Đức Phật và Nàng p1 - Chương 43 - 44

Chương 43: Thức giấc

 

 Tôi ngồi bên
giường lặng lẽ ngắm Ra­ji­va.

 

 Hôm qua là một
ngày vô cùng mệt mỏi, nhưng tôi không sao ngon giấc vì có chàng nằm bên cạnh.
Căn phòng không còn bất cứ thứ gì khác có thể ngả lưng nên tôi đành thu mình
nằm cạnh chàng. Một đêm dài dằng dặc với những nỗi lo sợ mơ hồ, sợ xoay người
sẽ khiến chàng tỉnh giấc, sợ vô tình chạm vào người chàng, sợ thức dậy muộn hơn
chàng khiến chàng khó xử. Vì thế, tôi chỉ có thể nằm yên, không nhúc nhích,
không động đậy, toàn thân tê dại, rã rời. Trời vừa hửng sáng tôi đã thức giấc,
đi lại vận động trong căn phòng, nhưng cố gắng hết sức để không gây ra tiếng
động.

 

 Chàng đang say
giấc, dù đã ba mươi lăm tuổi và không còn trẻ trung như mười một năm về trước,
nhưng chàng vẫn rất thuần khiết, vẫn rất hấp dẫn. Chàng trẻ hơn rất nhiều so
với những nam giới cùng tuổi khác ở thời đại này, có lẽ vì ngày này qua tháng
khác, chàng chuyên tâm tu tâm dưỡng tính nơi cửa Phật. Những nếp nhăn mờ ảo
trên vầng trán và khóe mắt càng tôn thêm vẻ đẹp trưởng thành, già dặn. Sau một
đêm nghỉ ngơi, khí sắc của chàng đã khá lên rất nhiều, không còn nét tiều tụy
của ngày hôm qua nữa. Khóe môi thấp thoáng nụ cười, khiến cả khuôn mặt trở nên
rạng rỡ, hình như, chàng đang mơ một giấc mơ đẹp.

 

 Tôi cứ ngồi mãi
như thế mê mải ngắm nhìn thần tượng của mình. Đã về trưa mà chàng vẫn say trong
giấc ngủ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời chàng thức dậy muộn như vậy. Còn
tôi, cơn buồn ngủ ập tới dữ dội, khiến tôi không sao kìm chế nổi, gục đầu
xuống, thiếp đi.

 

 Ai đó đang khẽ
vuốt tóc tôi, tôi giật mình mở mắt, trái tim đập rộn ràng khi bắt gặp đôi mắt
màu xám nhạt long lanh như hồ nước mùa thu ấy, đôi mắt đã xuất hiện không biết
bao nhiêu lần trong từng đêm mơ của tôi ấy, đang ở rất gần.

 

- Chàng… tỉnh rồi ư…

 

 Tôi vội đứng lên,
hỏi chàng:

 

- Chàng có đói không? Em
đã kêu họ mang đồ ăn tới…

 

 Tôi cầm chiếc bát
đặt ở đầu giường.

 

- Ôi, nguội cả rồi. Để
em bảo người hâm nóng lại…

 

 Tôi, ánh mắt ngập
đầy thương nhớ. Điều đó quá đỗi ngọt ngào, tôi khẽ gọi tên chàng:

 

- Ra­ji­va…

 

- Quả là cứ sau mười
năm, nàng sẽ quay lại.

 

 Chàng vẫn nằm trên
giường, khẽ nhắm mắt, tiếng thở dài thoáng qua, khóe môi khẽ rung động:

 

- Nàng trở về là tốt
rồi…!

 

- Tôi lại gần chàng,
ngồi xuống, áp tay chàng lên má tôi, mỉm cười:

 

- Vâng, em đã trở về…

 

 Bàn tay chàng run
rẩy cọ xát trên khuôn mặt tôi, từ từ dạo qua hai mắt, sống mũi, bờ môi, đáy mắt
phơi phới hơn qua mỗi dịch chuyển nhẹ nhàng. Rồi chàng đột nhiên bật dậy, gi­am
chặt tôi vào lòng, cằm chàng đặt trên đỉnh đầu tôi, những sợi râu lúm phún cọ
vào da đầu ram ráp, tôi muốn bật cười nhưng chỉ cười ra nước mắt.

 

 - Phật tổ, Ngài
thật từ tâm...

 

 Giọng nói nghẹn
ngào trôi bên tai tôi:

 

 - Ngài đã đưa nàng
trở về...

 

 Chàng đỡ hai vai
tôi, ánh mắt da diết nhìn tôi:

 

 - Mười một năm rồi
mà nàng không hề thay đổi...

 

 - Có chứ, em đã
hai mươi lăm tuổi rồi...

 

 Tôi mỉm cười nhìn
chàng, sống mũi cay cay.

 

 - Một năm trên
trời bằng mười năm dưới hạ giới ư?

 

 Chàng vuốt nhẹ mái
tóc tôi, động tác êm dịu như nâng niu một vật báu.

 

 - Lần đầu gặp
nàng, nàng hơn ta mười tuổi. Lần thứ hai gặp nàng, nàng bằng tuổi ta. Bây giờ,
ta đã hơn nàng mười tuổi.

 

 Bàn tay chàng nhẹ
nhàng vuốt ve hai má tôi, ánh mắt dịu dàng:

 

 - Ngải Tình, nàng
có biết con số “mười” ấy chính là biểu trưng của định mệnh trong cõi u minh
không?...

 

 Tôi cười, đúng
vậy, ông trời đã sắp đặt mọi thứ, phải không? Nhìn khuôn ngực để trần của
chàng, bất giác nhớ lại chuyện đêm qua, mặt tôi đột nhiên nóng bừng như phát
sốt, ngượng ngập nói với chàng:

 

 - À... chàng lau
người đi rồi dậy ăn cơm... Chắc chàng nhức đầu lắm phải không? Em đã kêu người nấu
canh giã rượu cho chàng rồi...

 

 Tờ mờ sáng tôi đã
kêu người mang nước vào và lặng lẽ lau rửa sạch sẽ. Tôi cũng muốn giúp chàng,
nhưng sợ làm chàng thức giấc, vả lại, tôi cũng không đủ can đảm để làm việc đó.
Mặc dù mồ hôi đầm đìa trên người chàng, lại thêm mùi rượu nồng nặc suốt ba ngày
ba đêm, quả thực rất khó ngửi.

 

 Nghe vậy, chàng
giật mình, rời tôi ra. Tấm chăn được gạt sang một bên, để lộ vệt máu đã khô
trên mặt chiếu. Không mảy may nghĩ đến tình trạng của bản thân, chàng kéo vội
cánh tay phải của tôi ra trước mặt, vén tay áo, quan sát khuỷu tay tôi. Sau khi
phẫu thuật, vết thương hầu như đã biến mất, chỉ lưu lại những dấu vết rất nhỏ.

 

 - Thần Phật trên
trời quả nhiên có sức mạnh siêu phàm, tay nàng đã hoàn toàn lành lặn.

 

 Chàng ngước lên
nhìn tôi, đôi mày nhíu lại, vẻ băn khoăn:

 

 - Vậy thì nàng lại
bị thương ở chỗ nào?

 

 Bây giờ tôi mới
hiểu chàng đang nói về vệt máu kia. Tôi ngượng ngùng giải thích:

 

 - Em không bị
thương, cái đó... là... lần đầu của phụ nữ...

 

 Tôi chưa bao giờ
cảm thấy xấu hổ như vậy khi đứng trước mặt chàng.

 

 - Tóm lại, em
không sao cả, chàng đừng lo...

 

 - Lần đầu ư?

 

 Vẻ băn khoăn ngày
càng hiện rõ trên gương mặt chàng. Tôi bỗng cảm thấy hụt hẫng, lẽ nào chàng
không nhớ gì cả ư?

 

 Không muốn nghĩ
nhiều về vấn đề này, phải làm việc gì đó mới được. Tôi đứng lên, định đi múc
nước, nhưng cử động hơi mạnh khiến vết thương ở phần thân dưới nhói buốt. Tôi
buột miệng xuýt xoa.

 

 - Rốt cuộc là đau
ở đâu?

 

 Chàng vội kéo tôi
lại, đôi mắt trong veo ấy chà xát khắp người tôi.

 

 - Em không sao mà!

 

 Tôi khẽ kéo tay
chàng ra, nên đau, lê ra ngoài bưng chậu nước vào phòng, chiếc khăn mặt tôi đặt
trong chậu là sản phẩm của thế kỷ XXI, vì khăn vải của thời đại này quá ư thô
ráp. Tôi vắt kiệt nước, ngượng ngùng đưa cho chàng:

 

 - Chàng lau người
đi.

 

 Chàng không đón
lấy, mà lẳng lặng kéo chăn ra nhìn, khuôn mặt chàng đột nhiên đỏ bừng như mặt
trời mùa hạ. Chàng bỗng trở nên thất thần, một lúc sau mới quay đầu lại hỏi
tôi:

 

 - Ta đã khiến nàng
bị đau phải không?

 

 Tôi vừa giận vừa
buồn cười. Con người tuyệt đỉnh thông minh ấy sao lại có thể khù khờ trong
chuyện này như vậy? Tôi phải giải thích thế nào với chàng đây?

 

 - Không phải chàng
làm em đau, em tự nguyện mà!

 

 Chàng bần thần hồi
lâu, đột nhiên quay lại nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:

 

 - Ngải Tình, nàng
trở về khi nào? Vì sao nàng tới được đây?

 

 - Hôm qua.

 

 Tôi nghĩ nên nói
hết sự tình với chàng.

 

 - Tối qua Pusyse­da
đưa em tới gặp Lữ Quang để thuyết phục ông ta đã đồng ý tráo đổi em và Ak­saya­mati...

 

 Chàng như run lên,
sắc mặt tái đi, giọng nói nhẹ như gió:

 

 - Tối qua, ta đã
gặp nàng thật ư?

 

 Tôi gật đầu.

 

 - Thì ra không
phải là mơ... Trả trách ta cứ có cảm giác giấc mơ ấy sao mà hệt như thực vậy.

 

 Chàng lại gần tôi,
định nói gì đó, nhưng không thốt ra lời.

 

 - Ta... đã... phá
giới thật ư?

 

 - Ra­ji­va, chính
em là người đã mê hoặc chàng.

 

 Tôi cắn môi, khẽ
nắm tay chàng.

 

 - Phật tổ sẽ hiểu
sự thành tâm của chàng. Chàng đã kiên cường chống chọi suốt ba ngày, đó là điều
mà không một người bình thường nào có thể làm được. Bọn chúng còn ép chàng uống
rượu đã bỏ xuân dược vào. Thế nên, xin chàng đừng nghĩ ngợi về chuyện xảy ra
đêm qua nữa, đừng tự trách mình, chàng không có lỗi gì cả...

 

 Ra­ji­va cúi đầu
thinh lặng, bàn tay nắm chặt tấm chăn đang run lên bần bật. Tôi biết trong phút
chốc, chàng không thể chấp nhận sự thực này, nên chỉ biết thở dài, đặt chậu
nước và quần áo lên tủ.

 

 - Em ra ngoài một
lát, chàng lau người và thay quần áo đi.

 

 Đó là một bộ đồ
lụa phổ biến mà bọn người ngoài kia trao cho tôi, bọn họ không chịu mang y phục
của tăng sĩ tới.

 

 - Không tìm được y
phục của tăng sĩ nên chàng chịu khó mặc bộ đồ này vậy.

 

 Tôi bưng khay đồ
ăn đã nguội ra ngoài.

 

 Luôn luôn có người
canh giữ ngoài cửa, tôi kêu bọn họ mang đồ ăn đi hâm nóng lại. Bọn họ không gây
khó dễ, tỏ ra khá giữ lễ với tôi, yêu cầu thứ gì là mang đến thứ đó, chỉ không
cho phép tôi đi lại tự do. Ánh nắng rực rỡ chiếu rọi cung điện, không thể tin
nổi, dưới bầu trời xanh trong nhường này lại xảy ra cuộc chiến tranh khốc liệt
và cảnh tượng loạn ly đẫm nước mắt. Nếu không có cuộc chiến tranh này, có lẽ Ra­ji­va
cũng chỉ là một hạt cát nhỏ giữa dòng sông lịch sử, sẽ không có một đại pháp sư
tiếng tăm lừng lẫy, lưu danh sử sách. Nhưng để có được danh tiếng ấy, chàng đã
đánh đổi cả một đời khổ nạn, không biết, như thế là may mắn hay bất hạnh?

 

 Khi tôi mang canh
thịt và bánh nướng đã hâm nóng vào phòng thì chàng đã mặc lên mình bộ đồ của
dân thường và ngồi thiền tụng kinh. Thân hình cao lớn, chỉ khoác lên mình chiếc
áo ngắn chít eo đặc trưng của đàn ông Khâu Từ trông đã rất nam tính rồi. Không
tính đến cái đầu trọc lốc, nhìn từ phía sau vẫn có thể dùng từ “đẹp trai ngời
ngời” để miêu tả về chàng.

 

 Tôi đặt khay đồ ăn
lên bàn, nhìn chậu nước chuyển màu, biết là chàng đã lau rửa sạch sẽ. Gọi chàng
tới ăn cơm, nhưng chàng không đáp lại, vẫn miệt mài tụng kinh. Không muốn làm
phiền chàng, tôi ngồi yên lặng chờ đợi.

 

 Nhưng chàng đã
tụng niệm gần hai giờ đồng hồ liên tục, không hề ngơi nghỉ. Càng lúc tôi càng
buồn bã nhận ra rằng, không phải chàng đang giữ nếp tụng kinh buổi sáng, mà là
đang tự trừng phạt. Chàng định sẽ tiếp tục tụng niệm đến bao giờ nữa?

 

 Không kìm chế nổi,
tôi kéo tay chàng, cầu khẩn:

 

 - Ra­ji­va, xin
chàng đừng tụng kinh nữa. Là lỗi của em, chính em đã mê hoặc chàng. Kẻ dụ dỗ
người tu hành phạm giới mới là kẻ có tội lớn nhất. Xin hãy để mình em gánh chịu
tội nghiệt này, chàng không có lỗi gì cả.

 

 Chàng mở mắt, nhìn
tôi ai oán, khẽ lắc đầu, kéo tay tôi ra, tiếp tục lầm rầm tụng niệm.

 

 Nhìn quanh căn
phòng, thấy một chiếc phất trần cắm trong chiếc bình, tôi đi lấy, mang lại gần
chàng.

 

 - Ra­ji­va, nếu
chàng nghĩ rằng đã phạm phải tội lỗi tày trời, em có thể giúp chàng. Con người
ở phương tây xa xôi tín theo một thứ tôn giáo. Tôn giáo ấy cho rằng, tội phá
giới có thể được giảm nhẹ nếu người mắc tội tự quất roi lên người mình. Nỗi đau
thể xác sẽ giúp thuyên giảm nỗi đau tinh thần và như thế sẽ nhận được sự tha
thứ của đấng tối cao.

 

 Tôi ngồi xuống
trước mặt chàng, khẽ hỏi:

 

 - Chàng muốn thử
không?

 

 Ki- tô giáo rất
thịnh hành phương pháp tự trừng phạt này. Giáo hội không ngừng nhồi nhét vào
đầu các con chiên cảm giác tội lỗi về nhu cầu tình dục và nhấn mạnh, tình dục
làm ô uế linh hồn con người và khiến họ không thể lên được thiên đàng. Bởi vậy,
những người căm ghét hoặc sợ hãi việc hành lạc, bao gồm cả các tu sĩ nam và nữ
đều chuộc tội bằng cách tự quất roi vào người, họ làm vậy, những mong dùng đau
đớn của kiếp này đổi lấy hạnh phúc của kiếp sau. Trong thời gi­an bệnh dịch
hạch hoành hành khắp châu Âu, người ta đã tổ chức những đoàn người hành xác, cả
một thôn làng hoặc thị trấn cùng diễu hành qua khắp các nẻo đường, rồi tập
trung tại một nơi công cộng, sau đó họ bắt đầu tự quất roi vào lưng mình, cho
đến khi máu tươi chảy ra.

 

 Chàng nhìn tôi, vẻ
đau khổ tột cùng, lặng lẽ buông áo trễ xuống thắt lưng, rồi nhắm mắt lại, tiếp
tục tụng kinh.

 

 Tôi đứng ra sau
lưng chàng, cầm ngược cây phất trần, hít một hơi thật sâu, giữ chặt tay, cắn
răng vụt thật mạnh. Một âm thanh rùng rợn vang lên trong không gi­an, chàng
rùng mình kinh ngạc, một vệt dài màu đỏ hằn lên rõ rệt trên lưng chàng. Tôi cắn
chặt răng, quay cán phất trần lại, ra sức vụt vào lưng mình. Cơn đau buốt
truyền đến não bộ, kích thích nước mắt xô nhau ra quanh viền mắt.

 

 - Nàng làm gì vậy?

 

 Cây phất trần bị
giằng lấy, tôi ngã vào lòng chàng, trong đôi mắt ngấn lệ, tôi nhìn thấy nỗi
kinh ngạc và xót thương của chàng.

 

 - Chàng muốn trừng
phạt bản thân, em sẽ cùng chàng hứng chịu. Chàng không thiết ăn uống, em sẽ
cùng chàng tuyệt thực. Nếu chàng không thể chấp nhận thân phận của em, em có
thể xuống tóc làm ni cô.

 

 Những tiếng nức
nở, nghẹn đắng nơi cuống họng, tôi dừng lại lấy hơi:

 

 - Nhưng, Ra­ji­va,
lần này, dù có thế nào em cũng sẽ không ra đi. Dù phải đối mặt với bao nhiêu
phong ba bão tố, hãy để em ở bên chàng, cùng chàng vượt qua, được không?

 

 Chàng xiết tôi
chặt hơn, tôi vòng tay qua ôm riết lấy chàng. Nếu có thể nhờ vòng tay ôm riết
ấy để được hòa tan vào lồng ngực của chàng, để hai người hợp lại thành một thì
hạnh phúc biết bao. Gối đầu lên bờ vai để trần của chàng, những giọt nước mắt
chảy xuống lằn roi đỏ in trên lưng chàng. Khuôn ngực chàng rung động mãnh liệt,
nước mắt chàng thấm ướt vai áo tôi. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu chúng
tôi khóc trong vòng tay nhau? Em không đành lòng thấy chàng khóc...

 

 - Ngải Tình, ta
không trừng phạt bản thân vì đã phá giới. Thân xác, chỉ là lớp vỏ bọc bên
ngoài. Giáo lý Phật giáo Đại Thừa không quy định ngặt nghèo về chuyện đó. Huống
hồ, lần này là do ta bị ép buộc. Nhưng ta phải hối lỗi với Phật tổ, và trái tim
ta đã “phá giới” theo thân xác ta rồi...

 

 Chàng khẽ đẩy tôi
ra, những ngón tay nhẹ nhành lướt trên má tôi, nỗi đau khổ phủ một màu ảm đạm
lên gương mặt thanh tú.

 

 - Không đúng. Trái
tim ta không phải phá giới từ đêm qua, mà mười một năm trước, hai mươi năm
trước đã phá giới rồi. Thuở thiếu thời gặp nàng, trái tim ta đã khôn nguôi thổn
thức. Sau khi nàng ra đi, ta không hiểu vì sao mình lại lặng lẽ phác họa chân
dung nàng, hết bức này đến bức khác. Rồi khi ngắm nhìn tượng Phật lại tưởng
tượng ra gương mặt của nàng, thì ta biết mình đã sa vào lưới tình, chẳng thể
thoát thân. Ái dục vốn là trở ngại lớn nhất đối với người tu hành. Ta vô cùng
sợ hãi, nên mỗi lần nghĩ tới nàng là ta lại tụng kinh để sám hối. Nhưng khi
nàng trở về, niềm vui được ở bên nàng lớn hơn cả việc nghiên cứu, tìm hiểu giáo
lý Phật pháp và việc tụng niệm đã không thể giúp ta trừ bỏ những chướng ngại
trong lòng được nữa. Sau khi hôn nàng, ta hiểu rằng mình đã không thể rời bỏ ái
dục...

 

 Từng giọt lệ long
lanh kết đọng trên khóe mắt chàng, nặng nhọc lăn dài trên gò má.

 

 - Mười một năm trước,
không được gặp nàng lần cuối, ngày hôm đó, ta đã ngồi thiền trong phòng nàng ba
ngày. Sau ba ngày, ta hiểu ra một điều: Nếu đã không thể quên được nàng, chi
bằng ta biến nỗi nhớ nàng thành sự tu tập mỗi ngày. Nhờ vậy, tâm hồn ta bình
lặng trở lại, ta chuyên tâm vào việc tu hành. Nếu mười năm sau nàng không quay
về, ta sẽ thực hiện nguyện vọng của nàng, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp.
Nhưng đúng lúc ta chuẩn bị khởi hành đến đất Hán, thì Khâu Từ gặp phải kiếp nạn
và ta phải chịu sự sỉ nhục này.

 

 Chàng ngừng lại
một lát, lấy hơi và tiếp tục:

 

 - Ba ngày bị gi­am
cầm, ta vẫn một lòng hướng Phật, tâm thanh tịnh như nước, xem mỹ nữ trước mắt
như không khí. Nhưng sau khi phá tửu giới, thì trước mắt ta, trong tâm tưởng ta
lại luôn hiện lên hình bóng nàng. Không phải ta không nhớ chuyện gì xảy ra đêm
qua, mà là ta không dám thừa nhận. Tuy chỉ là nhưng cảm giác mơ hồ, nhưng ta
vẫn nhớ rõ khoảnh khắc ta có được niềm hoan lạc không thể diễn tả bằng lời. Bởi
vậy, ta đã cố thuyết phục bản thân, rằng đó chẳng qua là một giấc mơ bí mật,
một giấc mơ mà ta vẫn thường mơ. Nhưng nàng lại cho ta biết mọi thứ diễn ra
trong giấc mơ đó đều là thật...

 

 Chàng ngẩng đầu
hít một hơi dài, những đường gân trên cổ giật giật. Một lát, chàng cúi xuống
nhìn tôi, rồi ảo não lắc đầu, những hạt nước mắt to tròn long lanh như những
hạt ngọc đổ liên hồi xuống áo chàng.

 

 - Khi nãy biết ta
đã có quan hệ... vợ chồng với nàng... Nếu không phải là do Lữ Quang sắp bày, ép
buộc, Ra­ji­va sao dám “làm vậy” với nàng! Thế nên, cảm xúc đầu tiên đến với ta
khi biết tin đó, không phải là sám hối, mà là niềm vui vô bờ tựa mạch nước ngầm
len lỏi trong tim. Ta đã vô cùng hoảng sợ và hổ thẹn khi mình có ý nghĩ đó. Mấy
mươi năm tu hành vẫn chẳng thể giúp ta chống lại khát khao yêu đương với nàng.
Tội lỗi này, dù có đọc bao nhiêu kinh văn đi nữa cũng không thể xóa bỏ. Ta
không xứng là đệ tử nhà Phật... Ta nhớ đến lời nói của vị cao tăng mà ta gặp
hồi nhỏ: Nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, ngày sau sẽ chỉ có
thể là một pháp sư thông minh, sáng láng không hơn không kém. Khi nãy, vừa tụng
kinh ta vừa nghĩ về điều này và không khỏi đau đớn. Ta đã phá giới vào đúng năm
ba mươi lăm tuổi, lẽ nào ý trời đã định, kiếp này Ra­ji­va chỉ có thể trở thành
một pháp sư thông minh, sáng láng, mà chẳng thể làm nên nghiệp lớn ư?

 

 Tôi đã khóc đến
mềm cả tim gan, chưa bao giờ chàng thổ lộ với tôi nhiều đến vậy, mà mỗi câu mỗi
tiếng thốt ra đều đau đớn đến xé lòng.

 

 - Xin lỗi chàng,
em đã phá vỡ thế giới tĩnh tâm thiền định của chàng, đã khiến chàng khó xử. Nếu
chàng muốn, em sẽ ra đi.

 

 - Không kịp nữa
rồi...

 

 Chàng run rẩy hôn
tôi, vị mặn chát nồng đượm nơi đầu lưỡi, không biết là nước mắt của chàng hay
của tôi.

 

 - Nàng đã quay về
thì sao ta có thể để nàng ra đi, để lại phải khổ sở chờ đợi mười năm nữa...
Ngải Tình, một roi nàng tự quất vào người mình đã khiến ta bừng tỉnh. Nàng sẵn
sàng san sẻ đau khổ với ta, bằng lòng cùng ta vượt qua phong ba bão tố, lẽ nào
Ra­ji­va không dám thừa nhận tình cảm với nàng suốt hai mươi năm qua? Ta chỉ
biết tự trách mình vì đã phá giới, vì không thể trở thành một bậc danh sư, mà
quên rằng nỗi đau khổ mà nàng phải chịu đựng lớn hơn ta gấp bội phần. Nàng đã
trở về khi ta cần có nàng nhất. Đêm qua nàng đã dùng tấm thân trinh trắng của
mình giải cứu ta khỏi sự đày ải ấy. Tình yêu cao cả đó, ta biết lấy gì báo đáp.
Ta quyết không để nàng lại tiếp tục phải chịu dày vò, đau khổ nữa. Nỗi nhớ
nhung vò xé tâm can mười năm lại mười năm mòn mỏi, vò võ ấy, ta không muốn phải
chịu đựng thêm nữa. Trở thành bậc danh sư, đạt đến đỉnh cao tu dưỡng, nhập Niết
Bàn thì sao chứ, không có nàng ở bên, ta cũng chỉ như một thân xác vô cảm,
không có linh hồn mà thôi. Đời sống ấy có gì đáng sống đâu!

 

 Chàng rời khỏi bờ
vai tôi, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi, nâng cằm tôi lên, để ánh mắt lạ kỳ của
cháng phủ lên gương mặt tôi:

 

 - Có nàng ở bên,
ta cam tâm tình nguyện bị đẩy xuống tầng địa ngục sâu nhất – địa ngục vô gián.

 

 - Chàng đừng quên,
luôn có em bên chàng...

 

 Mười ngón tay đan
vào nhau, chúng tôi ôm nhau và hôn nhau mãi miết, hôn cho nhau cạn những giọt
lệ tràn mi, nhưng những nụ hôn ngọt ngào ấm áp ấy chỉ càng khiến những dòng
nước mắt tuôn trào. Cuộc đời còn mấy lần mười năm nữa để uổng phí? Bắt đầu từ
bây giờ, chúng tôi sẽ trân trọng mỗi giây mỗi phút...

 

 Không biết chúng
tôi đã khóc với nhau bao lâu.

 

 Rồi chàng đột ngột
buông tôi ra, ngẩng đầu thở dài:

 

 - Chàng sao vậy?

 

 - Không ngờ sau
khi cởi bỏ được nỗi day dứt quyện chặt trong tim suốt hai mươi năm qua lại
khiến ta đau đầu đến vậy?

 

 Tôi bật cười:

 

 - Đó là vì chàng
bị ép uống rượu.

 

 Tôi đưa bát canh
đặt trên tủ cho chàng.

 

 - Đây là canh giã
rượu, chàng uống ngay lúc đầu thì đã không sao cả.

 

 

 

Chương 44: Sự thật

 

 Ra­ji­va kinh ngạc
nhìn chiếc dao cạo râu Gillette trên tay tôi. Khi đi dạo phố với bạn bè và thấy
họ mua tặng bạn trai mình, trong phút xúc động tôi đã mua nó. Cứ ngỡ sẽ chẳng
còn cơ hội để tặng Ra­ji­va. Lẽ ra phải có kem bôi đi kèm với bộ dao cạo râu
này, nhưng vì sợ nhiễm phóng xạ, tôi đã không mang theo.

 

 Cố nhiên là Ra­ji­va
không biết sử dụng. Tôi để chàng ngồi xuống, thấm nước ấm vào khăn mặt rồi đắp
lên cằm chàng để những sợi râu trở nên mềm hơn. Tôi dặn chàng ngửa cổ lên và
không được động đậy, sau đó nhẹ nhàng kéo chiếc dao cạo lướt trên cằm chàng.
Tôi đã học được “ngón nghề” này từ từ các chuyên gia nam ở khu vực thực nghiệm.
Chàng nhìn tôi chăm chú, bóng tôi in trong đáy mắt sâu hun hút của chàng, tim
đập rộn ràng. Làn da của chàng trơn mượt, mỗi lần chạm vào, tâm trí tôi bỗng
trở nên bấn loạn. Sợ thiếu tập trung sẽ khiến chàng bị thương, tôi cố gắng định
thần lại, giữ cho bàn tay vững vàng, xử lý gọn gàng đám râu ria mọc lởm chởm
lâu ngày.

 

 Sau khi cạo rửa
xong xuôi, khuôn mặt chàng sáng sủa hẳn lên. Khi tâm trí tôi còn đang mê mẩn
với vẻ thanh tú của gương mặt chàng thì trống bụng bỗng đổ liên hồi. Đã ba giờ chiều
và tôi chưa có một hạt cơm nào trong bụng từ tối qua đến giờ. Tôi đỏ mặt xấu
hổ, nhưng chàng đã nắm tay tôi, cười dịu dàng:

 

- Chúng ta ăn cơm thôi…

 

 Chúng tôi ngồi đối
diện nhau, cơm canh đã nguội ngắt nhưng tôi vẫn thấy ngon miệng lạ thường. Tôi
vừa ăn vừa nhìn chàng, nụ cười ngây ngô không lúc nào tắt trên môi. Chàng mỉm
cười rạng rỡ đáp lại, mười năm sương gió để lại vết dấu trên khóe mắt và vầng
trán chàng, khi chàng cười, những nếp nhăn càng hiện rõ, tôi ước gì mình có thể
xóa đi những dấu hiệu mỏi mòn của tuổi tác, tháng năm ấy. Tôi không muốn lại
phải trải nghiệm mười năm đằng đẵng của chàng bằng vài tháng ngắn ngủi của mình
nữa, lần này, tôi muốn được cùng chàng đi trọn con đường đời.

 

- Còn đau không?

 

 Xong bữa, chàng
nhẹ nhàng vuốt ve vết thương trên lưng tôi, vẻ xót xa dâng lên trong mắt. Tôi
lắc đầu, nếu không nhờ một roi ấy, có lẽ chàng chưa thể bước ra khỏi những trăn
trở nội tâm. Vì vậy, tôi không hề thấy đau.

 

 Gương mặt chàng
bỗng đỏ bừng, chàng cúi đầu khẽ hỏi:

 

- Để ta xem được không?

 

 Tôi sững người,
mặt mũi nóng ran, một xúc cảm kỳ lạ len lỏi trong tim. Do dự một lát, vẫn thấy
chàng nhìn tôi chăm chú, tôi xoay người ngồi xếp bằng trên nền nhà, vén mái tóc
sang một bên, thả áo xuống thắt lưng.

 

 Chàng ngồi phía
sau, nhìn hoài mà không lên tiếng. Tôi cảm thấy vô cùng bối rối khi phơi làn da
trần trước mặt chàng, chỉ muốn nhanh chóng kéo váy lên, nhưng bàn tay chàng đã
nhẹ nhàng giữ lại.

 

 Chợt một cảm giác
lành lạnh, chộn rộn nơi sống lưng, là bàn tay chàng đang dịu dàng lướt trên vệt
roi quất ấy. Theo sau đó là đường môi ướt át nhưng ấm nồng của chàng gắn trên
lưng tôi, từ đầu đến cuối vết thương, nụ hôn dài miên man ấy khiến toàn thân
tôi rung động.

 

- Ngải Tình…

 

 Bờ môi chàng kéo
riết đến vành tai tôi, giọng nói trầm ấm, mê hồn cất lên:

 

- Ta sẽ không để nàng bị
thương nữa.

 

 Không gi­an quanh
tôi tràn ngập dư vị nồng nàn, tôi bỗng cảm thấy căng thẳng, mồ hôi lấm tấm trên
cánh mũi.

 

 Cánh cửa phòng đột
nhiên bật mở, tôi giật mình, vội vàng chỉnh lại y phục. Chúng tôi đã quên mất nơi
này vốn là một nhà gi­am và người khác có thể ra vào bất cứ lúc nào. Nhưng thân
hình cao lớn của Ra­ji­va đã che chắn cho tôi.

 

 Tên lính gác cửa
người Đê thò đầu vào bẩm báo:

 

- Pháp sư, Lữ tướng quân
mời ngài đến gặp.

 

 Lữ Quang không nói
muốn gặp tôi, nhưng vì lo lắng cho Ra­ji­va, tôi chủ động đi theo chàng. Vẫn là
đại điện to rộng ngày hôm qua, vẫn là đám con cháu bất nghĩa đang đứng vây
quanh ông ta.

 

- Pháp sư, hương vị của
đêm qua không tồi chứ? Thằng con ta đã tận mắt chứng kiến khoảnh khắc thăng hoa
của ngài.

 

 Lữ Quang cất tiếng
cười thỏa mãn, không giấu diếm, hắn có vẻ rất hài lòng.

 

- Làm người thì nên tận
hưởng niềm hoan lạc ấy, tụng kinh niệm Phật nhiều có gì vui thú đâu! Nếu ta
không ra sức tác hợp, e là kiếp này pháp sư chẳng thể được thưởng thức mùi vị
của niềm vui sướng tột độ ấy!

 

 Vốn đã có sự chuẩn
bị từ trước, rằng đến gặp ông ta là để nghe những lời nhục mạ chẳng kiêng nể gì
ai, nhưng khi những lời ấy vang lên bên tai mình, tôi có cảm giác ghê tởm như
ăn phải ruồi nhặng. Tôi lén quan sát Ra­ji­va, mặt chàng hơi biến sắc, nhưng
dáng vẻ vẫn đạo mạo, điềm tĩnh. Tôi ngậm ngùi nuốt giận, ai bảo chúng tôi là
những kẻ yếu thế cơ chứ!

 

 Lữ Quang đưa ánh
mắt cú vọ sang phía tôi:

 

- Thì ra pháp sư cũng
giống ta, chỉ thích những thiếu nữ yêu kiều, duyên dáng người Hán. Trong phủ đệ
của ta ở Trường An đã thu nạp không ít phụ nữ Hán, ngày sau có dịp đến Trường
An, ta nhất định sẽ tặng ngài vài nàng.

 

 Ra­ji­va vẫn lặng
thinh không đáp, môi mím chặt, lưng vươn thẳng. Tuy khoác trên mình bộ y phục dân
dã, nhưng vẻ ung dung, tĩnh tại trong mắt chàng, khí chất thanh cao, thoát tục
của chàng khiến cho một kẻ thô thiển, kệch cỡm như Lữ Quang trở nên nhỏ bé hơn
vài phần.

 

 Thấy Ra­ji­va lặng
yên không đáp hồi lâu, chừng như bực tức, Lữ Quang đằng hắng vài tiếng:

 

- Mấy ngày tới pháp sư
cứ an tâm nghỉ ngơi trong cung, ta sẽ cho người đến hầu hạ pháp sư chu đáo.

 

 Rồi ông ta lại giả
bộ tử tế, quan tâm:

 

- Pháp sư có thiếu thốn
gì không?

 

 Ra­ji­va khẽ cúi
người, hai tay chắp lại, điềm tĩnh đáp lời:

 

- Tôi rời chùa đã lâu,
lòng đầy lo lắng. Nếu tướng quân cho tôi trở về chùa Tsio – li hoặc chùa Cakra
thì tôi rất cảm ơn.

 

- Pháp sư không cần phải
vội, ta còn rất nhiều vấn đề về Phật pháp muốn thỉnh giáo Pháp sư mà!

 

- Những vấn đề Phật pháp
của ngài, tôi đây không đủ sức giải đáp.

 

 Ra­ji­va tỏ ra
cương quyết không nhượng bộ:

 

- Tôi là người xuất gia,
không màng thế sự. Tướng quân gi­am giữ tôi cũng chỉ có thể ép tôi phá đi thân
giới, tấm lòng hướng Phật của tôi, ngài chẳng thể lay động được. Những điều
tướng quân kỳ vọng ở tôi, e là tôi chẳng thể giúp gì cho ngài, mong ngài sớm từ
bỏ ý định đó đi.

 

 Tôi cảm thấy hết
sức băn khoăn, lẽ nào Lữ Quang ép buộc Ra­ji­va phá giới chỉ vì một vụ cá cược?
Nhưng tôi nhanh chóng xua đi mối nghi ngờ đó, để ngẩng lên nháy mắt với Ra­ji­va,
ra hiệu cho chàng đừng kích động Lữ Quang.

 

 Ông ta quả nhiên
nổi trận lội đình, gầm rít lên những tiếng ghê rợn:

 

- Người giỏi lắm! …

 

 Nhưng Lữ Soạn đã
kịp kìm ông ta lại. Hắn thì thầm nhỏ to vài câu gì đó vào tai Lữ Quang, sắc mặt
ông ta trở nên thâm hiểm khó đoán, lấy hơi một hồi lâu ông ta mới giữ được bình
tĩnh.

 

- Mấy ngày qua chắc pháp
sư đã thấm mệt, ngài nghỉ ngơi đi.

 

 Giọng nói của ông
ta không có vẻ gì là thân thiện, tử tế.

 

Đêm qua pháp sư đã giúp
ta thắng cược, giành được các mỹ nữ ở hậu cung Khâu Từ, lát nữa ta sẽ chọn vài
cô xinh đẹp, mỹ miều để tặng pháp sư.

 

 Ra­ji­va liếc sang
tôi, rồi quay ra cung kính nói:

 

- Tướng quân khỏi cần
nhọc lòng, Ra­ji­va tu hành đã nhiều năm, nội tâm trong sạch, lòng ít ham muốn,
tôi không cần mỹ nữ nào nữa cả.

 

 Chàng ngừng một
lát, nói tiếp:

 

- Mong tướng quân đoái
thương những người phụ nữ đó!

 

 Lữ Quang cười ha
hả:

 

- Pháp sư quả là người
giàu lòng từ bi.

 

 Rồi quay sang nhìn
tôi.

 

- Thiếu nữ người Hán ở
Khâu Từ không có nhiều, chờ khi ta tìm được nàng nào ưng mắt, sẽ tặng cho pháp
sư.

 

 Ra­ji­va làm mặt
nghiêm nghị, lặng thinh không đáp.

 

- Ra­ji­va, Lữ Quang đã
thắng cuộc, vì sao vẫn muốn gi­am giữ chàng? Ông ta muốn gì ở chàng?

 

 Lựa lúc không có
ai, tôi vội hỏi chàng câu hỏi quẩn quanh mãi trong đầu kể từ lúc gặp Lữ Quang
đến khi trở về căn phòng gi­am giữ chúng tôi lúc trước.

 

- Ngải Tình, nàng có
biết thất bại thảm hại của nước Tần trong cuộc đại chiến với nước Tấn không?

 

 Tôi biết chứ và
tôi tin hầu hết người Trung Quốc đều thuộc làu lịch sử về trận chiến đó. Đêm
trước cuộc chiến, Phù Kiên vẫn còn là một bậc quân vương thành công nhất trong
thời kỳ Thập lục quốc. Luận về cương vực, về cơ bản, lần đầu tiên Phù Kiên đã
thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc (lãnh thổ rộng lớn hơn thời kỳ của Thạch
Lặc rất nhiều). Luật về phẩm cách, có thể xem Phù Kiên là một vị vua nhân từ
hiếm có trong thời đại loạn (mà hầu hết các đấng quân vương đều là hôn quân).
Luận về chính sách dân tộc, trong thời kỳ “không chung dòng tộc, ắt sinh khác
lòng”, phương châm của ông hết sức tiến bộ: hòa hợp dân tộc, không giết hại lẫn
nhau. Nhưng trận đại chiến ở Phì Thủy đã làm thay đổi cục diện, thậm chí đã
“đưa tang” nhà Tiền Tần vốn rất hùng mạnh trước đó.

 

 Cuộc chiến kỳ lạ
ấy vừa mới xảy ra một năm trước thời điểm tôi có mặt ở đây, vào tháng Mười một
năm 383. Mức độ chênh lệch về lực lượng quân sự hai bên trong cuộc chiến này
được đánh giá là kỳ lạ nhất trong lịch sử Trung Quốc: 87:18. Tính chất hoang
đường của toàn bộ quá trình diễn ra cuộc chiến khiến không ai có thể tin nổi.
Bên giành thắng lợi không hề nắm chắc phần thắng, cũng không hiểu do đâu mà
chiến thắng. Bên thua, thua trong nỗi ngỡ ngàng, bàng hoàng, đế quốc Tiền Tần
hùng mạnh sụp đổ chỉ trong một sớm một chiều.

 

 Lữ Quang dẫn quân
chinh phạt Tây vực vào tháng Giêng năm 383, trận Phì Thủy diễn ra vào đầu năm
đó. Lữ Quang đánh chiếm Qarasahr (Yan­qi), rồi tấn công Khâu Từ năm 384. Thực
ra kế hoạch Tây chinh từng làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt trong triều đình
của Phù Kiên từ trước đó. Nhiều đại thần không tán đồng việc phân tán lực lượng
quân sự cho việc chinh phạt Tây vực, vì nhà Tần đang phải tập trung binh lực để
đối phó với Đông Tấn. Nhưng sự tự tin thái quá được tích lũy sau những thắng
lợi liên tiếp, khiến Phù Kiên muốn nhanh chóng trở thành Tần Hoàng (Tần Thủy
Hoàng), Hán Vũ (Hán Vũ Đế) và ông cũng tự tin cho rằng lực lượng còn lại dư sức
đối phó với Đông Tấn. Nếu không có cuộc Tây chinh này, e là muốn gặp đại tướng
quân Lữ Quang, bạn phải tham gia trận chiến tại Phì Thủy. Và như thế, có lẽ đã
không tồn tại nhà Hậu Lương do Lữ Quang dựng lên trong thời kỳ Thập lục quốc.

 

 Nhưng trận chiến
có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử Trung Quốc ấy, đối với một quốc gia xa xôi tận
miền Tây vực như Khâu Từ và bản thân Ra­ji­va có mối liên quan gì?

 

- Lữ Quang đã hay tin
nhà Tần bại trận. Tình hình hiện nay vô cùng rối ren, người Yên phục quốc,
người Khương làm phản, vua Phù Kiên đã không còn đủ sức để cứu vãn thời cuộc.

 

 Ánh mắt chàng rực
sáng, chàng bóp mạnh tay tôi:

 

- Ngải Tình, theo nàng,
vì sao nước Tần đang khốn đốn và cần viện binh như vậy, Lữ Quang lại ghìm giữ
binh lính ở Khâu Từ dài ngày, không chịu quay về?

 

 Suy nghĩ giây lát,
tôi chợt hiểu ra:

 

- Ông ta muốn làm vua
Tây vực?

 

 Vào thời Thập lục
quốc, hầu hết những kẻ nắm giữ trong tay chút ít binh quyền đều muốn cát cứ,
xưng vương xưng bá. Luận về dũng mãnh, Lữ Quang không bằng Thạch Lặc, luận về
độ gi­an xảo, ông ta không bằng Diêu Trường, luận về mưu lược, cũng không bằng
Mộ Dung Thùy. Nếu không có trận Phì Thủy, ông ta sao dám sinh lòng bội phản với
triều đình Phù Kiên. Nhưng tình thế hiện nay đã khác, ông ta cầm quân ở nơi xa
xôi, Phù Kiên lại đang đau đầu với quân phản loạn khắp nơi, chẳng còn hơi sức
và tâm trí đâu mà nhớ tới Lữ Quang, bởi vậy, Lữ Quang nảy sinh tham vọng xưng
bá cũng là dễ hiểu. Giữa vòm trời cao rộng, ở nơi khuất bóng hoàng đế này, ông
ta có thể làm mưa làm gió mà không ai động đến.

 

 Ra­ji­va gật đầu:

 

- Đúng vậy! Lữ Quang có
dã tâm rất lớn, những chức tước mà vua Tần phong cho ông ta: Tán kỵ thường thị,
An Tây tướng quân, Tây vực hiệu úy đều không thỏa mãn tham vọng bành trướng và
xưng bá của ông ta.

 

Có câu: “Đầu gà còn hơn
đuôi phượng” mà!

 

 Tôi chợt nhớ đến
một chuyện cười có thật ở nước Nam Yên thời Thập lục quốc: Một người có tên là
Vương thủy tập hợp được mấy vạn người trên núi Thái Sơn, tự xưng là hoàng đế
Thái Bình, tôn cha mình làm Thái thượng hoàng, các anh em trai lần lượt là
Chinh Đông, Chinh Tây tướng quân và hàng trăm chức quan khác. Sau khi bị quân
đội Nam Yên đánh bại, lúc đưa ra hành quyết, có người hỏi ông ta: “Cha và các
anh em của ngươi ở đâu?” Ông ta đáp: “Thái thượng hoàng lánh nạn ở nơi xa, các
tướng Chinh Đông, Chinh Tây đã bị giết hại”. Vợ ông ta tức giận mắng: “Xảy ra
cơ sự ngày hôm nay chính là tại cái miệng tai bay vạ gió của ông đó! Ông còn
chưa chịu tỉnh ngộ hay sao?”. Ông ta đáp: “Hoàng hậu ơi, từ cổ chí kim, có gia
đình nào không suy vi, có quốc gia nào không diệt vong. Đến ngày suy vi, trẫm
cũng đành ngậm đắng nuốt cay, nhưng quyết không đổi quốc hiệu!”.

 

 Thật nực cười!
Thực ra trong một trăm ba mươi năm lịch sử ấy, Trung Quốc không chỉ tồn tại
mười sáu nước, mười sáu nước này chỉ là những tiểu quốc có quốc hiệu chính thức
và có sự kế thừa ngôi báu. Nếu tính chính xác, thì gi­ai đoạn lịch sử đó phải
có đến hai, ba chục quốc gia tồn tại. Vương Thủy tuy ngu muội, nhưng ông ta đã
phát biểu chính xác tham vọng của các tiểu bá thời bấy giờ. Không ai khi sinh
ra đã là một bậc đế vương! Vả lại, gia đình nào rồi cũng đến lúc suy vi, quốc
gia nào rồi cũng đến hồi sụp đổ, vậy thì cứ đăng cơ làm hoàng đế cái đã, rồi
tính sau. Lữ Quang nắm trong tay cả một đội quân, lẽ nào ông ta không có tham
vọng bá vương đó.

 

 Nhưng điều này có
liên quan gì đến việc gi­am giữ Ra­ji­va?

 

 Thấy tôi vẫn đầy
vẻ thắc mắc, Ra­ji­va tiếp tục giải thích:

 

- Lữ Quang vốn là người
nơi khác đến, quân đội của ông ta cũng chỉ có bảy vạn quân. Ông ta chỉ dựng lên
một vương triều bù nhìn thì sao có thể duy trì lâu dài?

 

 Vậy là tôi đã
hiểu! Đó là mối quan hệ giữa chính quyền và tôn giáo. Lữ Quang muốn bám rễ ở
nơi đây với binh lực nhỏ bé như vậy, chẳng thể đủ sức trấn áp và cai quản miền
Tây vực rộng lớn với hàng mấy chục tiểu quốc. Thế nên, ông ta buộc phải dựa vào
sức mạnh của tôn giáo, để công nhận quyền lực chính thống của ông ta ở Tây vực
– vùng đất vốn hết sức sùng bái đạo Phật. Và Ra­ji­va lại là đại diện của thần
quyền ở đây, Nếu Ra­ji­va công khai công nhận tính hợp pháp của chính quyền Lữ
Quang, ông ta sẽ không chỉ có được Khâu Từ, mà còn có thể có được sự quy thuận
của mấy chục vạn dân khắp vùng Tây vực rộng lớn. Như vậy, đại nghiệp xưng bá ở
Tây vực của ông ta sẽ không cần phải dựa vào sức mạnh vũ trang nữa.

 

- Ra­ji­va, Lữ Quang
muốn xưng bá Tây vực, nhưng sức mạnh quân sự không đủ, nên mới phải cầu đến sự
trợ giúp của chàng. Nhưng chàng không chịu khuất phục, chàng không muốn thừa
nhận quyền lực của ông ta, đúng không?

 

 Ánh mắt Ra­ji­va
lộ vẻ tán thưởng, chàng khẽ cúi đầu, nắm chặt hai vai tôi:

 

Nàng luôn là người hiểu
ta nhất. Lữ Quang muốn ta đi tuyên truyền rằng ông ta là hóa thân của Quan Thế
Âm Bồ Tát, được Bồ Tát sai phái đến để cứu độ người dân Tây vực.

 

 Tôi lắc đầu. Phàm
những kẻ có dã tâm cướp đoạt vương vị đều nghĩ ra một cái cớ mang tên “điềm
lành” và đều tự xưng mình là háo thân của một vị thần tiên nào đó. Nhưng những
điều thuộc về tâm linh này phải dựa vào một người nắm giữ thần quyền giúp hắn
thực hiện mưu đồ. Lữ Quang đâu biết rằng, Ra­ji­va không phải là Bud­dhasimha
(Phật Đồ Trừng), nhà sư người Ấn Độ sống ở thời đại Thạch Lặc, Thạch Hổ, chịu
khuất phục nhà cầm quyền đương thời. Ra­ji­va cũng không giống Huyền Trang, hết
lời ca tụng công đức của hoàng tộc và ra sức thiết lập mối quan hệ mật thiết
với hoàng đế. Ra­ji­va xuất thân cao quý, từ nhỏ đã vang danh khắp chốn, chàng
coi sự tôn trọng và kính trọng của nhà cầm quyền đối với chàng là điều hiển
nhiên, bởi vậy, chàng chưa bao giờ nghĩ rằng, chính trị có thể lấn lướt và áp
đặt thần quyền như thế.

 

- Chàng từ chối, nên
không còn cách nào khác, ông ta đã ép chàng phá giới hòng uy hiếp chàng?

 

 Chàng gật đầu, vẻ
mặt nghiêm nghị:

 

- Ông ta đâu biết rằng,
ta có thể phá giới, nhưng quyết không phục tùng. Ta làm vậy không phải vì ông
ta là người ngoại tộc. Nếu Lữ Quang là một bậc minh quân, biết quan tâm chăm lo
cho lẽ dân, ta nhất định sẽ ủng hộ ông ta. Nhưng ông ta lại là một kẻ tàn bạo,
hoang dâm, ngu muội, lòng dạ ích kỷ, hẹp hòi, chưa bao giờ biết mưu lợi cho
dân. Nếu ta công nhận quyền lực của Lữ Quang, sẽ gây hại không chỉ cho hơn mười
vạn dân Khâu Từ, mà thậm chí cả mấy chục vạn dân Tây vực… Ngải Tình, nàng biết
không, ông ta đã chôn sống hai vạn binh sĩ người Khoái Hồ ngay cả khi họ đã đầu
hàng.

 

 Nỗi bi phẫn khiến
gương mặt chàng trở nên ảm đậm, chàng giận dữ nắm chặt tay lại:

 

- Chém giết lẫn nhau
trong chiến tranh đã là tội lỗi tày trời, vậy mà ông ta còn chôn sống cả những
người đã giơ tay chịu trói. Ông ta đã tước đoạt mạng sống của hai vạn người.
Loại người như ông ta đời đời kiếp kiếp cũng không thể được siêu thoát. Nếu ta
lại đi tiếp tay cho giặc, hại đến muôn dân, thì sao xứng là đệ tử nhà Phật?

 

 Đào hố chôn người
là thủ đoạn phổ biến nhất sau mỗi cuộc chiến tranh trong thời kỳ Thập lục quốc.
Số lượng binh sĩ bị chôn sống thường lên đến vài chục ngàn người. Bởi vì các
cuộc chiến tranh xảy ra trong thời kỳ này, hầu hết đều là cuộc chiến giữa các
tộc người khác nhau.

 

 “Không cùng dòng
tộc, ắt sinh khác lòng”, đào hố chôn người có thể làm hao tổn nghiêm trọng lực
lượng của đối phương, lại vừa có thể trừ hậu họa. Sự kiện chôn sống người thảm
khốc nhất diễn ra trong trận chiến ở dốc Tham Hợp, quân Bắc Ngụy đã chôn sống
năm vạn binh sĩ Hậu Yên. Năm thứ hai sau trận chiến dốc Tham Hợp, người anh
hùng Mộ Dung Thùy đã thân chinh cầm quân đi báo thù, khi ngang qua hố chôn
người ở dốc Tham Hợp, ông cùng tướng sĩ đã khóc thương thảm thiết, sau đó ông
bị nôn ra máu, bệnh tình ngày càng nguy kịch và không lâu sau thì mất, kết thúc
cuộc đời oanh liệt, đồng thời kết thúc vương triều Hậu Yên hùng mạnh.

 

 Ngày trước đọc
sách sử, mỗi khi đến đoạn thảm khốc, tôi thường rơi nước mắt, nhưng chẳng thể
so sánh với nỗi sợ hãi của ngày hôm qua, khi tôi được tận mắt chứng kiến hố
chôn người khủng khiếp ấy. Khi những con số biến thành hàng chồng thi thể đẫm
máu, tôi mới cảm nhận được sự khốc liệt, khủng khiếp của chiến tranh đằng sau
những con chữ vô cảm. Những gì tôi trải qua ngày hôm qua khiến tôi hạ quyết tâm
sẽ không thờ ơ trước mọi sự. Nếu có thể ngăn chặn thảm kịch, tôi sẽ không ngại
thay đổi lịch sử. Làn sóng nhiệt huyết trào dâng trong tôi, tôi đưa mắt ngước
nhìn người đàn ông cương nghị, nho nhã trước mặt mình. Lần đầu tiên tôi được
chứng kiến một Ra­ji­va kiên cường như vậy khi đối mặt với quyền lực. Người tôi
yêu, giờ đây, cũng là người mà tôi kính phục nhất.

 

 Tôi nắm lấy bàn
tay chàng, nhìn chàng, nở một nụ cười rạng rỡ:

 

- Chàng nhớ nhé, dù
chàng quyết định thế nào, em sẽ luôn ủng hộ chàng.

 

 Chàng đặt tay mình
lên tay tôi, truyền cảm xúc cho tôi:

 

- Trước khi nàng xuất
hiện, ta chẳng sợ gì cả. Ta thậm chí đã nghĩ, nếu bị dồn đến chân tường, ta sẽ
tự vẫn…

 

- Đừng!

 

 Tôi hoảng hốt đặt
tay lên môi chàng:

 

- Xin chàng đừng nói
những lời như vậy. Em sẽ bảo vệ chàng.

 

 Nụ cười ngọt ngào tỏa
rạng gương mặt chàng, chàng đặt tay tôi vào lòng bàn tay ấm áp của mình, dịu
dàng nói:

 

- Nhưng nàng đã trở về,
ta không còn ý nghĩ đó nữa... Nàng còn nhớ bài giảng của nàng về “Mạnh Tử”
không? “Vậy nên khi muốn trao trọng trách cho một người, ông trời sẽ tạo ra
muôn vàn thử thách, khiến anh ta đau khổ, khiến anh ta mệt mỏi, khiến anh ta
đói khát, gầy mòn, khiến anh ta cơ cực, làm rối loạn hành vi của anh ta, khiến
anh ta không được như ý. Thông qua những khổ nạn đó, rèn luyện sự tỉnh táo,
tính kiên cường và bồi đắp tài năng của anh ta”. Những gi­an nguy mà ta phải
trải qua là sự khảo nghiệm của Phật tổ đối với Ra­ji­va. Chí lớn của ta, sao có
thể bị mai một bởi một kẻ ngang ngược như Lữ Quang?

 

 - Nhưng Lữ Quang
sẽ không dừng lại ở việc ép chàng phá giới, ông ta sẽ còn dùng nhiều thủ đoạn
tàn bạo hơn để ép buộc chàng.

 

 Sử sách chép rằng,
Lữ Quang đã ép Ra­ji­va cưỡi ngựa ác, bò điên để làm trò cười cho thiên hạ.
Nhưng đó chỉ là những ghi chép vắn tắt trong sách, hành vi sỉ nhục và sự đày
đọa trên thực tế thê thảm hơn rất nhiều.

 

 - Ta không sợ.

 

 Chàng dịu dàng
vuốt má tôi, khẽ thở dài, ánh mắt do dự:

 

 - Nhưng, sẽ khổ
cho nàng...

 

 - Chàng đừng bận
tâm về em, em có thể tự lo cho mình.

 

 Chúng tôi chìm
trong mắt nhau, vòng tay khép chặt. Bóng tịch dương xuyên qua khung cửa sổ, tỏa
rạng vầng trán cao rộng của chàng. Hạnh phúc như hoa nở trên môi tôi. Dù chông
gai đang chờ ta phía trước, em vẫn nguyện được theo chàng.

 

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3