Tư Duy Phản Biện - Chương 03
ƯỚC MƠ CHO ĐÁNG ƯỚC MƠ
“Hầu hết những điều mà chúng ta nghĩ là bất khả thi trong cuộc đời đều bắt nguồn từ việc chúng ta chưa bao giờ thử sức với chúng. Nên hãy cứ theo đuổi mọi giấc mơ và cơ hội trước khi bạn phán xét nó.”
- Khuyết danh -
Tôi luôn luôn cảm thấy kinh ngạc trước những ngôn từ và biết bao tầng ý nghĩa chúng hàm chứa. Ví dụ, nếu chúng ta nhìn vào từ “bất khả thi” (impossible), nó mang ý nghĩa tiêu cực. Nó có nghĩa là điều gì đó sẽ không bao giờ xảy ra. Nếu chúng ta nhìn vào những chữ cái này theo một góc độ khác, tạo ra một khoảng cách chữ và một dấu lược, từ này có thể biến đổi thành “I’m possible”, tức là tôi có thể, và mang ý nghĩa hoàn toàn ngược lại.
Cũng rất đơn giản để thay đổi tư duy của bạn từ “không” thành “có”. Hãy nhớ rằng, thành công đến từ những điều có thể, thất bại đến từ những điều không thể.
Không quan trọng là bạn chỉ có một giấc mơ nhỏ nhoi hay một giấc mơ chấn động thế giới, điên rồ và không thể tưởng tượng nổi – không có gì là bất khả thi, đó chỉ đơn giản là sự thiếu tập trung, thụ động và tự mặc định rằng điều bất khả thi tồn tại.
Nếu như “điều bất khả thi” thực sự tồn tại, chúng ta sẽ không có những con người như Albert Einstein, Neil Armstrong hoặc Barack Obama. Họ đều đã thực hiện được những điều mà từ hàng thập kỉ và hàng thế kỉ trước bị cho là bất khả thi.
Tuy nhiên, có những huyền thoại khác đang sống giữa chúng ta, họ chứng minh rằng bất khả thi chỉ là lời ngụy biện không chỉ một mà tới ba lần, người đã leo tới đỉnh vinh quang của ba sự nghiệp lừng lẫy nhất trong thế kỉ 21: vận động viên, diễn viên và chính trị gia. Ông đã làm được tất cả những điều ấy với tư cách là một diễn giả nói tiếng Anh không phải người bản xứ (có lẽ vì vậy ông ấy đã truyền cảm hứng rất nhiều cho tôi). Con người đó chính là Arnold Schwarzenegger.
Tôi vừa đọc cuốn sách gần đây của ông, Total Recall (tạm dịch: Hồi ký cuộc đời), và tôi phải nói rằng, nếu như bạn cần một thần tượng hay một người truyền cảm hứng với những tư tưởng vĩ đại, ông ấy chính là sự lựa chọn phù hợp. Ông là người đầy tham vọng phi thường, và đằng sau những tham vọng đó là những thành tựu đồ sộ. Có nhiều người không thích ông ấy bởi sự nghiệp chính trị của ông cũng phải thừa nhận rằng những thành tựu trong rèn luyện thể hình và diễn xuất của ông thật sự hoàn hảo. (Có thể là trừ một vài bộ phim rất tệ như là Jingle All The Way - Cuộc chiến Giáng sinh.) Nhưng sau tất cả, ông ấy là một ngôi sao lớn. Ông ấy là Giấc mơ Mỹ!
Khi tôi cảm thấy thực sự buồn bã và thất vọng, và mọi thứ dường như đều bất khả thi, tôi lấy cuốn sách đó ra khỏi giá sách, đọc một vài trang và giống như thủy thủ Popeye1 sau khi ăn rau chân vịt, tôi lại được nạp đầy năng lượng lạc quan và quay trở lại công việc.
1 Popeye, thủy thủ Popeye, lần đầu xuất hiện trong bộ truyện tranh Thimble Theatre phát hành năm 1929, đến năm 1933 được dựng phim hoạt hình ngắn chiếu rạp. Năm 2002, tạp chí TV Guide bình chọn Popeye đứng thứ 20 trong "50 nhân vật hoạt hình vĩ đại nhất mọi thời đại".
Nếu bạn không biết nhiều về quá khứ của Arnold, tôi xin phép tóm lược lại trong một vài dòng sau đây. Ông được sinh ra ở Áo, trong thế hệ những con người bắt đầu lớn lên và mất mát trong Chiến tranh thế giới thứ II. Cha mẹ ông, đặc biệt là cha ông, thấm nhuần tư tưởng về đạo đức lao động và lối sống kỉ luật cho ông. Phong cách của người Đức. Kỉ luật về cả tinh thần lẫn thể chất và các bài rèn luyện đã được áp dụng ngay từ khi Arnold và những người anh em ruột của ông còn nhỏ. Ông đã phải thực hiện các bài tập đứng lên - ngồi xuống trước khi được ăn sáng, làm việc nhà, và chơi bóng đá vào buổi chiều – rất nghiêm khắc. Ông và những người anh em của mình phải đến thăm những ngôi làng khác và đến xem các buổi biểu diễn rất thường xuyên, sau đó phải viết những bài tiểu luận dài nộp cho cha mình. Cha của ông phê bình và chỉnh sửa những bài tiểu luận này rất nghiêm. Nếu những đứa trẻ muốn một thứ gì, chúng phải làm việc để đạt được nó. Chính điều đó đã xây dựng trong Arnold một ý chí phấn đấu mạnh mẽ, ban đầu là để đạt được các thành tựu được cha mình đánh giá cao, và còn để chiến thắng nhiều hơn nữa trong cuộc đời ông sau này.
Ý tưởng về việc tạo sự cân bằng trong cơ thể và tâm trí chính là tham vọng lớn nhất của Schwarzenegger. “Bạn phải tạo nên một cơ thể khỏe mạnh nhất cùng với một tâm trí lành mạnh nhất”, ông nói trong cuốn sách của mình. “Hãy đọc Plato! Người Hy Lạp đã khởi xướng Thế Vận Hội, nhưng họ đồng thời cũng mang đến cho chúng ta nền triết học vĩ đại, và bạn phải quan tâm đến cả hai.”
Khi đọc một bài báo về Reg Park, nhà sáng lập Mr. Olympia (cuộc thi quốc tế cho các vận động viên thể hình nam chuyên nghiệp), Arnold đã xác định được con đường mình phải đi. Đó là con đường đến nước Mỹ và hành trình thỏa mãn tham vọng chinh phục thể hình. Ông đã vô tình đọc được bài báo đó, sau quá trình tìm kiếm các cơ hội không biết mệt mỏi. Cuối cùng, thì cơ hội cũng tìm đến ông. Giống như là tôi đã nói ở chương trước đó – trong hầu hết các trường hợp, cơ hội không đến với bạn dưới dạng một email đề nghị bạn làm giám đốc điều hành, mà là dưới hình thức một ý tưởng. Nếu bạn nắm bắt nó, với nỗ lực làm việc chăm chỉ, kiến thức, tài năng và may mắn, bạn có thể trở nên giống như Arnold. Tuy nhiên, để trở thành Arnold, bạn cũng phải đánh đổi cuộc đời mình cho bốn yếu tố trên. Bạn phải sống trọn vẹn với chúng.
Nếu bạn cảm thấy bạn sở hữu một ý tưởng có thể thay đổi cuộc đời mình và nó thật sự có ý nghĩa, thì hãy thực hiện nó đi! Đừng lo sợ rằng ý tưởng đó là kì quặc hay e ngại nó sẽ tạo ra một cuộc cách mạng thay đổi mọi thứ.
Cũng đừng e sợ phải thử nghiệm điều gì đó mới mẻ.
“Hãy nhớ rằng, kẻ nghiệp dư đóng một con tàu gỗ. Các thợ chuyên nghiệp thì tạo nên con tàu Titanic.”
- Khuyết danh -
Đừng thu nhỏ giấc mơ! Trong thực tế, nhắm đến những mục tiêu lớn hơn lại có ít rủi ro hơn là những mực tiêu tầm thường. Có rất nhiều sự cạnh tranh lớn hơn ở khu vực ở giữa. Tim Ferriss nói trong cuốn sách The 4-Hour Workweek rằng làm những việc không thực tế còn dễ dàng hơn là làm những việc thực tế. Trên đỉnh cao danh vọng vẫn còn nhiều chỗ trống dành cho bạn.
Bạn có cho rằng mình không thể đạt được những điều vĩ đại? Có tới 99% mọi người trên thế giới nghĩ như vậy. Cho nên những người nhắm đến mục tiêu bình thường lại phải tham gia vào cuộc cạnh tranh ở mức độ khốc liệt nhất. Bạn đặt mục tiêu lớn, bạn được cung cấp một liều adrenaline tức thì1 cần thiết cho sự kiên trì để đạt được mục tiêu ấy. Những mục tiêu thông thường, nói theo cách khác, không gây kích thích. Chúng không giúp bạn có đủ năng lượng nhiều như những mục tiêu vĩ đại, cho nên không sớm thì muộn bạn cũng sẽ từ bỏ nó.
1 Một loại hormone có tác dụng trên thần kinh giao cảm, được cơ thể sản sinh ra khi bạn sợ hãi, tức giận hay thích thú, làm cho nhịp tim của bạn đập nhanh hơn.
“Đừng tìm nơi lao xao. Hãy đến nơi vắng vẻ. Dù có khó khăn đến đâu, đó cũng là nơi bạn thuộc về mà không cần phải bon chen với đời.”
- Arnold Schwarzenegger -
Arnold đã có một tầm nhìn rất rõ ràng ngay trước mắt mình. Ông biết rõ mình muốn trở thành Mr. Olympia, ông biết mình muốn chuyển đến Mỹ, California. Ông cũng biết rõ mình sẽ phá kỉ lục nâng tạ. Tầm nhìn của ông rõ ràng đến mức ông có thể cảm nhận được nó sẽ xảy ra. Ông không có Phương án B, không có phương án thay thế; ông phải như thế hoặc là không gì hết.
Bản thân tôi cũng khá mâu thuẫn khi phải dùng đến Phương án B. Một mặt, tôi thấy rằng đó là một cứu cánh an toàn, nếu như Phương án A không khả thi, thế giới này không sụp đổ bởi vì bạn vẫn còn có Phương án B, và C. Thay vì rơi vào thất vọng, bạn chỉ cần chọn phương án dự phòng. Điều này không có nghĩa là cách tiếp cận theo chiều hướng khác của Phương án B thì không hiệu quả như phương án A. Cụ thể là, nếu bạn không hề dự trù Phương án B, giống như Arnold, mà tập trung toàn bộ những gì mình có thể, tất cả năng lượng, thời gian, trí tuệ, tinh thần cho mục tiêu số một của mình, thì cơ hội thất bại cũng thấp hơn, bởi vì đây là cuộc chơi một mất một còn của bạn. Nếu bạn có nhiều lựa chọn hơn, đồng nghĩa bạn sẽ sử dụng Phương án A chỉ với một nửa sức của mình, thì khả năng thất bại lại dễ xảy ra hơn.
Theo quan điểm của tôi, có nhiều kế hoạch khác nhau giống như việc cho mình những “phép thử”. Bạn cứ thực hiện nó, không có áp lực nào cả. Nó có thể thành công, nhưng cũng vì bạn chỉ thử sức mà thôi, nên cũng có thể thất bại.
Tại sao lại phải chịu đựng nỗi đau thất bại nếu như không xảy ra hậu quả gì to tát chứ? Điều này cũng không có nghĩa là chỉ có duy nhất một kế hoạch thì tốt hơn. Nó còn phụ thuộc vào tính cách của bạn nữa.
Nếu như bạn thích một cuộc sống dễ dự đoán, một môi trường ổn định, hướng tới sự bình yên và không có nhiều kịch tính, vậy quá hoàn hảo. Trong trường hợp này, bạn nên có cả một loạt các phương án đặt tên theo cả bảng chữ cái. Nó sẽ cho bạn sự an toàn, những lựa chọn, và tất nhiên là cả thành công trong tầm tay – bởi thực tế là, chắc chắn một trong số những phương án đó sẽ thành công.
Tuy nhiên, nếu như bạn thuộc tuýp người năng động quyết đoán, giàu tham vọng với những ước mơ lớn, ham muốn chứng tỏ bản thân và chỉ có một mục tiêu duy nhất, mục tiêu mơ ước chiếm trọn sự tập trung của bạn, Định luật Parkinson cũng có thể áp dụng được ở đây. Bạn càng có ít sự lựa chọn, bạn càng dễ tập trung vào cái mình đã lựa chọn. Có lẽ bạn sẽ không thể hạnh phúc và hài lòng với bất cứ điều gì ngoại trừ Phương án A. Hãy thực hiện nó, dành tất cả cho nó. Bạn không phải đến để cạnh tranh, mà đến để giành chiến thắng! Hãy nói với bản thân, “Tôi xứng đáng với danh hiệu đó, tôi giành được nó, đến biển cả cũng rẽ đôi ra để tôi bước tới. Đừng cản bước, tôi đang hoàn thành sứ mệnh của mình. Hãy tránh sang một bên và trao cho tôi chiếc cúp chiến thắng.”
“Việc bạn là ai không phải nguyên nhân kéo lùi bạn, mà chính là người bạn nghĩ rằng mình sẽ không thể trở thành được. Nên hãy bắt đầu học cách tin tưởng vào chính bản thân mình!”
- Khuyết danh -
Điều quan trọng nhất mà Arnold, Tony Robbins, Brian Tracy, và những ngôi sao hàng đầu khác nhấn mạnh là hãy viết ra những mục tiêu.
Đầu tiên, viết ra những ý tưởng của bạn lên giấy. Nhưng đó mới chỉ là một nửa công việc thôi. Khi bạn có một ý tưởng về điều bạn muốn, hãy làm cho những ý tưởng này trở nên thật cụ thể. Theo cách này, chúng sẽ trở thành “máu thịt” của bạn, hầu hết là những mục tiêu có thể đạt được, chứ không phải những ý nghĩ vu vơ trong đầu. Nếu bạn làm điều này và biết rõ cái gì, khi nào, thế nào, ở đâu và với ai, bạn sẽ không phải loay hoay với câu hỏi làm thế nào để thực hiện. Bạn có sẵn một con đường để đi rồi.
Hãy hình dung nó giống như Google Maps. Giờ bạn mở ứng dụng đó lên. Bản đồ hiển thị những con đường màu xám. Đích đến của bạn ở đâu đó. Có thể bạn sẽ tìm nó bằng cách nhìn vào những con đường màu xám giống nhau ấy, rồi đoán xem đâu là con đường đúng. Có thể bạn sẽ bỏ lỡ một khúc cua, bạn đi vào đường một chiều, bạn phải quay trở lại, bạn lạc lối và có thể không bao giờ tìm được đích đến của mình nữa. Tuy nhiên, nếu bạn viết rõ địa chỉ đích đến của mình vào Google Maps, nó sẽ dẫn bạn đi con đường ngắn và nhanh nhất, nó sẽ hiển thị một màu xanh dương để dẫn bạn đi. Đó là sự khác biệt lớn giữa việc có những mục tiêu rõ ràng và mơ hồ.
Điều tồi tệ nhất bạn có thể làm…
Nếu bạn muốn đánh bại những điều bất khả thi, có một thói quen bạn nên từ bỏ thật nhanh. Đó là sự lo lắng.
“Nếu bạn không thể ngừng lo lắng, hãy nhớ rằng lo lắng cũng không giúp ích gì cho bạn. Hôm nay sẽ trở thành ngày mai của nỗi lo về ngày hôm qua. Bạn lo lắng rằng mình sẽ chết ư, kể cả khi bạn lo lắng thì rồi bạn cũng chết trong một ngày nào đó, vậy tại sao phải lo lắng?”
- Khuyết danh -
Trong hầu hết thời gian, khi bạn bước từng bước để đấu tranh với những điều bất khả thi, bạn sẽ gặp phải những chướng ngại vật. Đó có thể là bạn bè hoặc gia đình của bạn, họ sẽ hỏi bạn những câu về độ tỉnh táo hay sự nghiêm túc của bạn khi có ý định thực hiện ý tưởng. “Cậu có thực sự chắc chắn về điều này không đấy? Thật điên rồ. Tôi sẽ không bao giờ làm điều này đâu. Điều đó là không thể.” Đó không phải là lỗi của họ, họ có ý tốt. Những người không bao giờ dám đối diện với những thử thách lớn trong cuộc đời sẽ không thể hiểu được mục tiêu của bạn. Tất cả những vấn đề và trở ngại là những gì họ có thể nhìn thấy: “Liệu có gì đó không ổn thì sao?”
Trong cuốn sách Total Recall, Arnold chia sẻ một vài câu chuyện cá nhân. Có những người, không chỉ hoài nghi và lo lắng, còn muốn thuyết phục rằng ông không nên tiến hành những gì ông dự định làm. Cách ông phản ứng trước những điều này cũng rất đáng học hỏi. Ông nói với những người này rằng ông không hề quan tâm đến những bất ổn trong kế hoạch của mình. Ông chỉ muốn đi ngay lập tức vào vấn đề rồi suy nghĩ tìm giải pháp, không phải vào lúc mà vấn đề thậm chí còn chưa xuất hiện.
Thật ra rất dễ để quyết định khi bạn không biết gì nhiều về các vấn đề của nó. Lờ đi những vấn đề tiêu cực cũng là một hạnh phúc bởi vì bạn không phải suy nghĩ quá nhiều về nó. Nếu như bạn có quá nhiều thông tin về những trở ngại và mối nguy hiểm có thể xảy ra, bạn có thể không thực hiện điều ấy nữa. “Biết quá nhiều cũng không hẳn tốt,” ông nói. Ông ấy kể lại một giáo viên môn kinh tế học tại trường đại học, người có hai bằng tiến sĩ và có lẽ là biết tất tần tật về kinh tế, thì hiện tại vẫn chỉ lái một chiếc Volkswagen Beetle mà thôi.
Có rất nhiều cơ hội lớn hơn để thành công nếu bạn tập trung vào những gì bạn muốn và đương đầu với các thử thách khi chúng thực sự xảy ra. Những điều tiêu cực sẽ làm bạn xuống tinh thần tới mức mà bạn chẳng còn muốn làm bất kể điều gì nữa. Điều tệ nhất có thể xảy ra khi bạn phải đối mặt với một vấn đề là gì? Đó là thất bại. Tuy nhiên, tôi đảm bảo bạn sẽ không thất bại, với điều kiện là bạn không thử làm gì hết.
“Đừng lo lắng về tương lai. Hoặc nếu có lo lắng thì hãy nhớ rằng nó cũng chẳng có tác dụng gì, vì việc đó cũng giống như là bạn đang cố gắng giải một phương trình đại số bằng cách nhai kẹo cao su vậy.”
- Baz Luhrman -
Bài thực hành cho chương này
1. Hôm nay tôi xác định được ba điều mà lúc đầu tôi đã tưởng là bất khả thi nhưng tôi lại muốn có/cảm nhận/đạt được:
...........................................................................
...........................................................................
2. Hôm nay, tôi viết ra ba mục tiêu mà tôi muốn đạt được:
...........................................................................
...........................................................................
3. Các mục tiêu này cụ thể là:
Tôi muốn đạt được điều gì, khi nào tôi muốn đạt được điều đó, tôi muốn đạt được điều đó ở đâu, tại sao tôi lại muốn đạt được điều đó, tôi muốn chia sẻ điều đó với ai?...
Tư Duy Phản Biện - Chương 04
LỜI PHÊ BÌNH KHÔN KHÉO
“Trước khi bạn định chê bai một ai, hãy nhớ xỏ chân mình vào đôi giày của họ rồi chạy đi một dặm. Theo cách đó, bạn vừa tránh xa được nó một dặm lại vừa lấy luôn được đôi giày.”1
1 Đây là cách nói chơi chữ và hài hước, trong tiếng Anh, xỏ chân vào giày của ai và đi một dặm còn có nghĩa là đặt mình vào hoàn cảnh của người đó để thấu hiểu họ.
- Khuyết danh -
Tôi thấy câu trích dẫn này thật sự hài hước và đáng để chia sẻ với tư cách là câu giới thiệu cho chương này. Nó thích hợp để làm dịu bớt sự căng thẳng của chủ đề này. Không nghi ngờ gì nữa, nỗi sợ hãi bị phán xét là một trong những nguyên nhân chính khiến mọi người không dám khám phá những tiềm năng rộng lớn của bản thân mình. “Liệu tôi sai thì sao? Liệu ai đó sẽ chỉ ra rằng tôi đã sai? Liệu ai đó giỏi hơn tôi thì sao? Liệu tôi có bị mọi người cười nhạo?” Và những ý nghĩ tương tự.
Nỗi sợ bị phán xét và sự phán xét nhìn chung là một trong những yếu tố chính giải thích lý do tại sao mọi người lại kìm nén những khả năng của bản thân. Có một thiên tài được giấu kín ở bên trong, nhưng lại không được phát huy để không bị biến thành trò cười. Tôi nhận thấy rằng, việc hiểu được tâm lý phán xét này đến từ đâu và làm sao để kiểm soát nó rất quan trọng và nên được thảo luận ở đây.
Cuộc sống thường nhật của chúng ta bị ảnh hưởng nhiều bởi nỗi ám ảnh về việc người khác nghĩ thế nào. Ngược lại, chúng ta cũng có xu hướng phán xét người khác. Nó giống như một vòng tròn phán xét không có hồi kết. Đôi khi chúng ta không thực sự cố ý phán xét ai đó. Chúng ta không có ý định làm tổn thương ai, chúng ta chỉ đơn giản nghĩ rằng mình hiểu biết nhiều hơn - giác quan thứ sáu, trực giác mách bảo vậy. Khả năng suy nghĩ và phán xét khiến chúng ta trở thành đặc biệt nhất trong tất cả các sinh vật trên hành tinh này.
Vấn đề là trong hầu hết thời gian, sự tự tin mù quáng của chúng ta vào trực giác cá nhân lớn hơn rất nhiều so với khả năng thực sự của nó. Một vài phán xét của chúng ta thì lại thiếu chính xác. Cách tiếp cận một vấn đề chỉ dựa vào hiểu biết cá nhân mà thiếu sự khiêm tốn đối với hiểu biết của người khác có thể thay đổi hoàn toàn tính chất sự việc.
“Người biết tất cả các câu trả lời thì thường không hiểu gì về câu hỏi.”
- Nancy Willard -
Những thông tin trong chương này không nhằm hạ thấp giá trị của bạn hay khiến bạn mất hoàn toàn sự tự tin vào những phê bình của mình. Trong một số trường hợp, bạn có thể tin tưởng trọn vẹn vào trực giác của mình mà không giải thích được là tại sao. Những lý thuyết và các bài thực hành sau, giống như một bệ đỡ, sẽ giúp bạn hiểu và tránh được những sai lầm trong việc phê bình người khác.
Làm sao để chúng ta phê bình chính xác hơn và hiểu đúng về sự phê bình?
Nicholas Epley, trong cuốn sách, Mindwise: How We Understand What Others Think, Believe, Feel, and Want (tạm dịch: Tư duy thông thái: Làm sao để hiểu được những gì người khác suy nghĩ, tin tưởng, cảm nhận và mong muốn), nói về việc làm sao để hiểu rõ về suy nghĩ của người khác hơn bằng cách thấu hiểu nhiều hơn.
Hãy nghĩ đến một tình huống khi bạn không có đủ thông tin thực tế và kiến thức, nhưng bạn buộc phải chọn một thời điểm nào đó trong một chủ đề nhất định. Bạn xây dựng một câu chuyện dựa trên những kiến thức của mình và đưa ra kèm theo những phê bình. Có thể bạn đang xem một bộ phim. Khi bộ phim đã chiếu được một nửa thì có ai đó đến tắt nó đi và yêu cầu bạn dự đoán phần kết phim. Xin đừng lấy bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Nicholas Sparks ra làm ví dụ ở đây, vì bạn có thể dự đoán được kết phim chỉ sau năm phút đầu tiên. Dựa vào những gì bạn xem từ đầu đến thời điểm bị ngắt quãng, bạn đã xây dựng nên kịch bản kết thúc của bộ phim.
Trong cuộc đời thực, chúng ta cũng làm tương tự như vậy với mọi người. Chúng ta biết một vài điều về họ dựa trên những kinh nghiệm cá nhân của chính mình hoặc những gì người khác kể lại. Dựa vào những mẩu thông tin mơ hồ đó, chúng ta cố gắng đọc được suy nghĩ của người khác để giải thích tại sao họ lại hành động như vậy, tất nhiên, để tuyên án họ trong phán quyết của bạn. Chúng ta có thể hoàn toàn sai về họ. Chúng ta đâu có nhìn được bức tranh tổng thể.
Có lẽ, trong ví dụ về bộ phim, chúng ta ngừng xem giữa chừng, và trong năm phút tiếp theo lại có diễn biến quan trọng được khám phá và làm thay đổi toàn bộ quan điểm về một người nào đó, giống như trong Harry Potter. Tất cả chúng ta đều ghét giáo sư Snape vì đối xử tệ với Harry. Chúng ta không ngừng ghét ông ta cho đến tận tập cuối cùng. Tôi không có ý định tiết lộ lý do cho những ai không phải là người hâm mộ say mê bộ truyện về cậu bé Potter giống như tôi đâu.
Chúng ta sống trong một “thực tế ngây thơ”, Eplay nói. Trực giác mách bảo chúng ta nhìn nhận về thế giới là đúng như nó vẫn vậy. Chúng ta có thể hiểu sai về thế giới xung quanh vì nó chỉ xuất phát từ quan điểm cá nhân. Bộ não của những ảo giác khiến chúng ta tin vào những gì chúng ta nhìn nhận thế giới là đúng sự thật. Đồng thời, chúng ta cũng kết luận rằng cách nhìn của những người xung quanh là khác với mình. Điều này dẫn chúng ta đến một phán quyết chắc chắn rằng phải có một người ở đây đã sai (hoặc là thiên vị, thiếu hiểu biết, bất hợp lý, hoặc ngốc nghếch). Chúng ta không hiểu về bộ não của mình như vẫn lầm tưởng và điều đó khiến chúng ta cho rằng trí tuệ của mình vượt trội hơn người khác.
Bạn có một xu hướng thường thấy là cho rằng trí tuệ của người khác kém tinh tế hơn của bạn. “Chỉ khi đích thân tôi nhúng tay vào thì mọi thứ mới tốt đẹp hơn được” là một kiểu suy nghĩ như vậy.
Tuy nhiên, các phán xét và suy đoán này có chính xác hơn không nếu bạn được trang bị nhiều kiến thức hơn?
Daniel Kahneman, tác giả của cuốn sách Thinking Fast and Slow (tạm dịch: Tư duy nhanh và chậm), đã chứng minh qua nghiên cứu của mình rằng, những người thường được coi là chuyên gia trong một số lĩnh vực nhất định lại tỏ ra nghèo khả năng phán đoán và thường không đáng tin cậy bằng những người có ít thông tin nhất. Tại sao? Đó là tại vì những người có quá nhiều kiến thức cũng đồng thời ảo tưởng khá lớn về kĩ năng của mình. Giống như là Nicholas Epsey đã chỉ ra, họ trở nên tự tin thái quá vào trí thông minh ưu việt của mình.
Khi nào thì sự phê bình phản ánh đúng hiểu biết thực tế?
Kahneman kết luận rằng những kiến thức tầm thường và nông cạn về một tình huống có vẻ dễ đoán, hay kể cả những kiến thức chuyên sâu về một tình huống khó lường thì đều không đáng tin cậy. Những hiểu biết uyên bác, những kinh nghiệm thực tế dày dặn có được trong những tình huống ổn định, nơi mà đã có những quy luật nhất định có thể coi là đúng đắn. Khi bạn tranh luận dựa vào trực giác của một ai đó (hoặc của chính bạn), đầu tiên hãy nhớ cân nhắc liệu có một cơ hội nào để học hỏi và tìm kiếm đủ thông tin về chủ đề đó chưa – thậm chí là trong một tình huống thông thường.
Đây là lí do tại sao tôi không bao giờ tin tưởng vào các nhà khí tượng học 100%. Họ có rất nhiều kiến thức về các điều kiện thời tiết và dự báo nhiều hơn tôi, chắc chắn, nhưng thế giới tự nhiên thay đổi nhanh đến mức dường như không thể dự báo thời tiết luôn chính xác được. Khi tôi nhìn thấy bên ngoài trời u ám, tôi mang dự phòng một chiếc áo mưa loại nhỏ trong túi của mình. Nhưng theo một cách khác, tôi sẽ không bao giờ dám tự dự báo, cho nên tôi vẫn phải dựa vào dự báo thời tiết nhiều hơn. Nếu tôi thấy báo rằng ngoài trời sẽ là 15oC, có thể hơi lạnh, tôi sẽ mang theo một chiếc áo khoác.
Điều này dẫn chúng ta tới một câu hỏi khác về độ đáng tin cậy trong chính những đánh giá khách quan của chúng ta, rằng thông tin sẽ được truyền tải thế nào. Ví dụ, nếu dự báo thời tiết nói nhiệt độ sẽ là 15 độ và trời lạnh thì tôi sẽ mặc áo khoác. Tuy nhiên, nếu như họ nói rằng nhiệt độ là 15 độ, thời tiết đẹp và ấm áp, thì tôi có thể mặc quần áo cộc đi ra ngoài. Thay vào đó, nếu tôi chuẩn bị tinh thần từ trước là trời lạnh, tôi sẽ cảm thấy lạnh. Còn nếu tôi mong rằng trời ấm áp, tôi cũng sẽ cảm thấy ấm áp. Một lần nữa, chúng ta đang nói về cùng một nền nhiệt độ.
Tại sao tôi lại trải nghiệm cả hai cảm giác lạnh lẽo và ấm áp dựa vào những thông tin mà tôi có? Đó là vì những kí ức có liên kết của tôi rơi vào một trạng thái thiên vị trong tiềm thức. Nói theo cách khác, tôi đã tin tưởng một điều gì đó là đúng, thì tôi sẽ tập trung vào những sự kiện để xác nhận niềm tin của mình. Ví dụ, tôi tin rằng ngoài trời ấm áp thì tôi sẽ tập trung vào mặt trời, những con côn trùng bay xung quanh tôi, vào việc tôi thấy dễ chịu thế nào khi tìm được chút bóng râm, vào việc mọi người mặc những bộ quần áo mỏng, v.v… Nếu tôi tin rằng ngoài trời lạnh lẽo thì tôi sẽ chú ý tới cơn gió, bóng râm trở nên không dễ chịu, tôi nhìn vào những người mặc quần áo dày, và bối rối khi nhìn những người đang mặc quần áo cộc.
Điều tương tự xảy ra khi ai đó hỏi chúng ta một câu kiểu như “Quán này ăn có ngon không đấy?” Vì một vài lý do khác nhau, điều sẽ nảy lên trong đầu bạn sẽ liên quan đến chất lượng phục vụ hơn là câu hỏi “Quán này ăn có tệ không?” Đầu óc của chúng ta bắt đầu tìm kiếm để xác nhận các bằng chứng, hơn là cố gắng để bác bỏ. Chúng ta sẽ tìm kiếm những dữ liệu thích hợp với niềm tin mà hiện chúng ta đang giữ. Kể cả khi chúng ta không có đủ thông tin cần thiết để đưa ra một ý kiến đúng đắn thì đầu óc của chúng ta cũng sẽ vội vàng đi đến kết luận mà không cần hỏi lại:
“Tôi có cần biết thêm gì trước khi đưa ra ý kiến về chất lượng của nhà hàng này không?”
Việc đặt ra những câu hỏi như vậy thường không xảy ra mà không có sự nhận thức và tập trung, đặc biệt là nếu chúng ta không để ý tới chức năng của não bộ. Mục đích của chương này là để nâng cao nhận thức về việc thừa nhận rằng mình từ trước đến nay vẫn thiên vị, khiến cho bạn phải suy nghĩ về điều đó, khi bạn đứng trước một quyết định quan trọng, bạn sẽ có khả năng để tự hỏi bản thân mình thay vì vội vàng đưa ra những quyết định bản năng.
Thông điệp chủ đạo của cuốn sách Thinking Fast And Slow là chúng ta có hai chiều suy nghĩ. Một là sự trực giác, cảm tính, vô thức, tư duy tự động (Hệ thống 1), và một chiều có chủ ý, hợp lý, có ý thức và tư duy lý tính (Hệ thống 2). Do đó, những suy nghĩ nhanh gọn thuộc vào Hệ thống 1, suy nghĩ chậm thuộc Hệ thống 2, theo cách mà Kahneman gọi. Hệ thống 1 đưa ra những câu trả lời có phần bộc phát và Hệ thống 2 chịu trách nhiệm phản biện những câu trả lời của Hệ thống 1. Tuy nhiên, Hệ thống 2 sẽ trở nên chây ì và không thực tiễn khi bạn gặp phải tình huống phải ra quyết định thật nhanh.
Chúng ta hiếm khi suy nghĩ về mức độ của Hệ thống 2 bởi vì suy nghĩ theo trực giác thường sẽ nhanh hơn, và như tôi đã nói ở trên, chúng ta tin tưởng vào trực giác của mình. Chúng ta hiếm khi cảm thấy bí khi phải trả lời một câu hỏi. Thay vì tự hỏi về kiến thức và tính đúng đắn của vấn đề đó, chúng ta cảm tính đưa ra quan điểm về hầu hết tất cả mọi thứ.
Đối với một vài phạm vi thì điều này là bình thường. Tất nhiên, không thể lúc nào cũng đặt câu hỏi về từng quyết định hay phán xét chúng ta đưa ra mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây. Tuy thế, chúng ta càng siêng năng áp dụng Hệ thống tư duy số 2 vào cuộc sống của mình, chúng ta sẽ càng đưa ra các phê bình chính xác hơn, hoặc chúng ta càng nghiêm túc nhìn nhận sự việc thì sự đánh giá càng khách quan hơn.
Tuy nhiên, có một điểm yếu liên quan các câu hỏi phức tạp khi áp dụng Hệ thống số 2. Xuất hiện một cái bẫy, nếu tôi có thể gọi như vậy, mà chúng ta rất dễ mắc vào nếu không đủ tỉnh táo. Khi chúng ta đặt ra những câu hỏi phức tạp, chúng ta có xu hướng tìm một câu trả lời đơn giản hơn. Bộ não của chúng ta có cơ chế tự thay thế trong tiềm thức. Ví dụ, thay vì trả lời câu hỏi khó khăn ban đầu đó, “Tôi nghĩ thế nào về điều này?” chúng ta chuyển thành “Tôi cảm thấy thế nào về điều này?”
Đây là giải pháp sau cùng của lối tư duy theo Hệ thống 1 để đi đến câu trả lời nhanh gọn. Nhưng câu trả lời này không đúng với câu hỏi ban đầu.
Điều này nhắc nhở tôi nhớ lại những năm trung học của mình khi phải tham gia thi vấn đáp rất nhiều môn học khác nhau. Một lần tôi phải trả lời về các thành bang Hy Lạp nhưng lại không biết gì về chúng trừ một việc duy nhất là chỉ ra trên bản đồ, “Đây là Sparta!” Thay vì trả lời câu hỏi, và sau khi đưa ra những dữ liệu chung chung, tôi bắt đầu nói về việc các thành bang Hy Lạp gợi nhắc đến những thành phố tương tự ở Đế quốc La Mã, và dần dần tôi nói về đế quốc La Mã. Tôi biết rất nhiều về chủ đề này. Ví dụ trên minh họa rất rõ ràng cho thấy sự khác nhau giữa câu trả lời thực sự và câu trả lời tương tự nhưng lại không liên quan đến chủ đề được hỏi. Hãy nhớ rằng, lảng tránh việc trả lời câu hỏi thực sự giống như việc nói về Julius Caesar1 trong khi phải đáng ra phải là Leonidas2.
1 Julius Caesar là lãnh tụ quân sự và chính trị của La Mã cổ đại. Ông đóng một vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
2 Leonidas là vua của người Sparta (một thành bang Hy Lạp) nổi danh lịch sử với vai trò lãnh đạo Liên minh Hy Lạp chống lại quân xâm lược Ba Tư hùng mạnh.
Vấn đề về định kiến con người
Cách thường thấy và dễ dàng nhất để nhanh chóng đưa ra đánh giá là dựa trên những định kiến về con người. Dù cho chúng đáng phải cân nhắc thận trọng, nhưng vì quan điểm "không có lửa làm sao có khói", và dù sự thật có rành rành thì chúng vẫn không được nhìn nhận đúng đắn. Các định kiến này đôi khi dựa vào những thông tin và định nghĩa rất ít ỏi trong các nhóm khác nhau mà không hề xem xét về tính tương đồng. Các định kiến về phân biệt thường thiếu đi việc quan sát các nguyên nhân thực tế. Một dạng mất cân bằng tự nhiên khác về các định kiến con người đó là các nhóm đa số có những đặc điểm chính xác hơn là các nhóm thiểu số. Lý do đơn giản là ở nhóm đa số có nhiều bằng chứng quan sát được hơn so với nhóm thiểu số.
Nói thật đi, bạn có thường xuyên phán xét một ai đó về giới tính, chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quốc tịch của người đó không, hay thậm chí cả trường học cũng căn cứ vào những định kiến liên quan để đánh giá họ? Hay bạn không thường xuyên phán xét như vậy?
Hãy lấy một ví dụ về định kiến thường gặp là phụ nữ thì giàu cảm xúc hơn nam giới. Bây giờ hãy thử tưởng tượng một người đàn ông và một phụ nữ cùng xem bộ phim The Notebook, hoặc là Ps I love you (hay bất cứ bộ phim tình cảm lãng mạn nào). Họ đều có chung một phản ứng về xúc cảm bên trong giống nhau. Điểm khác biệt chỉ là cách họ thể hiện ra những xúc cảm đó. Phụ nữ khóc, còn đàn ông thì ngồi với một khuôn mặt đăm chiêu không biểu lộ cảm xúc. Không phải đàn ông thì có ít cảm xúc hơn. Mọi người vẫn thường kết luận rằng phụ nữ có nhiều xúc cảm hơn đơn giản chỉ bởi vì điều đó dễ thấy ngay trước mắt. Những người viết các bài về các chủ đề giới tính đều tập trung vào sự khác biệt hơn là sự tương đồng, khiến cho những định kiến giữa hai giới càng trở nên sâu sắc hơn.
Suy nghĩ và nói về định kiến cũng bắt nguồn từ việc thừa nhận sự thiên vị. Ý kiến phụ thuộc vào cách chúng ta tiếp cận một vấn đề. Nếu như chúng ta so sánh bản thân mình với một nhóm được định nghĩa bởi những sự khác biệt, thì chúng ta thường tưởng rằng mình có ít điểm chung với họ hơn so với thực tế. Còn nếu chúng ta tập trung vào những điểm tương đồng, chúng ta sẽ sở trên thân thiện hơn, ít chỉ trích và xấu tính hơn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những sự khác biệt thực sự giữa các nhóm và giữa những con người. Điều này rất đỗi tự nhiên. Và việc lờ đi những sự khác biệt thực sự này thì cũng tệ như là việc thổi phồng nó lên.
Khi chúng ta nói về một kiểu người nào đó, hầu như chúng ta đều nghĩ đến những con người tiêu cực. Đừng quên rằng những kiểu người được đánh giá là tích cực cũng có thể trở nên nguy hiểm. Những nhóm người hay bị phân biệt chủng tộc trong đó có người Mỹ gốc Phi, họ rất giỏi về thể thao, và người châu Á thì lại giỏi toán. Ngay cả những mẫu người được cho là giỏi giang ấy cũng có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến việc những người khác nhìn nhận họ bởi lòng ghen tị, đố kị và chống đối tiêu cực.
Định kiến về con người nhìn chung là nguy hiểm, bởi lẽ chúng cho phép mọi người tự mặc định rằng tất cả những ai ở trong một nhóm nào đó thì đều giống hệt nhau. Người Latinh bị cho là thiếu trung thực, lừa đảo và thường liên hệ với nhóm người thiểu số Digan. Tôi thường xuyên trải nghiệm sự kì thị do những định kiến tiêu cực về những nhóm người này. Ngay cả khi tôi vẫn tự động viên rằng mình may mắn khi bị gán những nhãn tiêu cực ấy, thì họ vẫn cảm thấy đầy bất công và đau đớn.
Chúng ta nên giới hạn những phán xét của mình trong khuôn khổ một cá nhân – dù là phê bình tích cực hay tiêu cực. Đối với một nhóm người, chúng ta cũng nên làm như vậy. Họ không phải là mối đe dọa đối với chúng ta. Gần đây hình ảnh những người Hồi giáo xuất hiện nổi bật trên phương tiện truyền thông như là biểu tượng của khủng bố, là những người xấu xa và nguy hiểm. Những định kiến tệ hại cũng được xây dựng theo xung quanh họ. Tuy nhiên, khủng bố và người Hồi giáo không phải là một. Để nhấn mạnh quan điểm này, tôi xin đưa ra một ví dụ rất thực tế, sau đây là những lời của Tổng thống George W.Bush. Sau sự kiện ngày 11 tháng Chín, ông đã nói: “Những hành động bạo lực chống lại những người dân vô tội đã xâm phạm nghiêm trọng đến các nguyên tắc cơ bản trong đức tin của người Hồi giáo. Và những người anh em của tôi, những người Mỹ phải hiểu được điều rất quan trọng này. (…) Mang bộ mặt của một tên khủng bố trái với đức tin nguyên bản của Đạo Hồi. Đạo Hồi không phải là như vậy. Đạo Hồi là hòa bình. Những kẻ khủng bố không đại diện cho hòa bình.”
Bài thực hành cho chương này
1. Hôm nay tôi đã biết được một câu chuyện về một điều mà tôi đã từng biết rất ít về nó. Tôi thậm chí còn định kiến với nó. Tôi nên tự hỏi bản thân mình điều gì trước khi đưa ra kết luận?
...........................................................................
...........................................................................
...........................................................................
...........................................................................
2. Dựa vào lý thuyết của Kahneman, đâu là những nơi mà tôi có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong một điều kiện bình thường để đưa ra những phán đoán theo trực giác hay phê bình chính xác?
...........................................................................
...........................................................................
...........................................................................
...........................................................................
3. Hôm nay tôi đã phán xét một ai đó dựa trên những định kiến và khuôn mẫu. Bây giờ tôi dành thời gian để phân tích xem tại sao tôi lại đánh giá dựa vào những điều đó. Liệu tôi có đúng không? Nếu tôi không thể xác nhận những phán xét của mình là đúng, vậy liệu những đánh giá đó có công bằng không? Tôi có thể làm gì để tránh việc làm tổn thương người khác vào lần sau?
...........................................................................
...........................................................................