu bang Nữu Ước, trừ
hỏa hoạn, trừ cái tệ bắt trẻ con làm việc trong các nhà máy, bắt thợ làm việc
cả bảy ngày mỗi tuần, và tệ trả công rẻ mạt, ông đặt ra những luật để giảm tai
nạn, và cải thiện vệ sinh cho công nhân. Những luật xã hội đó được nhiều tiểu
bang khác và nhiều nước phỏng theo.
Bốn chục năm trước, khi
Tom Foley đưa Al. Smith vào viện Lập pháp, có khuyên Al. Smith: "Anh Al,
anh đừng bao giờ hứa một điều gì mà anh không giữ được, và có nói điều gì thì
luôn luôn phải cho đúng sự thực".
Chẳng những Al. Smith
nói đúng sự thực mà còn chiến đấu cho sự thực bất kỳ ở trong địa vị nào.