40 gương thành công - Chương 11
11. Đề Đốc C. W. Nimitz
Đề đốc Chester W. Nimitz
đã là tư lệnh của hạm đội lớn nhất thế giới từ trước đ êán nay, là vị tổng tư
lệnh khu vực Thái Bình Dương, một khu vực lớn gần bằng hai mươi lần nước Hoa
Kỳ, một đại dương rộng hơn cả Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Âu Châu, Á Châu, Phi Châu và Úc
Châu gồm lại. Ông thắng ở Midway một trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử, mà
khi ông lãnh chức chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, hồi cuối năm 1941, hai mươi
bốn ngày sau trận Trân Châu cảng, ông phải đương đầu với một tình hình cực kỳ
thê thảm: Hoa Kỳ mới thua một trận thủy chiến tai hại nhất trong lịch sử của
họ.
Ngày mùng bảy tháng chạp
năm 1941, buổi sáng, lúc tám giờ thiếu năm, hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ
có tám chiếc thiết giáp hạm. Hai giờ sau, năm chiếc đã nằm dưới đáy biển Trân
Châu cảng vì trúng bom Nhật. Trong số đó có chiếc Arizona, hồi trước treo cờ hiệu của Đề đốc.
Ba chiếc còn lại bị hư nặng, phải đem về sửa chữa ở Hoa Kỳ. Thực là một tai họa
nặng nề. Người Hoa Kỳ biết vậy. Mà người Nhật cũng biết vậy.
Người Nhật biết rằng hạm
đội Hoa Kỳ thiếu chiến hạm, thiếu phi cơ, thiếu đại bác phòng không, thiếu tiềm
thủy đĩnh, thiếu khí giới, thiếu mọi thứ quân nhu. Nếu họ biết rằng Hoa Kỳ chỉ
còn một trăm bảy mươi sáu phi cơ chiến đấu để che chở cả khu vực mênh mông là
Thái Bình Dương thì họ còn ngạc nhiên hơn nữa. Mà ai cũng biết rằng quân Nhật
sẽ đánh nữa, đánh mạnh và mau, trong khi Hoa Kỳ còn yếu.
Trong những điều kiện
đó, Tổng thống Roosevelt biết rằng muốn thắng
quân Nhật thì trước hết phải gửi tới Trân Châu cảng một vị tư lệnh có đủ tài
ba. Và ông lựa Đề đốc Chester W. Nimitz.
Đề đốc đi từ Hoa Thịnh
Đốn qua Trân Châu cảng phải mạo hiểm, lén lút như một nhân vật trong truyện
phiêu lưu hoặc trinh thám. Ông đem theo những tài liệu bí mật của chính phủ về
những tổn thất của hạm đội do quân Nhật gây ra. Chính phủ biết rằng đội do thám
Nhật muốn nắm được những tài liệu đó, và nếu có thể được, giết Đề đốc Nimitz để
cướp lấy. Vì vậy, muốn cho không ai nhận được ra mình. Đề đốc phải đổi tên là
Wainwright, bận đồ thường, đi từ Hoa Thịnh Đốn tới California, ông chứa tài
liệu bí mật bằng túi may vải bố của vợ, cho người ta khỏi để ý tới.
Tại sao Tổng thống Roosevelt đã lựa ông trong số những thủy sư khác để giao
trách nhiệm lớn lao đó? Về tuổi tác, ông còn kém hai mươi tám thủy sư khác, mà
ông nhảy lên chức vị trên họ, chỉ huy chẳng riêng gì hạm đội Thái Bình Dương mà
luôn cả khu vực Thái Bình Dương. Ông được uy quyền mênh mông như vậy, phần lớn
là nhờ ông có bốn đức hơn người.
Trước hết ông nhiều kinh
nghiệm và hiểu rộng về thủy quân. Ít năm sau khi ở Hàn lâm viện Thủy quân ra,
ông xin được bổ dụng trong một chiến hạm. Nhưng trái hẳn với ý muốn, ông bị đưa
tới một tiềm thủy đĩnh, trong đó hơi ở máy đưa ra muốn nghẹt thở.
Mặc dầu đời sống trong
tiềm thủy đĩnh cực khổ và nguy hiểm, ông cũng hăng hái yêu nghề vì ông biết
rằng tiềm thủy đĩnh sau này ảnh hưởng rất sâu xa tới thuật thủy chiến. Nhờ vậy
năm 1913, mới hai mươi bảy tuổi ông đã được làm tư lệnh đội tiềm thủy đĩnh Hoa
Kỳ ở Đại Tây Dương và trong đại chiến thứ nhất, ông phụng sự quốc gia với chức
đó. Sau này, ông xây cất và chỉ huy một căn cứ tiềm thủy quân ở Trân Châu
cảng.
Rồi ông học được nhiều
kinh nghiệm về mọi hoạt động của thủy quân, ai cũng trọng ông vì tài và sức
hiểu biết của ông. Hồi mới vô nghề, có lần ông chỉ huy một khu trục cũ. Chiếc tàu
thình lình di nước. Nước vô nhiều quá, bơm ra không kịp. Viên kỹ sư coi máy hốt
hoảng hướng lên boong tàu, hỏi lớn tiếng:"Thưa, tàu muốn chìm, tôi phải
làm sau đây?".
Từ trên boong tàu, ông
đáp:"Lật cuốn Engineering Manual của Barton, trang 84, mà coi sẽ thấy phải
làm gì trong trường hợp như vậy". Viên kỹ sư nghe theo và cứu được chiếc
tàu.
Đức thứ nhì của Đề đốc
Nimitz là ông hăng hái muốn biết tất cả các loại tàu. Ông nói:"Tôi thích
tất cả các chức vụ của tôi, sở dĩ vậy là vì tôi muốn hiểu rõ bất kỳ một hoạt
động nào?".
Đức thứ ba của Đề đốc là
tài điều khiển người. Ông rộng rãi khi khen, thưởng. Trong thủy quân không ai
được trọng và mến như ông.
Foster Hailey đã sống
hai năm trên Thái Bình Dương, đã nói chuyện với cả ngàn sĩ quan thủy quân và đã
viết một bài báo trên Times ở Nữu Ước nói rằng không hề nghe một người nào chỉ
trích Nimitz.
Đức thứ tư của Nimitz là
đức bình tĩnh trong những lúc nguy kịch. Coi cách ông chỉ huy ở Trân châu cảng
cũng đủ biết.
Khi ông mới tới đó, các
sĩ quan lục quân và thủy quân, lo lắng, vội vàng chạy lại phòng giấy của ông,
và phần đông khi ở phòng giấy ra đều vui vẻ, tự tin trở lại. Có lần các nhà
báo, bị kích thích quá, nóng nảy hỏi ông về những chương trình tác chiến sau
này, ông đáp:"Để trả lời những câu hỏi đó, tôi nghĩ, không còn gì hơn là
mượn một câu tục ngữ của dân bản xứ ở Hạ Uy Di này, câu "Hoo mana
wahui" Câu đó nghĩa là: "Thời gian sẽ thu xếp mọi việc".
Thực vậy, thời gian đã
thu xếp mọi việc, bạn hỏi người Nhật thì biết.
(...) Đề đốc Nimitz luôn
luôn có lễ độ. Sau khi đánh tan nát hạm đội Nhật trong trận Midway, ông bay về
bờ biển phía Tây Hoa Kỳ để hội nghị với Đề đốc Ernest J. King. Khi phi thuyền
của ông hạ cánh, thì một tai nạn làm ông suýt chết. Một khúc gỗ lớn trôi, đâm
bể bụng phi thuyền, rồi cắm vào mũi nó, làm nó lùi lại phía sau. Viên phi công
phụ bị tử thương. Đề đốc bị vài vết bầm và bị trật xương. Người ta đưa những
người sống sót lên bờ, trong khi ấy, ông đứng ở mũi thuyền. Ông ướt đẫm. Người
chèo thuyền mới đầu vô ý không nhận ra ông, bèn la lớn, bảo ông:" Ê, chú
kia, ngồi xuống!" Và viên tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương vui vẻ vâng
lời. Người chèo thuyền ngó lại kỹ. Mắt anh ta trố ra. Tim anh ta muốn ngưng
đập. Anh ta bắt đầu xin lỗi và lắp bắp, không nên tiếng. Đề đốc mỉm cười:"Chú
cứ làm phận sự của chú. Chú có lỗi gì đâu?".
Mỗi buổi sáng, ông đi bộ
một giờ trước khi điểm tâm, mỗi tuần ông lội bộ hai cây số, chơi quần vợt, mỗi
sáng ông tập bắn mười hai phát súng sáu để luôn luôn được thuần tay.
Ông biết cách nghỉ ngơi
hoàn toàn nên mới làm được những trách nhiệm mà người thường không sao gánh
nỗi. Mỗi buổi trưa, ông tắm nắng một lúc.
Đêm mà nhà hàng Breaker
ở Waikiki được biến đổi thành một trung tâm
tiếp các người đầu quân, người ta chụp hình Đề đốc đầu bạc khiêu vũ với một
thiếu nữ má hồng. Bộ thủy quân thích tấm hình đó, muốn đưa lên báo để quảng
cáo, nhưng ông già khôn ngoan nắm ngay tấm hình đầu tiên, gởi máy bay về cho bà
vợ, để người khác không kịp đưa bà coi trước. Ông già đã giỏi chiến thuật mà
cũng giỏi tâm lý nữa!
(...) Năm 1905, khi ông
ở trường Annapolis
ra, trong cuốn sổ mỗi năm của trường, ghi về ông như vầy:"Một người vui vẻ
về dĩ vãng và tin tưởng ở tương lai". Theo tôi, không lời nhận xét nào
đúng hơn lời đó.