Em ở đâu - Marc Levy - Update - Chương 9.1
Chương 9.1
Sau bữa ăn, họ lại tiếp tục trò chuyện thủ thỉ trong khi đi dọc các con phố tại
khu Village, lục tung tất cả các cửa hiệu thời trang mà họ bước vào để tìm cho
ra bộ đồ định mệnh sẽ “hạ gục” chàng trai đang được nói đến.
- Con hiểu không, Mary nói, chúng ta vẫn luôn nói rằng trong tình yêu, hình
dáng bên ngoài không phải là điều quan trọng, nhưng trong vấn đề quyến rũ, dù
sao nó cũng đóng vai trò đáng kể đấy! Vấn đề là phải tìm được phong cách ăn mặc
phù hợp nhất với mình!
Khi cô bán hàng của tiệm Banana Republic nhận thấy cô bé đang băn khoăn trước một
chiếc quần bó màu đen nên nói với Lisa rằng với thân hình của cô, cô có thể mặc
bất cứ loại quần áo nào, và chỉ lát sau, trong khi cô bé đang ở trong phòng thử
đồ, vẫn cô bán hàng ấy nói với Mary rằng con gái của cô rất đẹp, cảm giác choán
lấy cô không giống chút nào với sự ghen tị, mà giống với một cảm giác tự hào.
Khi ra đến ngoài vỉa hè, hai tay mang lỉnh kỉnh các túi đồ, Lisa ôm hôn Mary và
thì thầm vào tai cô rằng chàng trai tên là Stephen.
- Chà, Stephen, Mary cao giọng đáp, đây sẽ là sự khởi đầu cho những nỗi bất hạnh
của cậu, suốt những ngày hè, cậu sẽ phải cảm thấy khổ sở đấy, hãy chống mắt lên
mà coi!
* * *
Trong
suốt mùa hè mà cả nhà lại cùng nhau đi nghỉ trong vùng Hamptons, hai tuần một lần,
Lisa bí mật viết thư cho chàng trai tên là Stephen. Những lá thư đủ để chàng cảm
thấy an tâm rằng cô nghĩ rất nhiều đến anh, nhưng cũng đủ để cho anh biết rằng
có rất nhiều chàng trai dễ thương ở đây, và rằng cô có những ngày nghỉ tuyệt vời,
cô chơi thể thao rất nhiều. Cô hi vọng rằng anh cũng cảm thấy vui trong trại hè
của anh, và nói thêm rằng cô thấy hai khái niệm có vẻ rất đối kháng. “Một chút
từ vựng chẳng có hại gì đâu”, Mary trả lời khi cô bé cứ băn khoăn hỏi rằng liệu
từ “đối kháng” có hơi to tát quá không.
Ngày tựu trường, Lisa gặp lại Stephen trong lớp và trong cuộc đời cô.
Vào tháng Mười một, Lisa có vẻ buồn bã, và Mary biết được rằng lần này Stephen
sẽ cùng gia đình đi dự một lớp trượt tuyết trong vùng núi Colorado. Không hỏi ý
kiến một ai, trong buổi ăn tối ngày hôm sau, cô quyết định rằng sẽ rất tuyệt nếu
Lisa học để biết trượt tuyết thật giỏi. Lời mời của Cindy, chị của Stephen, mời
Lisa cùng đi nghỉ với gia đình đến rất đúng lúc. Đối với Philip, không bao giờ
có chuyện gia đình phân tán trong dịp Noel, nhưng Mary kiên quyết giữ nguyên ý
kiến của mình bởi vì ngày khởi hành đã dự định là ngày 27. Còn đêm giao thừa, mọi
người sẽ gọi điện cho nhau, phải biết học để lớn lên chứ, phải không?
Cái nhướn mày bên trái của cô hẳn đã kêu gọi được sự đồng thuận cuối cùng.
Họ chỉ nhận được một tấm bưu thiếp duy nhất đến vào hôm trước ngày trở về của
Lisa, và mỗi ngày Mary đều phải giải thích với Philip rằng phải mừng vì điều đó
mới đúng - nếu như ngày nào con bé cũng viết thư thì lúc đó mới đáng lo.
Thế là họ chỉ có ba người cùng đón lễ New Year’s Eve[32], và, nhất định hàn gắn
sự cách biệt này, Mary chuẩn bị một bữa ăn thật linh đình. Tuy vậy, ngồi trong
bàn, chiếc ghế bỏ trống của Lisa vẫn ám ảnh cô suốt buổi tối. Sự vắng mặt của
Lisa đánh một cú mạnh vào cái cánh cửa nhỏ để ngỏ mà cô đã từng nói với em vào
một buổi chiều mùa hè.
Cô bé trở về với làn da rám nắng, hạnh phúc và mang theo về hai tấm huy chương
giành được trên các đường đua. Cuối cùng Mary cũng thấy mặt anh chàng Stephen vẫn
hãy được nhắc đến trên những tấm hình chụp cả nhóm. Sau đó, Lisa kéo cô vào
phòng và một lần nữa chỉ cho cô xem chàng trai trên tấm chân dung hai đứa tươi
cười chụp tại quầy tự động, trước khi giấu nó dưới nệm.
Trong suốt hai tháng sau đó, ý nghĩ quay trở lại với nghề phóng viên ngày càng
xuất hiện nhiều hơn trong đầu cô. Cô bắt đầu bằng việc viết các bài thời luận,
“chỉ là để cho vui”, và đi ăn trưa với người tổng biên tập mới của tờ Montclair
Times mà cô từng quen khi còn học ở trường đại học vì tò mò. Cô hết sức ngạc
nhiên khi anh ta đề nghị cô gửi cho anh ta một bài. Chắc chắn cô sẽ cần một ít
thời gian để “giũa” lại ngòi bút, nhưng anh ta để cho cô tự chọn chủ đề bài viết.
Trước khi chia tay, anh hứa sẽ làm hết khả năng của mình để giúp cô nếu như cô
thực sự muốn quay trở lại với nghề. “Mà tại sao không?” cô tự nhủ trên đường về
nhà.
= 0 =
Philip ngồi tại bàn làm việc, ngắm mặt trời đang lặn vào lúc cuối chiều của một
ngày tháng Năm này. Vừa trở về từ thư viện thành phố, Mary đi ngay lên phòng cắt
ngang công việc của anh.
Khi cô bước vào, anh ngẩng mặt lên và mỉm cười với cô trong khi chờ cô nói.
- Anh có nghĩ rằng người ta có thể nắm giữ được hạnh phúc khi ở tuổi bốn mươi?
- Ít nhất thì người ta cũng có thể nhận thức được nó.
- Liệu mọi việc có thể thay đổi muộn màng như vậy trong cuộc sống, liệu bản
thân người ta còn có thể thay đổi được không?
- Người ta có thể chấp nhận trưởng thành hơn và chung sống với mọi chuyện thay
vì đối đầu với chúng.
- Đây là lần đầu tiên kể từ bấy lâu nay em cảm thấy anh ở gần bên em, Philip,
và chính điều đó làm cho em hạnh phúc.
Vào mùa xuân năm 1995, Mary biết rằng hạnh phúc đã đến ở trong căn nhà của cô,
và sẽ còn ở lại rất lâu.
= 0 =
Cô dọn căn phòng của Lisa và vì lúc đó trời đã bắt đầu nóng, cô quyết định lật
mặt đệm qua phía dành cho mùa hè. Chính vào lúc đó cô đã bắt gặp cuốn sổ lớn với
bìa màu đen. Cô lưỡng lự, ngồi vào bàn và bắt đầu lật từng trang. Trang đầu
tiên có hình lá cờ Honduras vẽ bằng màu nước. Mỗi trang sổ mở ra, cổ họng cô lại
nghẹn lại thêm một chút. Tất cả các bài báo đã được đăng tải viết về các đợt
bão đã xảy ra trên trái đất trong những năm qua đã được cắt ra và dán vào trong
cuốn album bí mật này, các bài báo ít nhiều liên quan đến Honduras thì được sắp
xếp cẩn thận theo thứ tự thời gian. Nó giống như cuốn nhật ký hải trình của một
người thủy thủ xa đất liền, hàng đêm vẫn mơ về những ngày tháng sắp tới, khi trở
về nhà, anh sẽ kể cho những người thân của mình nghe về chuyến đi có một không
hai.
Mary gấp cuốn sổ lại và đặt nó lại chỗ cũ. Những ngày sau đó, cô không để lộ
cho ai biết phát hiện này và, nếu như mọi người trong gia đình đều cảm thấy tâm
trạng của cô có gì đó thay đổi, không một ai hiểu được rằng một trái tim có thể
héo tàm chỉ trong vài giây.
= 0 =
Dù không tự nhận thấy điều đó, nhưng đã bốn lần kể từ đầu mùa hè, Mary gặng hỏi
Philip xem anh thấy nên làm gì để tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười chín của
Lisa cho xứng đáng. Khi anh trả lời vẻ hài hước rằng họ còn tới hai năm nữa để
suy nghĩ, cô tỏ ra bực tức trả lời đôi khi thời gian trôi nhanh đến mức họ
không kịp để ý.
Sáng nay, sau bữa ăn sáng, khi Lisa ra ngoài đi cùng với Thomas đến sân chơi
bóng chày, cô lại nhắc đến chủ đề này.
- Em làm sao vậy, Mary? Philip hỏi.
- Không sao hết, em chỉ hơi mệt, thế thôi.
- Em chẳng bao giờ mệt cả. Có chuyện gì em chưa nói với anh phải không?
- Thì em đến tuổi rồi, chứ anh còn muốn sao nữa, rồi cũng có một ngày sự mệt mỏi
phải đến chứ.
- Sau ba mươi hay bốn mươi năm nữa thì bài diễn văn này của em sẽ là sự thật
không thể chối cãi được, nhưng bây giờ thì chưa phải lúc, nói anh nghe đi.
- Đi theo em, em có cái này muốn cho anh xem!
Cô dẫn anh vào phòng của Lisa và thò tay vào phía dưới tấm nệm. Đến lượt mình,
anh cẩn thận lật từng trang album.
- Con bé này dàn trang tốt một cách kinh ngạc, nó đúng là có khiếu về đồ họa,
anh thấy rất tự hào, nó có tài đấy. Em có nghĩ là công việc của anh tạo cảm hứng
cho nó không?
Mary cắn chặt răng để kìm những giọt nước mắt giận dữ chỉ trực trào ra trong
đôi mắt cô.
- Đó là tất cả những gì cuốn sổ gợi cho anh ư? Cả bấy nhiêu trang giấy chỉ nói
về các trận bão và về Honduras, vậy mà anh, anh lại quan tâm đến khả năng làm
maquette của nó!
- Bình tĩnh lại nào, sao em lại như vậy?
- Anh không thấy là con bé chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi hay sao, nó bị ám ảnh bởi
cái đất nước chết tiệt đó và bởi những cơn bão đáng nguyền rủa! Em cứ tưởng rằng
mình đã mang đến cho nó một điều gì đó khác, em đã nghĩ rằng mình đã khiến cho
nó cảm thấy thích thú với một cuộc sống khác. Chưa đầy ba năm nữa, thời gian sẽ
trôi qua nhanh lắm.
- Mà em đang nói về cái gì vậy?
Cô không trả lời, Philip nắm lấy tay cô và kéo cô ngồi lên đùi mình. Anh ôm cô
thật chặt vào lòng và nói với cô bằng một giọng dịu dàng và trầm tĩnh. Cô gục đầu
vào vai anh, khóc nức nở.
- Tình yêu của anh, Philip nói tiếp, nếu như mẹ của em bị giết hại, và những người
thân đã lấp đầy ký ức tuổi thơ của em đều bị giết chết bởi một tên sát nhân, em
có thể không bị ám ảnh bởi những tên giết người hàng loạt chăng?
- Em không thấy có mối liên hệ nào ở đây.
- Những cơn bão, chúng chính là những tên sát nhân vẫn ám ảnh con bé hằng đêm.
Ai có thể hiểu hơn em nhu cầu tìm kiếm, đọc tài liệu, thống kê để hiểu rõ hơn,
chính em đã từng lý giải cho mình như thế khi em là sinh viên, và em từ chối
các buổi ăn tối với anh để ở nhà viết báo. Những cơn bão đã giết chết tuổi thơ
của nó, vì thế nên nó tìm kiếm thông tin về chúng, nó cắt chúng ra và dán vào
cuốn album của nó.
- Anh nói như vậy để làm cho em yên tâm đấy à?
- Đừng vội từ bỏ, Mary, đừng từ bỏ vào lúc này, nó cần đến em. Lisa đã làm đảo
lộn cuộc sống của em. Em đã biết điều đó ngay vào giây phút nó xuất hiện trên lối
đi này, nhưng em không muốn thừa nhận điều đó. Em đã chống lại tình cảm này, và
dù em đã đoán ra cái hạnh phúc đang tới, nó vẫn làm đảo lộn trật tự mà em đã
thiết lập, và em chối bỏ nó. Trước bấy nhiêu điều hiển nhiên, em đã để cho mình
bị khuất phục, em đã mở trái tim mình ra với cô bé và mỗi ngày trôi qua, em
càng hiểu ra em yêu nó đến mức độ nào. Anh biết rằng ban đầu, điều đó không dễ
dàng gì, em đã phải có rất nhiều can đảm.
- Anh nói về chuyện gì vậy?
- Về sự kiên nhẫn và khiêm tốn của em. Bởi vì khiêm tốn cũng có nghĩa là tin
vào cuộc sống của chính mình.
Anh đóng cuốn sổ lại và quăng nó ra giường, rồi anh nhìn sâu vào mắt Mary và bắt
đầu cởi khuy áo của chiếc áo bó cô đang mặc. Cuối cùng cô cũng mỉm cười khi bàn
tay anh đặt lên bộ ngực trần của cô.
- Đừng làm thế trong phòng của Lisa!
- Anh cứ nghĩ là con bé đã gần như trưởng thành rồi chứ? Tại cuốn album này mà
em bị ám ảnh về sinh nhật thứ mười chín của nó đấy phải không?
- Không, ngốc ạ, cô vừa trả lời vừa nấc lên, bởi vì em sợ rằng cửa hàng bán đồ
ăn sẵn sẽ đóng cửa vào ngày hôm đó!
Sau
đó, cũng trong ngày hôm ấy, cô chia sẻ với anh một suy nghĩ mà cô không bao giờ
có thể ngờ rằng mình lại có thể có trong đầu.
- Em nghĩ là em đã hiểu anh cảm thấy như thế nào khi Susan ra đi, cảm giác bất
lực thật đáng sợ khi bản thân nó phải đối đầu với sức mạnh của tình cảm.
Sáng hôm sau, tại thư viện nơi cô bắt đầu có thói quen đến để làm việc, Mary viết
một lá thư. Cô dán phong bì lại và viết bằng bút lông: “National Hurricaine
Center, Public Affair, 11691 S.W. 117th Street, Miami, 33199 Florida”. Hai ngày
sau, khi người nhận lá thư mở nó ra, ông ta đọc thấy những lời sau:
Montclair, NJ, ngày 10 tháng Bảy năm 1995,
Thưa ngài Giám đốc phòng Quan hệ đối ngoại Trung tâm nghiên cứu bão quốc gia,
Tuy bản thân tôi là nhà báo và vốn có ý định vài tháng tới sẽ đăng bài báo về
những cơn bão và về trung tâm của ông, tôi viết thư này để xin được gặp và trao
đổi với ông với tư cách cá nhân. Để ông có thể hiểu được lý do khiến tôi làm điều
này, cho phép tôi được trình bày rõ hơn về hoàn cảnh đặc biệt liên quan đến
hành động của tôi. […..]
Bức thư dài năm trang được ký tên Mary Nolton.
Mười ngày sau, cô nhận được câu trả lời:
Thưa bà,
Lá thư của bà đã khiến tôi đặc biệt quan tâm. Từ tháng Năm, chúng ta đã dọn hẳn
về trụ sở mới đặt tại khuôn viên Trường đại học quốc tế Florida, và tôi nghĩ rằng
chúng tôi sẽ có thể đón tiếp bà và cô con gái Lisa của bà kể từ tháng Chín tới.
Do tính chất đặc biệt trong lời yêu cầu của bà, tôi nghĩ rằng có lẽ sẽ thuận lợi
hơn nếu chúng ta có thể trao đổi trước về trình tự chuyến tham quan và làm việc
của bà. Bà có thể liên hệ với chúng tôi tại văn phòng.
Xin gửi đến bà lời chào trân trọng.
P.Hebert
MIC (Meteorologist in Charge)
Tuần lễ sau đó, Mary mời tổng biên tập của tờ Montclair Times ăn trưa. Sau khi
chia tay với anh bên ngoài bậc thềm của tòa soạn, cô đi đến đại lý bán vé du lịch
của mình và mua một tấm vé khứ hồi đi Miami; chuyến bay của cô khởi hành sáng sớm
hôm sau, lúc 6 giờ 35, cô gọi điện cho thư ký của ông Hebert để báo rằng ngày
hôm sau, cô sẽ có mặt tại văn phòng của ông lúc 12 giờ trưa. Nếu may mắn một
chút và làm việc thật hiệu quả, cô sẽ có thể trở về nhà vào buổi tối cùng ngày.
= 0 =
Sáng sớm, cô bước thật khẽ đi xuống cầu thang, chú ý để không đánh thức một ai.
Cô vào bếp, pha cho mình một li cà phê, vừa nhâm nhi vừa ngắm trời đang sáng dần,
rồi cô nhẹ nhàng đóng cửa nhà phía sau lưng mình và lên đường. Trên xa lộ dẫn
ra sân bay Newark, hơi gió lùa vào trong xe qua ô cửa kính mở lớn đã bắt đầu ấm
dần, cô bật radio và tự cảm thấy ngạc nhiên khi nhận ra mình đang hát váng tai.
Máy bay đáp xuống sân bay quốc tế Miami lúc 11 giờ. Cô không mang theo hành lý
nên rời khỏi sân bay rất nhanh. Nhận xong chiếc xe hơi đặt thuê sẵn, trải tấm bản
đồ ra trên chiếc ghế bên phải, cô lái xe tiến vào làng Virginia Gardens, rẽ qua
trái, vào đường cao tốc số 826, sau đó rẽ phải vào đường Flagami West Miami, và
sau đó lại rẽ trái vào đại lộ thứ 117. Thông tin chỉ dẫn mà người ta cung cấp cho
cô rất chính xác, tòa nhà NHC[33] hiện ra bên tay trái. Sau khi tự giới thiệu với
người bảo vệ tại cổng khuôn viên, cô đậu xe vào bãi và di theo con đường chạy dọc
khu vườn. Tòa nhà của NHC xây bằng bê tông mài trắng, trông giống như một
boongke hiện đại với kiến trúc được cách điệu.
- Đó chính xác là điều chúng tôi muốn, thưa bà! Tất nhiên khi đã làm việc tại
Miami, chắc chắn ai cũng mơ ước được làm việc trong những tòa nhà ốp những tấm
kính lớn phía trước để có thể tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh nơi
đây. Nhưng với những gì chúng tôi biết và quan sát được, chúng tôi vẫn muốn tòa
nhà này phải được thiết kế vững chắc để chống chịu được các cơn bão, dù cho kiến
trúc có xấu xí một chút. Đó là một lựa chọn mà tất cả chúng tôi ở đây đều cảm
thấy thoải mái.
- Một cơn bão đáng sợ đến như vậy sao?
- Ngang với những gì quả bom nguyên tử dội xuống Hiroshima hay Nagasaki có thể
gây nên.
Giáo sư Hebert đến đón cô tại tiền sảnh của tòa nhà, ông dẫn cô đến tận phòng
làm việc của ông nằm bên cánh đối diện. Cô đặt hành lý xuống và ông bảo cô đi
theo ông: ông có cái gì đó muốn cho cô xem trước khi họ bắt đầu trao đổi. Lối
đi kín mít không có cửa sổ khiến cho cô cảm tưởng như đang đi dạo trong một
hành lang thông với nhiều phòng trên một chiếc tàu chiến của hải quân, và cô tự
hỏi có phải người ta đã làm cho nó thông thoáng ra thêm một chút rồi không. Ông
mở cánh cửa của một phòng triển lãm. Phía bên trái, những bức tường lớn màu trắng
phủ đầy những tấm hình do các máy bay tham sát của NHC chụp. Những bức hình chụp
các cơn bão cho thấy những khối mây trông vừa oai phong, vừa khủng khiếp xoay
tròn quanh chính mình, để lộ ra một khoảng trống màu xanh da trời tại tâm điểm
của chúng, mà một số người gọi là mắt quỷ.
- Khi nhìn một cơn bão từ trên cao thế này, thậm chí ta có thể nó rất đẹp, đúng
không?
Câu nói của Hebert vang lên trong căn phòng lớn và trống trải. Giọng của ông đột
ngột thay đổi, nó trở nên gần như trịnh trọng.
- Bức tường bên phải mang người ta trở lại mặt đất, nếu tôi có thể nói như vậy,
những bức hình này cho thấy những gì diễn ra bên ở dưới. Chúng nhắc nhở cho mỗi
người chúng tôi tầm quan trọng của nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực hiện. Hãy
nhìn những bức hình này thật lâu đến chừng nào đã hiểu rõ chúng ta đang nói về
cái gì. Mỗi tấm hình đều là nhân chứng cho thấy sức mạnh khủng khiếp tàn phá và
hủy diệt của những con quái vật này. Hàng trăm, hàng ngàn người chết, đôi khi
còn hơn con số đó nữa, những vùng đất bị xóa sổ hoàn toàn, biết bao cuộc đời bị
hủy diệt, biến thành hư vô.
Mary lại gần một bức hình.
- Cơn bão mà cô nhìn thấy tên là Fifi, một cái tên lạ lùng cho một kẻ giết người
quy mô cỡ như thế. Nó đã đổ bộ xuống Honduras vào năm 1974, quét qua gần như
toàn bộ đất nước, để lại phía sau nó một sự tàn phá ngoài sức tưởng tượng và
hàng trăm ngàn con người trở thành vô gia cư. Trong giây lát, hãy thử hình dung
hình ảnh khủng khiếp với xác chết của mười ngàn trẻ con, phụ nữ và đàn ông. Những
tấm ảnh nhỏ của chúng tôi dán xung quanh những bức hình lớn chỉ là một vài tấm
hình làm chứng cho điều mà tôi vừa miêu tả với cô, chúng tôi đã chọn ra những bức
ít kinh hoàng nhất nhưng vẫn không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy chúng.
Không
nói nên lời, Mary tiến lên vài mét; Hebert chỉ tay vào một tấm hình khác trên
tường.
- Cô đang nhìn thấy những gì xảy ra vào năm 1989. Allison, Barry, Chantal,
Dean, Erin, Felix, Gabrielle, Karen, Jerry, Iris là một số trong số những kẻ
sát nhân của năm đó, cũng phải nhắc đến Hugo, một cơn bão di chuyển với tốc độ
trên 130 hải lý một giờ, tàn phá Charleston và cả một vùng rộng lớn thuộc Nam
Carolina. Trận bão mà bà đã nhắc đến trong thư hẳn là một cơn bão tên là
Gilbert, nó đã hoành hành trong suốt 13 ngày vào năm 1988, những cơn gió của
nó di chuyển với tốc độ 165 hải lý một giờ, và những trận mưa xảy
ra trước cơn bão đã gây nên những hậu quả kinh hoàng; tôi đã kiểm tra
lại, chúng tôi không có con số chính xác về Honduras. Thưa bà, tôi
không muốn xen vào những chuyện không phải của mình, nhưng bà có chắc
chắn là bà muốn con gái bà nhìn thấy những hình ảnh này không?
- Cơn bão Gilbert này hay một trong những anh chị em họ của nó đã giết
chết mẹ đẻ của cô bé. Lisa đã bí mật nuôi dưỡng một niềm say mê đến
ám ánh đối với những cơn bão.
- Đó, lại thêm một lý do nữa khiến cho nơi này trở nên quá sức chịu
đựng đố́i với cô bé.
- Chính sự không hiểu biết khiến cho người ta cảm thấy sợ hãi. Chính
là để chiến đấu với những nỗi sợ hãi của bản thân mình mà tôi đã
muốn trở thành nhà báo. Con bé cảm nhận nhu cầu muốn được hiểu biết
mà không biết tìm ở đâu, vì thế tôi sẽ giúp nó, và tôi sẽ ở bên
cạnh nó để chia sẻ những giây phút này, dù chúng có khó khăn đến
thế nào.
- Tôi e rằng không thể đồng ý với quan điểm của bà.
- Tôi rất cần ông, giáo sư Hebert. Một bé gái không sao lớn lên nổi.
Càng ngày càng hiếm khi người ta nghe giọng nói của nó, đến nỗi mỗi
khi nó quyết định mở miệng nói, người ta phải căng tai lên để nghe. Năm
tháng càng trôi qua, tôi càng thấy nó giam mình trong im lặng của nỗi
sợ hãi. Nó run rẩy mỗi khi một cơn dông nổ ra, nó sợ cả những cơn
mưa. Khi ông gặp con bé, ông sẽ thấy dù có như thế, con bé vẫn thật
là dũng cảm, nó tự hào khi giấu kín nỗi ám ảnh kinh hoàng vẫn luôn
đè nặng lên nó. Không có tuần nào trôi qua mà tôi không phải đến phòng
nó vào ban đêm để giúp nó thoát khỏi một cơn ác mộng. Tôi thấy nó
nằm đó, người vã mồ hôi, bị chôn chặt trong một giấc ngủ mịt mù đến
mức thậm chí tôi không thể nào đánh thức nó dậy. Có những lần nó đã
cắn lưỡi đến chảy máu để chống chọi lại với những nỗi sợ hãi của
nó. Không ai biết điều đó, cả con bé cũng không biết rằng tôi đã
khám phá ra điều bí mật vẫn ám ảnh nó. Nó cần được biết là trung
tâm của ông đang tồn tại, rằng chúng ta không bỏ qua cho những tên quái
vật đã cướp đi mạng sống của những người thân của nó, rằng các ông
vẫn giám sát chúng, các ông vẫn đang truy lùng chúng, rằng có những
phương tiện đã được đầu tư để khoa học có thể giúp bảo vệ những người
dân khỏi những cơn cuồng nộ chết người của tự nhiên. Tôi muốn một ngày
kia con bé có thể ngắm nhìn bầu trời và nhận ra rằng những đám mây có
thể cũng rất đẹp, tôi muốn mỗi đêm khi nằm ngủ, con bé có được những
giấc mơ êm ái.
Giáo sư Hebert mời Mary đi theo ông, với một nụ cười trên môi. Khi mở
cánh cửa phòng triển lãm, ông quay sang cô:
- Tôi không dám chắc rằng chúng tôi có được đầy đủ các phương tiện,
nhưng ít ra là chúng tồn tại. Hãy đến đây, tôi sẽ đưa cô đi xem phần
còn lại của Trung tâm và chúng ta sẽ cùng suy nghĩ xem chúng ta có thể
làm gì.