Đức Phật và Nàng p1 - Chương 11 - 12

Chương 11: Tôi có thêm
học sinh

 

Ji­va và Ra­ji­va chỉ ở
lại nhà ba ngày, rồi chuyển đến chùa Vương Tân (chùa Tsi­oli). Đó là ngôi chùa
của hoàng gia, tọa lạc trên khu đất phía Tây hoàng cung, cách phủ quốc sư chừng
mười lăm phút đi bộ. Trước khi chuyển đi, Ra­ji­va đã sắp xếp chu đáo mọi việc:
Vì tôi là cô giáo của cậu nên vẫn được ở lại trong phủ. Hàng ngày cậu sẽ về nhà
sau giờ tụng kinh buổi chiều để học bài.

 

Kế hoạch đến Trung
Nguyên phải hoãn lại, vì hiện nay đang là mùa đông, tuyết rơi dày đặc, đóng
băng trên mọi ngả đường, các đội lái buôn đã tạm dừng hành trình. Nếu muốn đi,
phải chờ đến mùa xuân năm sau. Vả lại, tôi cũng không vội vàng gì. Vừa mới chân
ướt chân ráo đến Khâu Từ, tôi còn chưa bắt đầu công việc khảo sát của mình, mà
tiếng Tochari tôi cũng chưa học ra ngô ra khoai gì cả. Có người chịu cấp cho
tôi nơi ăn chốn ở tử tế, không có lý gì tôi lại từ chối công việc dạy học này.

 

Chủ nhà, Ku­marayana
hiếu khách và rất đôn hậu, lúc nào ông cũng ân cần, chu đáo với tôi. Ông nho
nhã, lịch thiệp giống hệt giáo sư ở các trường đại học vậy. Giá như trường tôi
có một giảng viên như ông, chắc chắn toàn thể học sinh nữ của trường sẽ đua
nhau đăng ký môn ông giảng dạy, lớp học sẽ không có chỗ ngồi, thậm chí, hành
lang cũng chật cứng ấy chứ. Nếu ông dạy tiếng Phạn, thầy Quý sẽ không còn phải
rầu rĩ than phiền vì không có sinh viên nào chịu theo học ngôn ngữ này nữa. Ku­marayana
hoàn toàn tin tưởng ở tôi, ông không bao giờ gặng hỏi tôi về phương pháp lên
lớp. Và sau khi nghe Ra­ji­va tán dương tôi, ông còn đề nghị tôi tiếp nhận thêm
một học sinh nữa.

 

Tôi đã kịp dạo quanh mấy
vòng thành cổ Khâu Từ. Quốc gia này có ba tòa thành quách rộng lớn, được canh
phòng nghiêm ngặt. Chính giữa là cung điện nguy nga tráng lệ. Diện tích tòa
thành lớn gấp năm, sáu lần tòa thành Wen­su mà tôi từng khảo sát. Tín ngưỡng
Phật giáo được đón nhận nồng nhiệt ở nơi đây. Đến đâu cũng bắt gặp đền chùa,
miếu mạo hoặc to hoặc nhỏ được xây lên với mật độ dày đặc.

 

Khâu Từ dựa lưng vào núi
Thiên Sơn ở phía bắc, được xem là quốc gia có nguồn nước dồi dào nhất Tây Vực,
vì vậy trồng trọt và chăn nuôi rất phát triển. Núi Thiên Sơn lại dồi dào khoáng
sản, có thể cung cấp cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Thêm vào đó, Khâu
Từ nằm trên gi­ao lộ của con đường tơ lụa, thương nghiệp phát triển kèm theo sự
phát triển rực rỡ của thủ công nghiệp. Vì vậy, Khâu Từ là quốc gia giàu có nhất
ở Tây Vực.

 

Mỗi ngày, từng đoàn ngựa
thồ tơ lụa lũ lượt qua lại trên những trục đường chính, cảnh buôn bán, trao đổi
hàng hóa giữa các thương lái diễn ra cực kỳ tấp nập, ngựa xe như nước như nêm.
Cả thành phố hệt như buổi triển lãm của các sắc tộc: Người Yue Zhi, Wusun, Hung
Nô, Turk, Sien­pi, Jou­jan, Mông Cổ, Ba Tư, Iran, Ấn Độ, thậm chí cả những
người thuộc chủng tộc người châu Âu hiện đại như: Hy Lạp và Ro­ma và rất nhiều
người Hán. Mỗi lúc bước chân ra phố, tôi đều dừng lại, mê mải ngắm nhìn dòng người
đủ mọi màu da và trang phục đi qua đi lại trước mặt. Chỉ đến khi cậu học trò
mới đang dắt tay tôi đi bên cạnh vác bộ mặt khinh khỉnh nhìn lên, tôi mới cất
bước đi tiếp trong sự nuối tiếc.

 

Nhắc đến cậu học trò mới
này mới nhớ, cậu ta chính là vấn đề khiến tôi đau đầu nhất hiện nay.

 

Một chú nhóc trắng trẻo,
cực kỳ đáng yêu đang say sưa cầm bút chì vẽ nguệch ngoạc lên tập giấy nháp của
tôi, sau đó dùng cục tẩy xóa đi rồi lại tiếp tục vẽ. Cậu nhóc coi dụng cụ học
tập có thể sử dụng nhiều lần này của tôi là thứ đồ chơi hấp dẫn nhất, cứ miệt
mài vẽ vẽ xóa xóa cả ngày không chán.

 

Tôi đứng bên, lòng đau
như cắt:

 

- Cậu nhỏ ơi, ông nhỏ
ơi, quỷ sứ ơi! Cậu nghĩ nhà tôi mở cửa hàng bán dụng cụ học tập chắc? Cục tẩy
chỉ còn một nửa, bút chì cũng chỉ còn nửa cây, lại mất oan thêm ba trang giấy
nữa rồi. Cậu có biết những thứ này đều là tài nguyên không thể tái sinh không?
Cậu dùng hết của tôi như thế, ở cái thời đại này, cậu đi đâu mà mua đền cho tôi
đây hả?

 

 Thực ra trong túi
tôi vẫn còn, nhưng ai mà biết được tôi phải ở lại đây bao lâu nữa, thế nên tôi
không thể không tiết kiệm.

 

Cậu nhóc không thèm để ý
đến lời van xin của tôi, vẫn tiếp tục vẽ. Mà cũng vì cậu ta chưa hiểu tiếng
Hán. Nhưng khi tờ giấy thứ tư “qua đời”, tôi không thể nhẫn nhịn thêm được nữa,
liền quát to bằng tiếng Tochari:

 

- Đừng. .. vẽ. .. nữa!

 

Cái giọng nạt nộ sư tử
Hà Đông của tôi chẳng ăn thua. Cậu nhóc ngước đôi mắt to tròn, sáng long lanh
nhìn tôi chớp chớp. Đôi mắt giống hệt Ra­ji­va, đều thừa hưởng từ cha đôi đồng
tử màu xám nhạt và mái tóc xoăn hung đỏ của mẹ. Đôi mắt ấy đảo qua đảo lại vài
lượt, rồi buông bút chì, trèo xuống ghế, lao thẳng vào lòng tôi:

 

- Thế thì chị hát cho em
nghe đi!

 

Lại thế rồi! Lần trước
Ku­marayana có việc phải đi Gu­mo, mấy ngày liền không về, đêm nào cậu nhóc cũng
lẻn vào phòng tôi đòi ngủ cùng. Không muốn phí sức quát nạt, tôi đành hát một
ca khúc thiếu nhi cho cậu ta nghe. Nào ngờ, kể từ hôm đó, ngày nào cậu nhóc
cũng vòi tôi hát cho bằng được và còn yêu cầu không được hát trùng bài. Thế là
các ca khúc hiện đại của tôi trở thành nhạc ru. Xui xẻo đến thế là cùng!

 

Tôi thở dài, nhích sang
bên, nhường nửa phần ghế cho cậu nhóc ngồi lên và tựa người vào lòng tôi. Vừa
khe khẽ hát bài “Ngủ ngoan bé yêu” của Châu Hoa Kiện, vừa vỗ nhè nhẹ vào lưng
cậu. Cậu nhóc nhắm tịt mắt lại, hai hàng lông mày dài và mượt mà càng tôn thêm
sống mũi cao thanh tú, rất đáng yêu!

 

Tôi có thể hiểu được vì
sao cậu nhóc thích quấn tôi như vậy. Mẹ và anh trai đều phụng sự Phật tổ, cậu
ta vừa lên sáu thì mẹ bỏ ra nước ngoài, bốn năm biền biệt, bặt vô âm tín. Vú
già, người gần gũi nhất, chăm sóc cậu từ nhỏ đã qua đời mấy năm trước. Tuy
trong nhà không ít người hầu và bảo mẫu, nhưng không ai có thể cho cậu ta tình
yêu thương của người mẹ. Ở tuổi này, cậu nhóc rất cần có bạn, tuy hàng ngày vẫn
vào cung học bài cùng các hoàng tử, nhưng về đến nhà, không ai chơi với cậu, nô
đùa với cậu. Người anh hơn cậu ba tuổi thì trở nên già dặn từ rất sớm, mà bốn
năm rồi họ không gặp nhau. Mỗi lần nhìn thấy Ra­ji­va, cậu nhóc tỏ ra rất dè
dặt.

 

Bởi vậy sự xuất hiện của
tôi vừa đóng vai trò một người mẹ, vừa là bạn chơi đùa, vừa là đối tượng để
ngày ngày cậu vòi vĩnh, nũng nịu. Những hành động nghịch ngợm của cậu chẳng qua
là để thu hút sự chú ý của tôi, vì muốn được tôi quan tâm hơn mà thôi. Nhưng
như vậy thì khổ cho tôi quá! Mỗi ngày tôi phải diễn không biết bao nhiêu vai:
lúc đầu là quân lính dưới trướng của đại tướng quân, nghe tướng quân sai khiến
vào báo cáo tình hình. Sau đó lại vờ giả giọng quân địch khiêu chiến với đại
tướng quân. Và cuối cùng giả làm bại trận giương cờ trắng đầu hàng và xin tha
mạng. Ngày ngày phải nô giỡn, chạy đuổi, chiến đấu với một cậu nhóc đang tuổi
ăn tuổi lớn, khiến tôi mệt không thở nổi.

 

Khi làn điệu thương yêu,
ru vỗ kết thúc, cũng là lúc cậu nhóc chìm vào giấc ngủ say sưa. Tôi ôm cậu đặt
lên giường. Tay bóp vai, miệng khẽ lẩm bẩm: Nhóc nặng quá, lớn thêm chút nữa
chắc chị bế không nổi. Mười tuổi rồi mà vẫn ham chơi như con nít ấy. Mới hát
hết một bài mà đã say sưa ngủ.

 

Tuyết rơi không ngớt mấy
ngày qua. Tôi là người vùng Gi­ang Nam, nên mặc dù hiệu ứng nhà kính làm cả
trái đất nóng lên, tôi vẫn rất ít khi được chứng kiến những trận tuyết lớn như
thế này. Mấy ngày đầu tôi rất thích thú, còn hào hứng kéo Pusyse­da cùng đi đắp
người tuyết. Nhưng chẳng được bao lâu, tôi bắt đầu thấy chán, vì tuyết rơi quá
dày mà tôi thì sợ lạnh. Nên từ hôm đó, tôi rất hạn chế ra khỏi phòng, công việc
khảo sát cũng phải tạm gác lại một bên. May mà Ra­ji­va mang đến cho tôi rất
nhiều sách tiếng Hán: “Sử ký”, “Tả truyện”, “Lã thị xuân thu”, “Chiến quốc sách”,
“Kinh thi”,. .. những cuốn mà tôi đã đọc từ lâu. Và cả một số thư tịch vốn đã
thất truyền như “Thạch thị tinh kinh”.

 

Phòng đọc sách của gia
đình Ra­ji­va có rất nhiều kinh văn và tài liệu viết bằng các thứ tiếng: Phạn,
Tochari, Brah­mi, Kharosthi, với nội dung phong phú, đa dạng, đề cập đến hầu
hết các lĩnh vực: thanh vận, ngữ văn, công nghệ, kỹ thuật, phương pháp tính
lịch, y học, log­ic học, thiên văn học, nhạc luật và lịch pháp.

 

Tôi nhìn kho sách đồ sộ
ấy mà thèm thuồng. Nếu như có thể đưa chúng về thời hiện đại, sẽ có giá trị
nghiên cứu lớn lao đến nhường nào. Phần đông mọi người không thể mua nổi những
thư tịch của thời đại này, vì mỗi cuốn sách có giá trị tương đương bằng một năm
thu nhập của người dân. Đó là chưa kể những cuốn sách được viết trên lụa. Rồi
những công văn của quan phủ, những khế ước mua bán, phần lớn đều được viết trên
gỗ, vì giấy viết đắt hơn gỗ rất nhiều lần.

 

Nhìn bên ngoài, phủ quốc
sư trông rất giản dị, cách bày trí cũng đơn giản, thì ra toàn bộ của cải giá
trị nhất đều nằm trong căn phòng này.

 

Thế nên, mỗi ngày tôi
đều đến và ngồi lì ở đây mấy tiếng đồng hồ, miệt mài chép lại những tài liệu
quý giá đó. Tôi từng nghĩ đến việc đi mua, nhưng ở đây có rất nhiều cuốn sách,
mà dù có cầm bao nhiêu tiền ra phố cũng không thể mua được. Đó là những cuốn mà
Ku­marayana mang về từ Ấn Độ, hay những cuốn sách quý hiếm do sứ giả các nước
lân bang dâng tặng vua Khâu Từ. Nếu tôi không thể mang đi, vậy thì chỉ còn cách
chép lại. Do vậy, hơn mười ngày qua đi, với tôi không hề buồn tẻ.

 

Hàng ngày, mỗi khi về
đến nhà, Ra­ji­va vào chào cha, rồi đến chỗ tôi học bài, sau đó đến thư phòng
đọc sách. Cậu ta lặng lẽ đọc sách, tôi lặng lẽ chép sách. Lúc về chùa, cậu
thường mang theo cuốn sách còn đang đọc dở dang, nhưng hôm sau đã thấy cậu ta
đổi lấy cuốn mới. Có hôm cậu về nhà khi giờ học của Pusyse­da vẫn chưa kết
thúc. Cậu lặng lẽ ngồi bên cạnh nghiên cứu trước bài học. Đến lúc tôi bắt đầu
giờ dạy thì cậu đã thuộc làu những nội dung tôi sắp thuyết giảng, nhiều chỗ tôi
đọc sai, cậu ta còn nhẹ nhàng nhắc nhở, khiến tôi toát cả mồ hôi. Cậu ta tưởng
tôi là thiên tài chắc. Kiến thức lịch sử của năm ngàn năm chứ ít à, sai vài chỗ
có sao đâu? Tôi tức quá cốc vào đầu cậu ta một cái, cảnh cáo cậu ta không được
qua mặt giáo viên.

 

Đang vừa ôn lại những kỷ
niệm làm gia sư trong hơn mười ngày qua ở phủ quốc sư, vừa kéo chăn lên đắp cho
Pusyse­da, chợt có cảm giác lành lạnh sau lưng, thì ra là Ra­ji­va. Cậu vén tấm
rèm chắn gió và đứng tựa lưng bên bậu cửa, nhìn tôi.

 

- Ủa, sao hôm nay cậu về
sớm vậy?

 

Giờ tụng kinh buổi chiều
của Ra­ji­va bắt đầu từ bốn giờ và kết thúc lúc năm giờ. Vì vậy, thông thường,
khoảng sáu giờ cậu ta mới đến chỗ tôi học bài. Nhưng hôm nay năm giờ ba mươi
phút đã có mặt. Bạn thắc mắc vì sao tôi nắm được giờ giấc chính xác như vậy ư?
Vì chiếc đồng hồ vượt thời gi­an của tôi có cả chức năng báo giờ, có cả lịch
âm, dương đối chiếu nữa, rất tiện dụng. Từ khi chức năng vượt thời gi­an bị
hỏng, chiếc đồng hồ này chỉ có thể dùng để xem giờ. Nên tôi vẫn ngày ngày đeo
nó trên tay, mọi người nhìn thấy cũng chỉ cho rằng đó là một chiếc vòng tay kì
dị.

 

Còn điều này nữa tôi cần
phải nói rõ. Múi giờ ở Tân Cương và Bắc Kinh chênh lệch nhau hai tiếng. Vì vậy,
khi đi du lịch Tân Cương, tôi thường điều chỉnh thời gi­an theo giờ địa phương.
Nếu không thời gi­an biểu hằng ngày của tôi sẽ trở nên rất quái dị vì: mười giờ
sáng thức giấc, hai, ba giờ chiều ăn trưa, buổi tối chín giờ đèn vẫn sáng
trưng, một giờ đêm mới đi ngủ. Dù sao thì 1650 năm trước, con người vẫn chưa có
khái niệm về chênh lệch múi giờ, nên tôi đã điều chỉnh theo giờ ở Tân Cương thế
kỷ XXI.

 

- Tôi vào cung trò
truyện với đức vua, sau đó về thẳng đây.

 

Cậu ta bước vào phòng,
liếc nhìn Pusyse­da đang ngủ trên giường, rồi đột nhiên nói bằng tiếng Tochari:

 

- Đừng giả vờ nữa!

 

Pusyse­da lập tức mở
mắt, trườn xuống khỏi giường, khuôn mặt ửng đỏ, miệng lí nhí:

 

- Anh trai!

 

Tôi trợn tròn mắt, thằng
bé láu lỉnh này, dám giả vờ ngủ để được tôi bế lên giường. Vẫn vẻ thản nhiên
khi nãy, Ra­ji­va nhắc nhở Pusyse­da về phòng đi ngủ. Pusyse­da sợ anh trai hơn
cả cha, nên vội vàng lủi ngay.

 

- Cậu ấy còn nhỏ, không
nên nghiêm khắc quá.

 

Bản năng người mẹ trong
tôi chợt trào dâng, tôi chưa bao giờ nặng lời hay gay gắt với Pusyse­da.

 

- Bài hát khi nãy rất
hay.

 

Cậu ta khéo léo đổi đề
tài.

 

- Chỉ là mấy ca khúc
thiếu nhi của người Hán thôi. Nhạc Khâu Từ chắc hay hơn nhiều.

 

“Âm nhạc Khâu Từ nổi
tiếng khắp vùng, ai nấy đều biết”, đó là lời ca ngợi của Huyền Trang về âm nhạc
Khâu Từ.

 

- Tôi chưa được nghe bao
giờ.

 

Cậu ta ngập ngừng, một
chút buồn vương trên đôi mắt.

 

- Cha mẹ tôi chưa bao
giờ hát ru tôi như cô.

 

Tôi bật cười tưởng tượng
cảnh Ku­marayana và Ji­va hát ru các con, có lẽ thay vì hát họ sẽ tụng kinh.

 

Ra­ji­va hơi ngạc nhiên
khi thấy tôi cười. Tôi vội đề nghị:

 

- Cậu có muốn nghe
không?

 

Cậu ta hơi do dự, không
trả lời tôi, chỉ cúi đầu im lặng. Rồi như phải quyết tâm lắn, cậu ta mới ngẩng
đầu nhìn tôi gật mạnh một cái. Tôi thấy hơi lạ, chỉ nghe một bài hát thôi mà,
việc gì phải đắn đo đến vậy? Tôi hát lại bài “Ngủ ngoan bé yêu”. Rồi, tôi chợt
nhớ đến trường đoạn Song Hye Kyo vừa sáng tác lời vừa tự biên tự diễn những
điệu nhảy rất mắc cười trong phim “Ngôi nhà hạnh phúc”. Điệu nhảy chẳng có gì
là nghệ thuật, nhưng có tác dụng gây cười rất tốt. Thế là tôi ra sức bắt chước
điệu nhảy đó. Tiểu hòa thượng đẹp trai trước mặt tôi đang cười rạng rỡ, đó là
điệu cười thoải mái, vô lo vô nghĩ thường thấy ở một thiếu niên mười ba tuổi.

 

Tôi hát xong rồi mà cậu
ta vẫn tiếp tục cười sảng khoái, nụ cười rất đẹp. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn Ra­ji­va,
muốn in lại hình ảnh trẻ trung đó trong trí nhớ. Suốt mấy ngày tôi hì hục vẽ Ra­ji­va,
vì tôi muốn đem hình cậu ta trở về thời hiện đại, để mọi người ở thế kỷ XXI
được chiêm ngưỡng chân dung sống động của vị hòa thượng vĩ đại 1650 năm về
trước. Nhưng tôi vốn không phải họa sĩ, tôi có thể phác thảo hình cắt ngang cắt
dọc của vật thể, nhưng vẽ chân dung thì quả là trình độ còn hạn chế. Vẽ đi vẽ
lại nhiều lần vẫn không ưng ý. Chưa nói đến thần thái thoát tục của cậu ấy, chỉ
riêng ngoại hình của cậu ấy cũng chưa đạt nổi ba phần. Lúc này, tôi ước gì có
một cây bút thần. Nụ cười ấy, đẹp như tạc, nếu có thể họa lại, để lưu giữ đến
ngàn sau, thì tuyệt biết bao!

 

Khuôn mặt Ra­ji­va lại
bắt đầu ửng đỏ, ánh mắt phiêu du xa xôi. Tôi chợt tỉnh cơn mơ, khi nãy chắc là
tôi nhìn cậu ta chăm chú quá khiến cậu ta mất tự nhiên. Tôi vội vàng tìm cách
chuyển chủ đề:

 

- Này Ra­ji­va, đức vua
gặp cậu có việc gì thế?

 

 

 

Chương 12: Vì sao xuất
gia?

 

- Đức vua muốn tôi hoàn
tục, trợ giúp ngài xử lý công việc triều chính.

 

- Cậu đã từ chối, đúng
không?

 

Nếu không, chúng ta làm
sao có được một dịch giả vĩ đại chứ!

 

- Sao cô biết được?

 

Ra­ji­va nghiêng mắt
nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.

 

- Vì cậu là Ku­mara­ji­va
kia mà!

 

Nói như vậy thì chỉ
người hiện đại mới hiểu được. Thế nên tôi vội vàng đổi giọng:

 

- Bởi vì, cậu không chỉ
muốn giải thoát cho bản thân bằng con đường tu hành sau khi đã thấu tỏ luân hồi
sinh tử, tránh xa dục vọng và đạt đến cảnh giới cao nhất, mà cậu còn mong muốn
cảm hóa con người, cứu rỗi chúng sinh, tu thành chính quả, cứu giúp cuộc đời.

 

Trong những ngày lênh
đênh trên sa mạc, chúng tôi từng thảo luận về lí tưởng. Khi ấy tôi vẫn chưa
biết cậu ta là Ku­mara­ji­va, nên không dám mở lời. Nhưng giờ đây, tôi đã biết
được thân phận thật sự của cậu ấy, lại đã từng đọc tài liệu về cậu ấy, nên tôi
hiểu Ra­ji­va đang trăn trở điều gì.

 

Tôi luôn cho rằng Phật
giáo là một tôn giáo thú vị và các vị cao tăng tín Phật đều là những triết gia.

 

Trước khi viên tịch,
Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Mani) không để lại bất cứ kinh văn có tính chuẩn
mực nào giống như “Kinh Thánh” của đạo Cơ đốc hay “Kinh Coran” của đạo Hồi và
khi ấy, Phật giáo cũng mới chỉ là một chi phái nhỏ trong số rất nhiều tôn giáo
lớn ở Ấn Độ. Nhưng kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni, Phật giáo đã có những chi
phái của mình, như chi phái do người em họ De­va­dat­ta của Đức Phật lập nên
chẳng hạn.

 

Các đệ tử của Phật tổ
cũng có những kiến giải không giống nhau về giáo lý Phật giáo. Những người có
tư tưởng khác biệt thường sẽ viết ra một bộ kinh văn và lập nên giáo phái của
riêng mình. Bởi vậy, mấy ngàn năm qua, các tông phái Phật giáo ra đời như nấm
sau mưa, tổng hợp các loại kinh văn từ những tông giáo này có thể phải mấy đời
mới đọc hết. Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông là những nhánh chính, còn những
nhánh nhỏ khác thì nhiều vô kể. Tiểu Thừa có Tuyết Sơn Bộ với thuyết “nhất
thiết hữu bộ” (tất cả, quá khứ, hiện tại và tương lai đều hiện hữu đồng thời).
Phật giáo Đại Thừa ở Trung Nguyên có Thiên Đài Tông, Tịnh Thổ Tông, Pháp Tướng
Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông. Giáo phái Mật Tông Tây Tạng có: Gel­ug­pa
giáo, Ny­ingma­pa giáo, Kagyur giáo, Sakya giáo, Hoàng giáo, Hồng giáo, Hoa
giáo, Hắc giáo, nhiều đến nỗi hồi đi du lịch Tây Tạng, mặc dù đã đọc rất nhiều
sách, tôi vẫn lơ mơ không hiểu gì hết.

 

Nói nhiều như thế là để
giải thích vì sao Phật giáo lại có nhiều tông phái đến vậy.

 

Có thể thấy rằng, các vị
cao tăng đều đắc đạo, sáng lập ra giáo phái riêng ấy đều là những triết gia
uyên bác. Phật giáo là tôn giáo có sức lôi cuốn mãnh liệt với những con người
trí tuệ siêu việt này. Thử nghĩ xem, nếu bạn là người có trí tuệ vượt xa người
bình thường, với tầm tư duy mà người bình thường không có được và trên cơ sở
không đi ngược lại những giáo lý truyền thống, bằng con đường tôn giáo, bạn có
thể phát biểu nhân sinh quan, thế giới quan hay những kiến giải uyên thâm của
bạn về thế giới tinh thần, để được ngàn vạn người cảm phục, ngưỡng mộ và tin
theo. Điều đó thật vĩ đại. Đối với các vị cao tăng, nếu có thể đem toàn bộ
những kiến thức tích lũy một đời xây dựng lên những học thuyết, những giáo lý
với quan điểm của riêng mình, rồi lập ra tông phái riêng, đó sẽ là thành tựu
lớn nhất trong lĩnh vực Phật học.

 

Ra­ji­va thông minh trác
tuyệt, lại giỏi tư duy, biện luận không khác một triết gia, chắc chắn cậu ấy
cũng muốn được trở thành người cha tinh thần của vạn người, giác ngộ và dẫn dắt
chúng sinh đến cảnh giới mà cậu cho là tuyệt đối. Tuy mới mười ba tuổi, nhưng
tôi tin rằng, cậu đã sớm hình thành nhân sinh quan và thế giới quan đó từ lâu
rồi.

 

Tôi cứ mải mê theo đuổi
những suy nghĩ bất tận của mình mà không nhận ra không khí im lặng đã kéo dài
từ nãy đến giờ. Thì ra Ra­ji­va đang nhìn tôi chăm chú, khóe môi hơi run run,
ánh mắt như muốn dồn tất cả ánh sáng vào tôi, đôi mắt ấy như đang thưởng thức,
như đang xúc động và nhiều hơn cả là cảm giác như được an ủi bởi vừa gặp được
tri âm.

 

- Ngải Tình, Ra­ji­va có
phẩm hạnh gì mà được gặp cô giữa nhân gi­an rộng lớn này.

 

Tôi cười gượng gạo.
Chẳng qua vì tôi đã đọc được những tài liệu viết về cậu ta, tôi biết lúc đầu Ra­ji­va
theo học Phật giáo Tiểu Thừa nhưng sau đó đã chuyển sang Đại Thừa. Những gì tôi
vừa nói chỉ là khái quát, tựu chung điểm khác biệt cơ bản giữa hai tông phái
này mà thôi. Vả lại trước đó, Ra­ji­va cũng từng thể hiện nỗi trăn trở, nên tôi
có thể đoán được mối suy tư lúc này của cậu chính là vấn đề thay đổi tông phái.

 

- Ngải Tình, còn nhớ một
buổi tối nọ trên sa mạc, cô từng hỏi tôi vì sao lại xuất gia không?

 

Ánh mắt Ra­ji­va bỏ tôi
ở lại, để trôi về nơi xa xăm. Tôi xốc mình ngồi ngay ngắn, để có thể lắng nghe
một cách nghiêm túc.

 

- Năm tôi lên bảy, mẹ
tôi ra ngoại thành du ngoạn, thấy xác người đầy gò, xương trắng đầy đồng, bà
nhận ra rằng, tham lam là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ. Dục vọng của con
người khủng khiếp tựa ngọn lửa dưới địa ngục, ngọn lửa ấy sẽ thiêu đốt con
người thành tro bụi, khiến con người phải phơi xác chốn đồng hoang. Bà không
muốn phải chịu đựng những dày vò khốn khổ ấy thêm nữa, nên đã thề rằng: nếu
không thể cắt tóc đi tu, bà sẽ không ăn uống gì hết. Cha tôi lúc đầu phản đối
kịch liệt, nhưng mẹ đã quyết chí tuyệt thực. Cho đến buổi tối ngày thứ sáu, khi
hơi thở của mẹ đã mỏng như làn gió, mà bà vẫn không chịu ăn uống. Cha tôi hoảng
sợ, đành nhận lời với bà. Nhưng mẹ sợ cha đổi ý, đã yêu cầu phải để bà xuống
tóc trước rồi mới chịu ăn. Ngày hôm sau bà thọ giới, ra khỏi nhà, chuyển đến tu
tại chùa Tsio- li.

 

Truyện kể về Ra­ji­va đã
chép rất rõ ràng nguyên nhân Ji­va xuất gia, nên tôi khẽ gật đầu:

 

- Vì vậy, cậu đã theo mẹ
xuất gia?

 

Ra­ji­va lắc đầu, ánh
mất dừng lại hồi lâu trên ngọn đèn dầu đang đu đưa trong gió, dường như cậu
đang nhớ lại điều gì.

 

- Sau khi mẹ xuất gia,
vì quá nhớ thương bà, tôi thường xuyên đến chùa thăm mẹ. Khi bà và các vị đại
sư tụng kinh, tôi ngồi bên cạnh lắng nghe. Không biết vì sao, những kinh văn
đó, tôi chỉ nghe một lần là thuộc làu làu, khiến ai nấy đều kinh ngạc. Trong
chùa có vị cao tăng Phật Đồ Thiệt Di hỏi tôi về ý nghĩa những bài kệ mà tôi
thuộc, tôi đều trả lời lưu loát. Thầy khen tôi là nhân tài của Phật môn, nên đã
trò chuyện với mẹ, bày tỏ mong muốn nhận tôi làm đệ tử.

 

Trí tuệ siêu phàm của Ra­ji­va
được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ. Trong truyện kể về cậu lúc bảy tuổi, đã miêu tả
như sau: “Một ngày đọc thuộc năm nghìn bài kệ, mỗi bài ba mươi hai chữ, tổng
cộng ba mươi hai nghìn chữ”. Bạn thử nghĩ xem, một cậu bé mới bảy tuổi mà mỗi
ngày có thể học thuộc ba mươi hai nghìn chữ, mà là những kinh văn khó hiểu, có
lẽ chỉ có Al­bert Ein­stein hay Steven William Hawk­ing mới có thể so sánh
được. Tôi nghĩ rằng nếu để Ra­ji­va đọc thuộc lòng số Pi, chắc chắn cậu ấy sẽ
phá được kỷ lục Gui­ness.

 

- Mẹ hỏi tôi có bằng
lòng xuất gia hay không. Tôi nghĩ rằng xuất gia thì sẽ được ở bên mẹ, nên đã
đồng ý.

 

Tôi hơi sững sờ, nhưng
cũng phải thôi, dù cậu ấy có thông minh bao nhiêu, cũng chỉ là một chú nhóc
không hơn không kém, chú nhóc ấy không muốn xa mẹ. Lí do này, rất tự nhiên. Nhưng
cuộc đời của Ra­ji­va đã được quyết định bởi cái gật đầu năm bảy tuổi ấy.

 

Ánh mắt Ra­ji­va rời
khỏi ngọn đèn, trôi về phía tôi, vẻ băn khoăn lại hiện trên nét mặt:

 

- Lần trước, khi cô hỏi
tôi vì sao xuất gia, tôi mới nhận ra, tôi không biết phải trả lời thế nào. Vì
muốn ở bên cạnh mẹ ư? Tôi đâu còn là đứa trẻ bảy tuổi. Thêm vài năm nữa, tôi sẽ
thọ đại giới và chính thức bước vào cõi sắc sắc không không. Nhưng, những ngày
qua, hằng đêm tôi vẫn tự hỏi, rốt cuộc, tôi xuất gia vì điều gì?

 

- Cậu đã có câu trả lời
chưa?

 

Tôi hơi tò mò.

 

- Trước đây, khi theo
học Phật pháp, các thầy đều giảng rằng, bằng con đường tu hành có thể tự giải
thoát, thấu tỏ luân hồi sinh tử, tránh xa sân si, dục vọng và vươn đến cõi Niết
Bàn. Khi ở Kab­ul, tôi theo đại sư Band­hu­dat­ta nghiên cứu Phật giáo Tiểu
Thừa, tổng cộng có bốn triệu câu kinh giảng giải về phương pháp tu thành chính
quả. Nhưng...

 

Ra­ji­va đứng lên, bước
về phía cửa sổ, xoay tay đặt sau lưng, trước mắt tôi là một dáng hình cô đơn,
khổ hạnh. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng đã toát lên thần thái của một bậc cao tăng.

 

- Trên đường trở về Khâu
Từ, chứng kiến cảnh xương trắng chất đầy sa mạc, đạo tặc hoành hành khắp nơi,
người người khổ ải lầm than. Tôi lấy làm băn khoăn, tôi có thể đắc đạo thông
qua con đường tu hành, nhưng những con người đó thì sao? Đám giặc cướp ấy vẫn
ngang ngược làm càn, chúng sinh vẫn chìm đắm trong nỗi khổ ải của sinh lão bệnh
tử. Vậy tôi nghiên cứu Phật pháp phỏng ích gì?

 

Tôi đứng lên, bước lại
gần Ra­ji­va, nhẹ nhàng lên tiếng:

 

- Tiểu Thừa xuất thế,
Đại Thừa nhập thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa, cậu cảm thấy
tông phái này phù hợp với ý nguyện của mình hơn. Địa Tạng Vương Bồ Tát từng
nói: Khi nào địa ngục còn chưa vắng âm hồn, thề sẽ không thành Phật. Có phải
cậu cũng muốn học theo Bồ Tát, cứu rỗi nhiều người chứ không chỉ cứu rỗi bản
thân?

 

Ra­ji­va đột ngột quay
lại nhìn tôi, ánh mắt cảm động, gương mặt rạng rỡ.

 

- Đúng vậy. Khi còn ở Su­laq,
tôi theo học đại sư Surya­so­ma, lần đầu tiên tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa,
tôi đã bị thuyết phục sâu sắc. Mấy ngày qua, cùng cô thảo luận về Phật pháp,
những kiến giải thâm thúy của cô về Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa khiến tôi
vô cùng ngưỡng mộ, có điều...

 

Gương mặt thoáng chút ưu
tư, giọng nói trở nên u uẩn:

 

- Có điều sau khi trở về
Khâu Từ, mỗi lần tôi đề cập đến giáo lý Đại Thừa, các vị sư phụ đều cho rằng đó
là thứ luận thuyết ngoại đạo sai trái, khiến tôi cảm thấy rất khổ tâm.

 

Tôi có thể hiểu được tâm
trạng ấy. Phật giáo Tiểu Thừa đã tồn tại và hưng thịnh suốt mấy trăm năm ở Khâu
Từ. Thời gi­an đầu, cuộc phân tranh giữa hai tông phái này diễn ra rất kịch
liệt. Khi ấy việc truyền bá giáo lý Đại Thừa, vốn là một tông phái nhỏ bé lúc
bấy giờ, bị xem là hành vi “xấu xa” của một bộ phận rất nhỏ các “tăng sĩ tích
cực”. Vì vậy, có thể hiểu được Ra­ji­va đã gặp phải sự kháng cự, phản đối mạnh
mẽ đến thế nào và nội tâm cậu đã phải đấu tranh, giằng xé ra sao.

 

- Ra­ji­va, thực ra, Đại
Thừa được phát triển trên nền tảng của giáo lý Tiểu Thừa, hai tông phái này
không đối lập nhau. Phật tổ sáng lập và đạo Phật vì muốn chống lại đạo Bà La
Môn, phản đối chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, bởi vậy giáo lý của ngài
hết sức đơn giản. Phương thức tu hành phỏng theo lối tu khổ hạnh rất được ưa
chuộng lúc bấy giờ, hy vọng bằng sự cố gắng của bản thân, có thể đạt đến sự
giải thoát. Nhưng xã hội đang trên đà phát triển và đổi thay. Những điểm hạn
chế của giáo lý Tiểu Thừa đang ngày càng trở nên rõ rệt.

 

Tôi bước đến bên cạnh Ra­ji­va
và nhìn cậu bằng sự chân thành lớn nhất mà tôi có:

 

- Phật giáo Tiểu Thừa đề
cao “tự cứu độ”, muốn được giải thoát, nhất thiết phải xuất gia. Những người tu
hành theo Phật giáo Tiểu Thừa không tham gia sản xuất, không sinh con đẻ cái.
Nếu ai cũng xuất gia và theo tông phái này, quốc gia sẽ không thể tồn tại, loài
người tất diệt vong. Đúng vậy, lúc Phật giáo và quyền lực thống trị phát sinh
mâu thuẫn thì tông phái Đại Thừa ra đời để giải quyết vấn đề đó.

 

Tôi ngẩng đầu, dõng dạc:

 

- Hơn nữa, giáo lý Đại
Thừa có thể cứu giúp mọi người. Chỉ cần bái phật và đọc kinh Phật là có thể
thành Phật. Và như vậy, không cần phải xuất gia, cư sĩ cũng có thể thành Phật,
tức là sẽ giải tỏa được mâu thuẫn về sức sản xuất. Cư sĩ lại có thể thành thân,
tức là sẽ giải tỏa được nhu cầu sinh sôi nảy nở không ngừng của nhân loại. Chỉ
khi được gi­ai cấp nắm quyền công nhận, Phật giáo mới có thể được lưu truyền
rộng rãi và thu hút thêm nhiều tín đồ. Đó chính là khi Phật quang phổ chiếu,
phổ độ chúng sinh.

 

Ra­ji­va dường như đang
nghe rất nhập tâm, vẻ mặt đăm chiêu. Tôi không biết cậu ta hiểu được bao nhiêu.
Tôi chỉ đưa ra phân tích của mình dựa trên mối quan hệ giữa tôn giáo và sức sản
xuất, giữa tôn giáo và gi­ai cấp thống trị mà thôi. Sau đó bổ sung thêm:

 

- Ra­ji­va, nguyện vọng
thay đổi tông phái của cậu là đúng đắn. Phật giáo Đại Thừa phù hợp với xu hướng
phát triển của thời đại, giúp giải tỏa nhu cầu tinh thần của rất nhiều người.

 

Với tính cách phóng
khoáng và tư tưởng cấp tiến của cậu ấy, giáo lý Đại Thừa chắc chắn phù hợp với
cậu ấy hơn. Thế nên quyết định thay đổi tông phái của cậu ấy về sau này cũng là
tất yếu.

 

Ra­ji­va ngẩng đầu lên
nhìn tôi, khuôn mặt thiếu niên phảng phất nét ưu tư:

 

- Vậy ở Trung Nguyên thì
sao? Liệu người Hán có đón nhận Phật giáo Đại Thừa không?

 

Tôi cười:

 

- Điều ấy là tất nhiên.
Phật giáo Đại Thừa sẽ được lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên từ đời này sang
đời khác.

 

Quý Tiễn Lâm từng nói:
“Thời gi­an phát triển hưng thịnh của một tôn giáo dài hay ngắn phụ thuộc vào
mức độ Trung Quốc hóa của nó. Giáo lý nào càng bình dân càng dễ được lòng quần
chúng và như vậy sẽ càng được gi­ai cấp thống trị ủng hộ. Giáo lý Tiểu Thừa đòi
hỏi con người tu hành khắc khổ mà chưa chắc đã có thể thành Phật. Trong khi
Phật giáo Đại Thừa, nhất là phái Thiền Tông đề xướng giác ngộ, “Ic­cha­nti­ka
(nhất xiền đề: chỉ hạng người thấp kém, thiếu thiện căn) cũng có Phật tính”. Vì
vậy, chỉ cần thành tâm khấn Phật, học Phật là có thể vứt bỏ đao kiếm, lập tức
thành Phật. Như thế thì thật thanh thản, thoải mái hơn sao!”

 

Ra­ji­va dần trở nên
tươi tỉnh hơn, vẻ kiên định toát ra từ vầng trán rộng. Hình như một quyết tâm
mạnh mẽ đã được thiết lập.

 

- Mấy hôm trước, tại một
điện thờ bỏ hoang trong chùa Tsio- li, tôi đã tình cờ lượm được một cuốn kinh
thư, đó là kinh luận Đại Thừa. Tôi không cầm lòng được nên đã lén mở ra đọc.
Nhưng vì lo ngại sẽ gây ảnh hưởng xấu đến những bài giảng và sự dạy dỗ của các
sư phụ, tôi không dám nói cho ai biết tôi mong muốn được học theo giáo lý mới
kia đến thế nào. Hôm nay, sau khi luận đàm với Ngải Tình, tôi đã biết mình phải
làm gì. Khi trở về, tôi sẽ đọc lại cho các sư phụ và sư huynh cùng nghe. Và
ngày sau sẽ truyền bá rộng rãi giáo lý Đại Thừa, cứu rỗi và phổ độ cho ngày
càng nhiều chúng sinh thành Phật.

 

Cuốn sách mà cậu ta nhắc
đến, tôi thấy rất quen.

 

- Ra­ji­va, cuốn sách mà
cậu tìm thấy đó có phải là cuốn “Kinh phóng quang” không? Và có phải yêu ma đã
vây lấy cậu, buộc cậu phải từ bỏ không?

 

Trong truyện kể về Ra­ji­va
có đoạn viết: “Khi Ku­mara­ji­va mở ra đọc cuốn “Kinh phóng quang”, thì đột
nhiên chữ viết trên thẻ gỗ biến mất. Đại sư biết đó là do yêu ma gây chuyện, nên
quyết tâm đọc kinh càng lớn hơn. Thế là ma lực trở nên vô hiệu, chữ viết lập
tức trở lại và đại sư tiếp tục nghiên cứu sách. Bỗng nhiên, trong không trung
truyền đến một giọng nói: Ngươi là người tài trí, sao lại đọc Kinh phóng quang?
Sư đáp: Đồ yêu ma quỷ quái, hãy xéo mau đi! Quyết tâm của ta lớn tựa đất này,
không gì có thể lay chuyển được”.

 

Tất nhiên là tôi không
nghĩ cậu ấy thực sự gặp ma. Tôi tin rằng Tuệ Giảo viết lên câu chuyện ly kỳ này
mục dích là muốn nhấn mạnh, Ku­mara­ji­va đã gặp phải những trở ngại tâm lý rất
lớn khi quyết định thay đổi tông phái. Bởi vì, phải thay đổi tín ngưỡng mà xưa
nay bản thân vẫn sùng bái và tin theo là một việc vô cùng đau khổ. Chắc chắn
cậu ấy đã từng day dứt, do dự, thậm chí từng muốn bỏ cuộc. Những ràng buộc tâm
lý bao giờ cũng là trở ngại lớn nhất và khó dứt bỏ nhất.

 

Cậu ta ngạc nhiên thốt
lên:

 

- Kinh phóng quang?

 

Rồi đọc một lần tên cuốn
sách bằng tiếng Phạn và gật đầu tán thưởng:

 

- Tên sách dịch rất hay.
Đức Phật tỏa ánh hào quang, chiếu rọi đến chúng sinh.

 

Ra­ji­va cân nhắc hồi
lâu, rồi nói:

 

- Cuốn kinh này nói
rằng, việc truyền bá đạo Phật nhằm giúp cho người mù thấy được ánh sáng, người
điếc nghe được âm thanh, người câm có được tiếng nói, người gù được thẳng lưng,
khiến người ngông cuồng trở nên nghiêm chỉnh, người bối rối được yên lòng,
người bệnh được chữa khỏi, người ốm yếu được khỏe mạnh, người già được trẻ lại,
người rách nát được áo ấm. Phật pháp chiếu rọi, giúp cho chúng sinh được bình
đẳng như nhau, cư xử với nhau như cha mẹ, như anh chị em ruột thịt. Đều có
nghĩa là, mục đích của tu hành là nhằm cứu rỗi chúng sinh, chứ không đề cao cá
nhân đắc đạo. Những giá trị sâu sắc này, bản thân tôi hết sức tán đồng.

 

Hai hàng lông mày của
cậu ta khẽ chau lại:

 

- Nhưng, làm gì có ma
quỷ nào quấy rối tôi?

 

Ánh mắt thoáng qua một
nét cười, suy nghĩ một lát, lại tiếp tục giải thích:

 

- Nếu có, thì đó là
những trở ngại tâm lý của chính tôi. Tôi không biết có nên học theo giáo lý Đại
Thừa hay không. Kể từ khi có được cuốn kinh này, tôi đã do dự không biết bao nhiêu
lần, rốt cuộc có nên đọc hay không. Đọc xong lại do dự. Có nên truyền bá hay
không? Những trở ngại đó, đến tận hôm nay mới được rũ bỏ triệt để.

 

Còn nhớ buổi tối hôm đó
cô từng hỏi tôi, lí tưởng của cuộc đời tôi là gì không?

 

Hít một hơi thật sâu,
rướn mình về phía trước:

 

- Đến nay, tôi đã có thể
giống như cô, nói lên thật rõ ràng lí tưởng của mình.

 

Cậu ta ngừng lại một lát
rồi cất giọng sang sảng:

 

- Truyền bá đạo Phật tại
mọi nơi tôi đặt chân đến, lập ra luận thuyết mới, cứu rỗi chúng sinh, đây chính
là lí tưởng của cuộc đời tôi.

 

Ra­ji­va trong tư thế
ngẩng cao đầu, ánh đèn dầu leo lét không che nổi sự tự tin ngập tràn trên gương
mặt cậu. Khí chất bất phàm này khiến tôi cứ ngắm nhìn mê mẩn. Sự tự tin và trí
tuệ trác việt ấy tỏa sáng trên dáng hình một thiếu niên, tựa như tôi đang nhìn
thấy ánh sáng rực rỡ của tương lai, đó là thứ ánh sáng tỏa ra từ ngọn lửa xung
thiên được đốt lên bằng tất cả nội lực sống, hào quang tỏa chiếu khắp nơi.

 

- Rất có chí khí!

 

Tôi ra sức vỗ tay, gật
đầu và hô vang lời tán thưởng.

 

- Tôi rất khâm phục
những người có lí tưởng, có hoài bão. Hãy tiến lên theo mục tiêu đã định, chắc
chắn cậu sẽ thành công.

 

Ra­ji­va đột nhiên quay
sang tôi, cung kính chắp tay cúi lạy, khiến tôi giật bắn cả mình. Khi cậu ngẩng
lên, tôi bắt gặp một khuôn mặt hao gầy hắt lên sắc đỏ, ánh mắt chân thành và
mãnh liệt:

 

- Ngải Tình, Phật tổ
thương tình đã gửi đến cho tôi một người thầy thông thái như cô để chỉ dẫn và
khai mở đường đi cho Ra­ji­va. Ra­ji­va nguyện không phụ lòng cô!

 

Cậu ta chưa bao giờ tỏ
ra cung kính như vậy đối với tôi. Một tia lửa nhỏ bất ngờ nhen nhóm trong tim
tôi và nhanh như chớp, tỏa đi khắp cơ thể tôi. Trong vô thức, tôi dùng tay làm
quạt đón gió. Vì sao đang giữa đông mà trời lại oi bức như vậy?

 

Buổi tối hôm đó, sau khi
kết thúc giờ học, lúc bước ra cửa, Ra­ji­va ngó lên bầu trời đầy sao, nói:

 

- Ngày mai sẽ có nắng.

 

Rồi quay đầu lại nhìn
tôi, nụ cười tươi tắn như gió xuân:

 

- Ngải Tình, ngày mai
tôi sẽ đưa cô đi tham quan thành Khâu Từ.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3