Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 3 - Chương 4

CHƯƠNG 4

PHONG THỦY THÀNH NAM KINH

MỘNG QUÂN SƯ GIA CÁT CỦA LƯU TÒNG VÂN

Canh tư, ngoài song gió rít, lá cây xào xạc.

Trong thung lũng thấp thoáng một đại đội người ngựa đông nghịt, áng chừng có đến mấy trăm người đang chầm chậm tiến về nơi bọn Tổ Gia trú ngụ.

Tiểu Lục Tử phụ trách cảnh giới đang cùng mấy anh em thay nhau đi tuần, bỗng thấy thoảng trong gió có tiếng động khác lạ, dường như có thứ gì đó đang đến, Tiểu Lục Tử nhảy lên một cái cây to, phóng tầm mắt ra xa, giật mình thốt lên: “Ôi trời!”

Tiểu Lục Tử vội vàng nhảy phắt xuống, chạy đến chỗ Tổ Gia: “Sư phụ, hỏng rồi, một đội người ngựa không biết là phe nào đang đi về phía chúng ta!”

Tổ Gia vừa chợp mắt, nghe vậy lập tức tỉnh ngủ: “Gọi các anh em dậy, chuẩn bị vũ khí, lên đạn sẵn sàng.”

“Vâng.”

Tổ Gia bước ra ngoài, nấp sau một cái cây lặng lẽ quan sát, thầm nghĩ: nhiều người như vậy, lẽ nào bọn Nhật đã đánh đến đây? Không đúng, không thấy tiếng súng nổ, cũng chẳng thấy Quốc quân rút lui. Đang suy nghĩ đối sách, Tiểu Lục Tử chạy tới đập vai Tổ Gia nói: “Sư phụ, hãy nhìn sau lưng mà xem!”

Tổ Gia quay người lại, kinh ngạc khi thấy dưới núi cũng có mấy trăm người đi lên, bị bao vây rồi!

Mấy chục anh em đều bật dậy, tay lăm lăm súng, sẵn sàng đợi lệnh của Tổ Gia.

“Lẽ nào lại là Tân Tứ quân?” Tổ Gia tự hỏi, đoạn quay ra nói với Tiểu Lục Tử: “Hãy tiến sát lên, hô to một tiếng. Hiểu không?”

Tiểu Lục Tử gật đầu.

Tổ Gia vỗ vai cậu ta: “Cẩn thận đấy.”

Tiểu Lục Tử vẫy Phàn Nhất Phi và mấy người cùng đi.

“Đứng lại, làm gì vậy?” Tiểu Lục Tử quát to một tiếng.

Đội nhân mã dừng lại, không một tiếng động, Tổ Gia chợt thấy không ổn: “Lục Tử, mau nằm xuống!”

Trong chớp mắt, loạt súng vang lên, mấy trăm viên đạn bắn ra như mưa, nếu không có Tổ Gia cảnh báo, bọn Tiểu Lục Tử bị bắn thủng như tổ ong bầu rồi.

Tổ Gia và các anh em nằm bò trên đất, nổ súng bắn trả.

Đối phương bắn một loạt rồi thôi, một giọng nói cất lên, nhưng đều là tiếng lóng.

Tổ Gia nghe vậy, biết rằng bọn thổ phỉ thật đã đến, ý của chúng là: thứ vũ khí đó của các ngươi chỉ là đồ bỏ đi, đừng bắn nữa, nếu không các ngươi chết chắc!

Tổ Gia cũng dùng tiếng lóng đáp lại, hy vọng có thể kết thân với chúng: “Bằng hữu, đều là anh em trên giang hồ cả, xin hãy cho một con đường sống!”

“Biết điều là tốt! Chớ dại dột đối đầu với Hồng Ngũ gia!”

Tổ Gia chợt hiểu ra: là quân của Hồng Ngũ gia, Hồng lão hổ đến thật rồi!

“Đều là bằng hữu, mạn phép ăn bữa cơm trên địa bàn của ngài, chúng tôi xin giao nộp vũ khí đầu hàng!”

Nói xong, Tổ Gia khẽ hỏi các anh em: “Đạn lên sẵn sàng rồi chứ?”

Mọi người gật đầu.

Tổ Gia nhìn một lượt anh em, nói: “Lát nữa hãy bắn hết cơ số đạn, chết được tên nào hay tên đó!”

Mọi người gật đầu.

Tổ Gia vờ đầu hàng, rồi nhân lúc chúng lơ là cảnh giác, liều mạng tấn công.

Chính lúc nguy cấp này, một giọng nói từ bên kia vọng lại: “Đó... phải chăng là Tổ Gia?”

Tổ Gia thấy giọng nói này rất quen, là ai vậy? Gió quá to nên nghe không được rõ, ông lập tức trả lời: “Chính là tại hạ!” Ngọn gió đưa tiếng đáp của Tổ Gia bay đi.

“Quả đúng là Tổ Gia!” Người đó kêu lên, rồi nói với người xung quanh, “Mau hạ súng xuống, hạ xuống! Người mình, là người mình!”

Tiếng bên kia vọng lại: “Tổ Gia, là tôi, Lưu Tòng Vân đây!” Lưu Tòng Vân nguyên là Đại sư bá của Đường khẩu Long Tu Nha thuộc Tây phái, năm 1936 bị đồ đệ là Tần Bách Xuyên đoạt mất ngôi vị.

Cuối cùng Tổ Gia cũng nghe rõ, đúng là tiếng của Lưu Tòng Vân.

Lưu Tòng Vân chạy đến, Tổ Gia đi chầm chậm rồi dừng lại, hai người nhìn nhau một hồi rồi ôm chầm lấy nhau.

Người của hai bên thấy vậy đều ngẩn ra, vừa rồi còn định liều chết một phen, vậy mà bỗng chốc lại tay bắt mặt mừng.

“Tổ Gia, sao lại đến đây?”

“Lưu sư gia sao lại ở đây?

Hai người hỏi cùng một lúc.

“Vào nhà rồi nói chuyện.” Tổ Gia nói với Lưu Tòng Vân.

Lưu Tòng Vân quay sang đám thổ phỉ: “Các ngươi ở đây đợi ta.”

Thì ra sau khi bị Tần Bách Xuyên đuổi khỏi Tứ Xuyên, lại bị quân phiệt Lưu Tương truy sát, Lưu Tòng Vân không chốn dung thân, đành miễn cưỡng đến Thượng Hải tìm Tổ Gia. Vốn không muốn vạch áo cho người xem lưng, nhưng Lưu Tòng Vân đã hết cách, đành thỉnh cầu Tổ Gia giúp đỡ giành lại Tứ Xuyên. Nhưng khi đó Tổ Gia đang bận đấu với người Nhật, hơn nữa Tây phái rối loạn lại là điều tốt cho Đông phái, sư đồ Lưu Tòng Vân mâu thuẫn, Tổ Gia được dịp ngư ông đắc lợi. Sư đồ bọn họ thông minh hơn người, nếu đồng tâm hiệp lực tất trở thành mối uy hiếp đối với Đông phái. Tổ Gia đa mưu túc trí, thấy Lưu Tòng Vân sa cơ lỡ bước, ông lựa lời an ủi rồi giúp cho chỗ ở, đồng thời lấy một khoản ngân lượng lớn của Đường khẩu cho Lưu Tòng Vân, Lưu Tòng Vân rớt nước mắt cảm kích. Nhưng Tổ Gia lần lữa không đề cập đến việc giúp ông ta trở về Tứ Xuyên, Lưu Tòng Vân trong lòng vô cùng muộn phiền, Tổ Gia lấy lý do từ xưa phái Giang Tướng đã có quy tắc, tổ sư gia Phương Chiếu Dư lập di huấn: tứ đại Đường khẩu ai giữ phận nấy, không được phép can dự vào việc nội bộ của nhau, nếu không sẽ bị cả phái Giang Tướng diệt trừ.

Lưu Tòng Vân thấy Tổ Gia nói cũng đúng, sau lại nhận thấy Tổ Gia cố ý không chịu giúp mình. Lưu Tòng Vân vốn là người có chí lớn, một đời dốc sức vào quân sự và chính trị, khi đắc chí trong tay nắm mấy chục vạn quân, thường tự ví mình như Gia Cát Khổng Minh, mà nay cả ngày ăn không ngồi rồi ở bên Thượng Hải, ông ta há có thể chịu sống như vậy?

Sau đó không lâu, Lưu Tòng Vân chủ động ra đi: “Tổ Gia, lão hủ không thể cả ngày ăn không ngồi rồi, tuy tuổi đã qua ngũ tuần, nhưng người già chứ tâm không già, tôi vẫn muốn làm chút việc... xin được từ biệt.”

Tổ Gia vội hỏi: “Lưu sư phụ muốn đi đâu?”

Lưu Tòng Vân mỉm cười nói: “A Bảo phái Giang Tướng, đến đâu là bén rễ ở đó, thiên hạ rộng lớn, đâu đâu cũng kiếm ra tiền. Nhưng Tổ Gia yên tâm, lão hủ tuyệt đối không hoạt động trước mặt Tổ Gia.”

Tổ Gia năm lần bảy lượt cố giữ mà không được.

“Ân tình của Tổ Gia cả đời khó mà báo đáp, Tổ Gia hãy giữ gìn sức khỏe, sông không thể cạn, núi chẳng thể mòn, sau này tất có cơ hội gặp lại.”

Tổ Gia lại lấy rất nhiều vàng bạc đưa cho Lưu Tòng Vân rồi nói: “Lưu sư gia hãy bảo trọng, nếu có khó khăn, xin hãy quay lại đây”

Sau khi Lưu Tòng Vân đi rồi, Tổ Gia bắt đầu cắt đặt việc trên đảo Chu San.

Kỳ thực, Lưu Tòng Vân là người cơ trí, thời gian dưỡng thương ở Thượng Hải ông ta nghe ngóng được thông tin về thổ phỉ ở Tương Ngạc*. Lưu Tòng Vân rất có tài quan sát thời thế. Khi đó quân phiệt Trung Quốc cát cứ, Quốc Cộng cắn xé lẫn nhau, giặc Nhật xâm phạm, thổ phỉ lên núi xưng vương, các thế lực đan xen trong tấn tuồng dân quốc nhốn nháo, quần hùng tranh lộc.

Thời thế tạo anh hùng, cháy nhà hôi của, thừa nước đục thả câu, chờ thời cơ hành động, tùy cơ ứng biến, đó đều là bản năng của nhà chính trị. Lưu Tòng Vân lại manh nha giấc mộng đại nghiệp của mình.

Bên Quốc dân Đảng không còn cửa nữa rồi, cho dù là quân đội trung ương hay địa phương, chỉ cần Tưởng Giới Thạch và Lưu Tương hạ lệnh một tiếng, chẳng ai dám chứa chấp ông ta, đến đó tức là tìm đường chết! Cộng sản Đảng lại càng không, bởi bản thân gốc gác không được sạch sẽ, đến đó e rằng bị thanh trừng chứ chẳng chơi! Gia nhập hắc đạo cũng không sáng sủa gì hơn, chẳng thể làm nên đại nghiệp! Nghĩ đi nghĩ lại, thấy chỉ có một con đường là có thể đi được: đầu đỡ thổ phỉ, chí ít phải có đội quân của riêng mình để cát cứ một phương, chờ thời cơ hành động.

Bởi vậy, đám thổ phỉ Hồ Nam Hồng lão hổ thường buôn bán vũ khí với hắc bang Thượng Hải đã lọt vào tầm ngắm của Lưu Tòng Vân.

Lưu Tòng Vân đến Hồ Nam tự tiến cử mình, ban đầu Hồng lão hổ không mấy thiện cảm với lão già này. Nhưng sau khi Lưu Tòng Vân kể về chiến tích huy hoàng của mình, Hồng lão hổ mới bừng tỉnh: đây chính là Bạch Hạc tiên sinh phò tá Lưu Tương đánh bại Lưu Văn Huy năm xưa đó ư?

Hồng lão hổ bái Lưu Tòng Vân làm quân sư. Lưu Tòng Vân biết hắn có ý thăm dò mình, sau khi nhận chức quân sư rồi, đầu tiên Lưu Tòng Vân giúp Hồng lão hổ đánh bại Trương Thiên Bá, một băng thổ phỉ khác cũng ở Hồ Nam, tiếp đến diệt đám giặc cỏ Lưu Chiếm Sơn ở phía tây Hồ Nam đến xâm phạm, tiếp theo lại phục kích đội xe của Quốc dân Đảng, cướp được lượng lớn súng ống vật tư. Hồng lão hổ từ đó mới yên tâm: quân sư quả là danh bất hư truyền.

Nay trong tay Hồng lão hổ đã có hơn ngàn quân, ngoài súng lục, súng trường 38 ra, còn có đồ trang bị kiểu Mỹ mua từ Thượng Hải, mấy khẩu đại bác, nghiễm nhiên trở thành quân phiệt quy mô nhỏ cát cứ một phương.

CON HỔ LÔNG XANH

Hồng lão hổ tên thật là Hồng Thế Xương, khi đó mới 40 tuổi, hào hoa phong nhã. Trước kia ông ta là giáo viên. Sau này do không nộp địa tô, địa chủ dẫn người đến cướp vợ của ông ta, người vợ đang mang thai ba tháng bị làm nhục liền nhảy sông tự vẫn. Quá uất hận, Hồng Thế Xương đang đêm xách dao vượt tường vào chém chết bảy mạng già trẻ lớn bé nhà tên địa chủ rồi bỏ trốn lên núi.

Khi đó vùng giáp ranh Hồ Nam, Hồ Bắc có nạn thú dữ, người ta đồn rằng trong núi xuất hiện con quái thú ăn thịt người. Con quái thú này rất giống hổ nhưng toàn thân sắc lông xanh, người ta gọi là “hổ lông xanh”, từ đó chẳng ai dám lên núi, có đi thì cũng phải có cặp có đôi.

Hồng Thế Xương cũng rất sợ con quái thú này, nhưng đã phạm tội giết người, bất đắc dĩ phải chạy lên núi, chỉ có vào rừng sâu núi thẳm mới an toàn.

Hồng Thế Xương trốn trong núi được một tuần, vừa đói vừa rét, hái mấy quả dại ăn đỡ nhưng cũng không chống nổi cái đói. Giữa lúc đang do dự, bỗng thấy một con thỏ nhảy lại, Hồng Thế Xương lập tức phấn chấn.

Ông ta rút dao, nhẹ nhàng bước tới, khi tới gần ông phát hiện con thỏ này rất chậm chạp, bụng rất to sắp chạm xuống đất, thì ra nó đang mang thai.

Hồng Thế Xương bỗng nhớ đến người vợ yêu, không nhẫn tâm giết thỏ, buông tiếng thở dài rồi lắc đầu bỏ đi.

Đột nhiên, một luồng gió lạnh từ sau lưng ùa tới, Hồng Thế Xương vội quay đầu lại, một con hổ từ trong bụi cây nhảy xổ ra, ngoạm chặt con thỏ khi nãy. Con thỏ giãy giụa mấy cái rồi bất động, bụng vỡ nát, máu chảy không ngừng.

Hồng Thế Xương thét to một tiếng, rút dao thủ thế.

Thì ra con hổ này đã rình con thỏ rất lâu, vừa nãy Hồng Thế Xương đang cầm dao lưỡng lự nên nó cũng không dám xông ra, đợi khi ông ta quay đi rồi mới nhảy bổ ra cắn chết con thỏ.

Hồng Thế Xương khom lưng giơ dao, con hổ ngoạm con thỏ đầm đìa máu, mắt gườm gườm nhìn, cho rằng Hồng Thế Xương định cướp miếng mồi của nó.

Hồng Thế Xương nhìn chằm chằm con hổ, quả đúng là toàn thân lông xanh, thầm nghĩ: đồ súc sinh, mày đã tàn hại biết bao nhiêu sinh linh, hôm nay ông quyết băm vằm mày!

Tuy nghĩ như vậy, nhưng chân lại run run, ông từng giết người nhưng chưa bao giờ giết hổ, loài này rất khó đối phó, chi bằng bỏ chạy cho rồi. Nghĩ đoạn, Hồng Thế Xương chầm chậm lùi lại sau, sẵn sàng chạy tháo thân, con hổ thì vẫn nhìn ông không chớp mắt. Đột nhiên nó nhả miếng mồi xuống rồi bổ nhào về phía Hồng Thế Xương.

Hồng Thế Xương kêu lên một tiếng rồi hoảng loạn đâm bừa về phía trước. Vai ông bị hổ vồ trúng, nhưng con dao cũng cứa một nhát trúng cổ con hổ.

Vai trái Hồng Thế Xương bị cào nát, áo rách tan, máu tuôn đấm đìa. Da hổ vốn dày lại có bộ lông rậm, tuy bị một dao nhưng chưa bị thương vào trong.

Hồng Thế Xương nghiêng người, tay phải cố giơ con dao lên. Con hổ gườm gườm rồi bắt đầu đi vòng quanh, Hồng Thế Xương cũng liên tục xoay người theo.

Con hổ đang rình cơ hội, rồi thoắt cái nhảy sang phải, Hồng Thế Xương vung dao chém tới. Không ngờ con hổ chỉ đánh lạc hướng, nó xoay ngược lại ngoạm trúng vai trái đang rỉ máu.

Hồng Thế Xương bị hổ vồ ngã lăn xuống đất, vai bị cắn nát, đau đớn vô cùng. Trong thế ngàn cân treo sợi tóc, tay phải vung dao đâm thẳng vào miệng hổ. Con hổ lồng lên lùi lại phía sau, nhưng không ngờ con dao dựng đứng, cả phần hàm dưới bị lưỡi dao mắc vào, khạc không ra, nuốt vào cũng không được. Hổ ta đau đớn lùi lại, Hồng Thể Xương nắm chặt chuôi dao không dám buông tay.

Con hổ vung đầu liên tục, nó khỏe đến nỗi Hồng Thế Xương bị quăng lên quăng xuống xây xẩm mặt mày, ông vẫn cắn răng chịu đựng, nhất quyết không buông.

Sự khác biệt lớn nhất giữa con người với động vật chính là nghị lực, sức mạnh tinh thần đôi khi vượt qua sức tưởng tượng, Hồng Thế Xương quyết liều mạng một phen! Trong khoảnh khắc con hổ ngừng lại, Hồng Thế Xương thọc thẳng tay vào miệng hổ, cả cánh tay chui tuột xuống yết hầu, móc đến dạ dày. Hổ ta bị hóc nghẹn, muốn há miệng cắn nhưng bị con dao chặn đứng, Hồng Thế Xương hét to một tiếng: “Tao liều chết với mày!” rồi dùng hết sức bình sinh moi cả nửa cái dạ dày của hổ ra ngoài!

Con hổ rống lên đau đớn rồi lùi lại mấy bước, toàn thân tê liệt, máu miệng trào ra, hơi thở yếu dần, cuối cùng chớp chớp mắt rồi bất động.

Hồng Thế Xương nằm vật ra đất. Lúc này trời đã tối, lũ quạ vùn vụt bay qua, Hồng Thế Xương ôm cánh tay đầy máu, một dòng nước mắt nóng hổi trào ra.

“Tráng sĩ!” Từ trong bụi cây thấp thoáng hai bóng người.

Hồng Thế Xương giật thót mình: “Ai?”

“Tráng sĩ thật lợi hại, đánh hổ mới uy dũng làm sao.”

“Các ngươi nhìn thấy sao?”

“Ừm!” Hai người này gật đầu lia lịa.

“Vậy sao không giúp ta một tay?” Hồng Thế Xương tức giận nói.

“Trời tối, mới đầu chúng tôi nhìn không rõ, chỉ thấy tiếng hổ gầm, nghĩ là có hai con hổ đang giành mồi nên không dám đến gần. Sau nghe thấy tiếng người hét to mới vội chạy lại, lúc đó tráng sĩ đã hạ gục con hổ rồi.” Một người nói.

“Các ngươi làm nghề gì?” Hồng Thế Xương hỏi.

Hai người đưa mắt nhìn nhau: “Hừ, chẳng giấu gì tráng sĩ, hai chúng tôi... hai chúng tôi là lính đào ngũ.”

“Đào ngũ?”

“Đại chiến Trung Nguyên, đánh nhau loạn xạ. Chúng tôi là quân của Hàn Phúc Củ, chiếm cứ bờ nam Hoàng Hà. Sau quân của Phùng Ngọc Tường đánh tới, sĩ quan không chịu xông lên mà cứ ở sau dí súng ép chúng tôi lên trước, lính tráng chúng tôi không sợ chết, nhưng không thể chết theo kiểu như vậy được! Tướng quân không xông lên thì đã đành, nhưng đến trung đội trưởng cũng không chịu xông pha, kẻ nào kẻ nấy tham sống sợ chết, chỉ biết đem chúng tôi ra làm bia đỡ đạn, chết như vậy thì chẳng đáng chút nào! Mà không chỉ có chúng tôi, còn nhiều người khác cũng đào ngũ! Phải rồi, tráng sĩ là người ở đâu, sao lại một mình lên núi đánh hổ vậy?”

“Ôi... bị bức bách thôi. Tôi họ Hồng, tên Thế Xương, là người huyện này...” Hồng Thế Xương kể lại chuyện đã qua của mình.

Hai người nghe xong, trong lòng vô cùng khâm phục, người cao cao nói: “Tôi tên Vương Kế Khôn, anh này tên Lưu Học Toàn, hai chúng tôi đều là người Sơn Đông. Ba chúng ta đều là kẻ vong mạng trốn chạy, nay gặp nhau ở đây âu cũng là duyên phận, chi bằng chúng ta kết nghĩa anh em, tương trợ lẫn nhau trong cái buổi loạn lạc này.”

Hồng Thế Xương nghe xong thấy rất hợp ý mình, một người đơn độc trong núi cũng khó mà sống sót được. Thấy hai người này đều có vẻ thật thà, bèn hỏi: “Tôi năm nay 34 tuổi, còn các anh?”

Vương Kế Khôn nói: “Tôi 28 tuổi.”

“Tôi 25 tuổi.” Lưu Học Toàn nói.

“Tốt!” Hồng Thế Xương hô to một tiếng, “Hôm nay chúng ta dùng đầu hổ tế lễ, uống máu ăn thề, không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày!” Nói rồi, lấy dao chặt lấy đầu con hổ.

Ba người đặt đầu hổ lên một tảng đá xanh, trăng tỏ làm chứng, thông reo làm bằng, khấu đầu thề nguyện, kết thành anh em. Kể từ đó, băng thổ phỉ lớn nhất vùng Tương Ngạc bắt đầu manh nha.

Vương Kế Khôn và Lưu Học Toàn đều có súng, sau khi kết bái huynh đệ, ba người xuống núi cướp của mấy tay trọc phú và địa chủ, có chút vốn liếng trong tay thì bắt đầu chiêu mộ đám vong mạng cùng khổ lên núi, tăng thêm quân trang quân bị. Cứ như vậy, đội ngũ ngày một lớn mạnh. Anh em biết được sự tích đánh hổ của Hồng Thế Xương, thấy đại ca còn uy phong hơn cả hổ dữ, liền đề xuất đại ca lấy cái tên “Hồng lão hổ” làm biệt hiệu, vẫy vùng một phương!

Hồng Thế Xương gật đầu đồng ý, từ đó tiếng tăm Hồng lão hổ ngày càng vang xa. Đội quân của Hồng lão hổ kỷ luật nghiêm minh: một, không áp bức dân lành; hai, không cưỡng ép dân nữ; ba, không buôn bán trẻ em; bốn, không cướp giật người làm ăn chân chính; năm, không giết hại chí sĩ cách mạng.

Giống như tổ chức của Trương Bạch Mã ở đông bắc, đội quân Hồng lão hổ được giới giang hồ kính nể gọi là thổ phỉ chính nghĩa và được tôn là “nam Hổ bắc Mã”.

Sự xuất hiện của Lưu Tòng Vân khiến Hồng Thế Xương như hổ mọc thêm cánh, và Lưu Tòng Vân như tìm được tri âm của mình, cùng nhau ấp ủ một giấc mộng đại sự.

Nghe Lưu Tòng Vân kể xong, Tổ Gia trong lòng bùi ngùi xúc động, đấng anh hùng đều bị bức bách mà nên, rồi ông cũng kể cho Lưu Tòng Vân nghe vì sao lại lưu lạc đến nơi này.

Lưu Tòng Vân nghe xong, gật gù cảm thán: “Tổ Gia trung nghĩa yêu nước, hành sự cẩn trọng, lão hủ vô cùng khâm phục. Đi, cùng tôi đến gặp Hồng Tư lệnh nói rõ sự hiểu lầm! Hồng Tư lệnh tưởng các ông là bọn trộm cắp từ nơi khác đến gây chuyện trên địa bàn, nên mới sai tôi đi tiễu trừ!”

Tổ Gia phân vân: nên đi hay không? Lừa đảo và thổ phỉ vốn chẳng thể chung đường; nếu không đi thì cũng chẳng thể lưu lại đây được, vậy thì biết đi đâu đây?

Tổ Gia bỗng nghĩ đến một chuyện: “Lưu sư gia phải chăng đã đem hết nội tình phái Giang Tướng nói với Hồng lão hổ rồi ư?”

Lưu Tòng Vân cười ha hả: “Đương nhiên là rồi.”

“Cái này...” Tổ Gia phân vân một hồi.

“Ha ha ha!” Lưu Tòng Vân lại cười vang, “Tổ Gia há không nghe binh pháp coi trọng hư hư thực thực ư, tôi nói với ông ta rằng chúng ta đều là bậc thầy tướng số, am hiểu âm dương, có bản lĩnh đích thực. Cả Trung Quốc có biết bao nhiêu hội đạo môn, được như phái Giang Tướng chúng ta là không nhiều, do đó Tổ Gia mới được dân chúng Giang Hoài tôn là đệ nhất đại sư, còn tôi mới trở thành quân sư nắm trong tay binh quyền dưới trướng Lưu Tương. Hơn nữa trong cuộc chiến bình định, tôi đại phá Lưu Văn Huy, hai đảng Quốc, Cộng và các lộ quân phiệt ai mà không biết chứ? Tổ Gia à, tên phản đồ Tấn Bách Xuyên nói rất đúng, hư hư thực thực, thực thực hư hư, chúng ta đã gột sạch bản thân rồi! Còn việc chúng ta lập bẫy lừa đảo, ai biết? Ai có thể tra ra được? Tôi đã nói với Hồng Tư lệnh rồi, đến Vương Á Tiều bang chủ bang Búa rìu cũng rất coi trọng ông! Nói đi nói lại, bản thân Hồng lão hổ là thổ phỉ, cũng chẳng phải quang minh chính đại gì, ai vạch trần ai đây?”

Lúc này Tổ Gia bỗng nhớ đến lời Giang Phi Yến từng nói: “Tổ Gia, từ lâu chúng ta đã trở thành đại sư chân chính rồi đó!”

Sau một hồi cân nhắc, Tổ Gia đồng ý đến gặp Hồng lão hổ, đợi tiếp xúc xong rồi xem tình hình thế nào sẽ quyết định.

TỨ ĐẠI PHI TẶC DÂN QUỐC

Trong sơn động sau núi, Hồng lão hổ đang ngồi chờ tin tức, trong lòng giận dữ: một lũ trộm cắp ranh từ đâu đến gây chuyện trên địa bàn của ta, còn cướp cả mấy đội đuổi xác nữa, đúng là không coi ta ra gì!

Lúc này Lưu Tòng Vân dẫn Tổ Gia bước vào: “Tư lệnh!”

Hồng lão hổ bật dậy khỏi chiếc ghế bọc da hổ: “Quân sư.”

“Hắn là ai?” Hồng lão hổ chỉ vào Tổ Gia hỏi.

“Tư lệnh hãy bình tĩnh, đây đều là hiểu lầm, hiểu lầm, hãy nghe lão hủ nói... ” Sau đó Lưu Tòng Vân đem mọi việc thuật lại cho Hồng lão hổ nghe.

“Ha ha ha! Tưởng ai, hóa ra là Thiết Bản tiên sinh uy trấn Giang Hoài, ngưỡng mộ đã lâu!” Hồng lão hổ vừa bắt tay Tổ Gia vừa nói.

“Tư lệnh quá khen, tôi chỉ là kẻ thảo giới giang hồ, lưu lạc đến đây, trót mạo phạm đến Tư lệnh, mong ngài thứ tội.” Tổ Gia nói.

“Tiên sinh khiêm tốn rồi. Quân sư đây từng nhiều lần nhắc đến ông, một kỳ tài cái thế, lại trung nghĩa can đảm, nay được gặp mặt, đúng là duyên phận! Người đâu, đem rượu lên đây!” Hồng lão hổ sắc mặt vui mừng.

Tiệc rượu được dọn lên, ngoài Hồng lão hổ, Lưu Tòng Vân còn có thêm bốn người nữa, Hồng lão hổ tươi cười nói với Tổ Gia: “Tiên sinh, xin giới thiệu với ngài...”

Theo sự giới thiệu của Hồng lão hổ, Tổ Gia làm quen với những người này, đây đều là những trụ cột của ông ta, gọi là “Tứ đại kim cương”.

Bách bộ xuyên dương Vương Kế Khôn là nhị đệ kết nghĩa của Hồng lão hổ. Vương Kế Khôn 15 tuổi đã cầm súng ra chiến trường, từng tham gia hai cuộc Bắc phạt và đại chiến Trung Nguyên, bắn súng vô cùng chuẩn xác, cách 100 bước có thể bắn trúng giữa hai chân mày kẻ địch, do đó có biệt hiệu “Bách bộ xuyên dương”.

Hắc diện sắt tinh Lưu Học Toàn là tam đệ của Hồng lão hổ. Sở dĩ có biệt hiệu này là bởi hắn toàn thân đen trũi, đến nỗi đứng trong bóng tối chỉ thấy mỗi cặp mắt trắng dã, nếu nhắm mắt lại, không há miệng khoe răng thì chẳng ai cảm nhận được sự tồn tại của hắn, mỗi lần hành động, hắn đều trùm mặt nạ đen, ra tay tàn độc, không để kẻ nào sống sót.

Song đao nữ hiệp Chu Cẩn, người phụ nữ duy nhất trong Tứ đại kim cương, năm xưa đi theo võ sư Hổ Nam Mạnh Đại Hồng luyện đao pháp, vũ khí sử dụng là một cặp Uyên ương đao. Uyên ương đao là hai thanh đao chung một vỏ, cán đao có hình bán nguyệt, ghép lại vừa vặn thành một hình vành trăng. Hơn nữa Chu Cẩn còn là nhân tình của Hồng lão hổ, được đám thuộc hạ gọi là “phu nhân”.

Thảo thượng phi Yến Lão Thất, người này khinh công tuyệt hảo, lướt trên mặt nước, vượt núi xuyên đèo, ngày đi mấy trăm dặm mà không biết mệt, còn có thể bay trong rừng. Sau này có người giải thích rằng: đó không phải là bay, là do ông ta nhảy truyền từ cây này sang cây kia quá nhanh, giống như đang bay vậy. Cùng với Tái Hoạt Hầu Phàn Nhất Phi ở Hà Nam; Tái Ly Miêu, Đoàn Vân Bằng ở Bắc Bình; Vưu Cáp Tử, Vương Kim Tuyển ở Trùng Khánh được mệnh danh là Tứ đại đạo tặc Dân Quốc. Sau này, Tái Hoạt Hầu đi theo Tổ Gia, Yến Lão Thất theo Hồng lão hổ, Vưu Cáp Tử bị Đới Lạp bắn chết, Đoàn Vân Bằng đầu quân cho Quốc dân Đảng. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, Đoàn Vân Bằng theo lệnh của Tưởng Giới Thạch bí mật về đại lục hành thích Mao Trạch Đông, bị La Thụy Khanh, Bộ trưởng Bộ Công an bắt được, kết án tử hình năm 1969.

Nhìn thấy binh tài tướng giỏi, cộng thêm đội ngũ hơn ngàn người dưới trướng Hồng lão hổ, Tổ Gia nhớ lại bản thân năm xưa ở bến Thượng Hải, thật khác một trời một vực, trong lòng chợt dâng lên nỗi xót xa. Kể từ thời khắc đó, Tổ Gia càng hạ quyết tâm thống nhất và chấn hưng uy phong của phái Giang Tướng.

Lúc đó các Bá đầu và anh em đang ở phòng ngoài ăn cơm, đã lâu rồi chưa được ăn thịt, thịt thỏ trong núi rất ngon, mọi người vừa nhai vừa nghĩ: không biết lần này Tổ Gia tính toán ra sao, bước tiếp theo sẽ làm thế nào?

“Tiên sinh, vì sao lại đi cướp đội đuổi xác vậy? Tục đuổi xác ở Tương Ngạc đã có từ lâu, đó là tập tục cũ ở đây.” Đến tận bây giờ, Hồng lão hổ vẫn chưa biết bí mật của đội đuổi xác Nhật Bản.

Tổ Gia mỉm cười, nói: “Tư lệnh cho rằng thi thể có thể đứng dậy đi lại thật sao?”

“Đương nhiên là không thể! Người chết giống như đèn tắt, là một đống thịt nhão mà thôi. Nhưng thầy đuổi xác làm như vậy lại có thể an ủi nỗi lòng của thân quyến người chết. Có rất nhiều việc, không nên biết quá rõ thì tốt hơn, kẻ hồ đồ tất hạnh phúc, Trịnh Bản Kiều từng nói ‘Nan đắc hồ đồ’* đấy thôi.” Sự hiểu biết văn hóa của Hồng Lão hổ lúc này được bộc lộ ra.

“Vậy Tư lệnh không phát hiện ra sự bất thường của đội đuổi xác gần đây sao?” Tổ Gia hỏi.

“Bất thường chỗ nào? Số lượng nhiều lên ư? Quân Nhật định tổng tấn công, đầu tiên là trận chiến Hà Nam, tiếp theo đến Vũ Hán, bao nhiêu người chết như vậy, số lượng đội đuổi xác tăng lên cũng là điều rất bình thường.” Hồng lão hổ nói.

“Vậy Tư lệnh có nghe nói đến việc mượn danh đuổi xác để vận chuyển thuốc phiện và tiền bạc không?” Tổ Gia hỏi.

“Ha ha ha! Đương nhiên là có rồi!”

“Tư lệnh cứ mặc kệ sao?”

“Đi trên địa bàn của ta, sao có thể không quản chứ? Tiền hồ đều đã thu rồi. Lưu Hổ Tử ở Tương Tây, Trương Ma Tử ở Xuyên Nam, Từ Tư lệnh của quân Trung ương, Đỗ đại quản gia ở Thượng Hải, có số có má đâu chỉ có mấy nhân vật này phải không? Đông Tiền, Tây Tiền, Lưỡng Hồ, Nam Việt, người phải nộp đều đã nộp rồi, nên đâu thể giết gà lấy trứng, càng không thể được voi đòi tiên.” Hồng lão hổ nói.

“Chẳng trách, chẳng trách.” Tổ Gia lắc đầu.

“Chẳng trách gì cơ?”

“Chẳng trách Hồng Tư lệnh không quan tâm đến đội đuổi xác, ngài hãy xem đây là thứ gì? Nói rồi, Tổ Gia lấy từ trong tay áo mấy tấm bản vẽ đưa cho Hồng lão hổ.

“Đây là..Hồng lão hổ có chút nghi hoặc.

“Bản đồ Lưỡng Hồ. Rất chi tiết và chính xác phải không?” Tổ Gia nói.

Hồng lão hổ xem kỹ một lượt, hỏi giọng kinh ngạc: “Không sai chút nào! Ở đâu ra vậy?”

Tổ Gia bước lại, nhìn chăm chú lên bản đồ, bỗng lấy tay chỉ vào một khuyên đen, dường như vừa phát hiện điều gì đó: “Tư lệnh... tôi cũng mới phát hiện ra, ngay đến vị trí của các ngài cũng được đánh dấu lại.”

“Chỗ nào?”

“Ở đây!”

Một khuyên đen, trong viết hai chữ: hơn ngàn.

Tổ Gia cầm bản vẽ lên, sau đó nói: “Ban đầu tôi tưởng rằng đó là đánh dấu độ cao của ngọn núi, vừa rồi trên đường cùng Lưu sư gia đến đây, tôi xác định được đường đi lối lại và vị trí một cách tương đối, giờ xem lại những bản vẽ này, phát hiện ra vị trí của khuyên đen này chính là căn cứ địa của ngài, màu đen chắc chắn chỉ... thứ lỗi cho tôi mạo muội, chắc chắn có nghĩa là ‘thổ phỉ’, hai chữ ‘hơn ngàn’ là chỉ quân số của Tư lệnh...”

“Những bản vẽ này từ đâu mà có?” Hồng lão hổ bắt đầu sốt ruột, bởi điều thổ phỉ sợ nhất chính là để lộ nơi ẩn náu của mình.

“Tư lệnh chớ vội, hãy nghe tôi nói...” Tổ Gia từ tốn kể cho Hồng lão hổ nghe sự việc đội đuổi xác Nhật Bản.

Hồng lão hổ nghe xong, gật đầu liên tục: “Bọn Nhật thật thông minh! Tưởng Giới Thạch không có đầu óc cũng như sự quyết đoán này, càng chẳng có thời gian, trận chiến này còn đánh đấm thế nào đây?”

“Ừ,” Tổ Gia gật đầu, “nhưng, tôi cứ thấy... cứ thấy...”

“Cứ thấy sao?” Hồng lão hổ hỏi.

“Tôi thấy những bản vẽ này không chỉ đơn giản dùng cho tác chiến, có lẽ chúng còn có công dụng khác nữa, bằng không bọn Nhật sẽ chẳng đến nỗi chó cùng dứt giậu, quật mộ tổ nhằm ép tôi xuất đầu lộ diện như vậy!” giọng Tổ Gia đầy u uất.

Thấy Hồng lão hổ vẫn chưa hiểu, Tổ Gia giải thích: “Theo lời người anh em của tôi, cả nước có rất nhiều đội đuổi xác như vậy, gọi hồn phương bắc, đuổi xác phương nam, dường như... dường như những bản vẽ này tập hợp lại còn có công dụng lớn hơn.”

“Công dụng lớn hơn ư?” Hồng lão hổ càng tò mò, “lẽ nào vẽ bản đồ tác chiến còn chưa đủ quan trọng?”

“Tôi nghĩ đây chỉ là một trong số đó, bọn Nhật có vẻ như rất sợ chúng ta khám phá ra bí mật ẩn chứa trong những tấm bản đồ này...” Tổ Gia trầm giọng nói.

Hồng lão hổ gật đầu, nói: “Như vậy... tiên sinh... chúng ta hãy suy luận thử xem. Người xưa nói: ‘Có bột mới gột nên hồ’, nhà Phật dạy: ‘Có nhân tất có quả, có quả tất có nhân’. Bọn xâm lược dốc bao nhiêu tâm sức như vậy để làm bản đồ, chắc chắn có âm mưu lớn, bản đồ là nhân, âm mưu sau này chính là quả, mà nhân quả lại liên tục không ngừng, quả của hôm nay chính là nhân của ngày hôm qua, chúng ta xem xét kỹ những sự việc quân Nhật làm từ khi xâm lược đến nay, biết đâu có thể lần ra manh mối. Tiên sinh là người am hiểu Chu dịch, tất hiểu đạo lý ‘Kỳ tiểu vô nội, kỳ đại vô ngoại*, một giọt sương có thể chiếu rọi cả thế giới...”

Hồng lão hổ quả không hổ danh xuất thân từ thầy giáo, bác cổ thông kim, thao thao bất tuyệt, Tổ Gia không khỏi thầm kính phục.

Lúc này, Lưu Tòng Vân cũng đặt chung rượu xuống rồi bước lại. Ba người họ đều là những kẻ lão luyện trên giang hồ, đầu óc nhanh nhạy gấp ba lần người thường, giờ đây đứng trước tấm bản đồ ẩn chứa huyền cơ, ai nấy đều muốn vạch trần âm mưu tày đình của quân Nhật.

“Trên chiến trường thì khỏi phải nói, từ Đông tam* tỉnh trở xuống, quân Nhật tiến đánh Ký (Hà Bắc), Lỗ (Sơn Đông), Dự (Hà Nam và bắc Hổ Bắc), sau đó thẳng tiến vào nội địa Lưỡng Hồ, đồng thời tiến công Thượng Hải, Nam Việt... Vùng tạm thời chưa với tới được thì ném bom. Sau khi chiếm Nam Kinh thì bắt đầu cuộc thảm sát... đây đều là những chiến thuật, chiến lược thông thường…” Hồng lão hổ nói.

“Ừm. Sau khi Nam Kinh thất thủ, Tưởng Giới Thạch chạy đến Trùng Khánh... Ây dà, tiên sinh Tôn Trung Sơn năm xưa không hiểu phong thủy, nếu hiểu, chắc chắn ông sẽ không đặt thủ đô Chính phủ Dân Quốc ở Nam Kinh...” Lưu Tòng Vân nói chen vào.

Hồng lão hổ hỏi: “Nghĩa là sao?”

PHONG THỦY THÀNH NAM KINH - “CỐ ĐÔ SÁU TRIỀU”

Lưu Tòng Vân vuốt vuốt chòm râu, nói: “Tư lệnh đọc nhiều sách sử, tất biết sự thay triều đổi họ ở Nam Kinh. Đây được mệnh danh là ‘Cố đô sáu triều’, nhưng Tư lệnh thử nghĩ xem, trong lịch sử những vương triều định đô ở Nam Kinh có vương triều nào được trường tồn, hưng thịnh không? Đông Ngô thời Tam Quốc định đô tại đây, chẳng mấy chốc bị diệt vong, tiếp đến là Đông Tấn cũng nhanh chóng sụp đổ, rồi bốn triều đại Tống, Tề, Lương, Trần, tiếp sau là Nam Đường cũng kéo dài không quá 40 năm, tiếp sau nữa đến vương triều Đại Minh. Minh Thành Tổ Chu Lệ là vị hoàng đế kiệt xuất, ngay sau khi tức vị liền dời đô đến Bắc Kinh. Sau này, cuối thời Minh lại dời đô về Nam Kinh, kết quả triều Minh chỉ giữ được mấy chục năm rồi bị Đại Thanh tiêu diệt hoàn toàn. Hãy xem những triều đại định đô ở Nam Kinh, nhiều thì hơn trăm năm, ít thì mấy chục năm, không đoản mệnh thì cũng suy bại, đó đều là do phong thủy Nam Kinh không thích hợp để định đô. Hiện nay Chính phủ Quốc dân đã dời đi, thế cũng tốt, không chừng kháng chiến có cơ hội chuyển biến ở Trùng Khánh cũng nên!”

Hồng lão hổ liên tục gật đầu: “Quả đúng như vậy, các triều đại dựng đô ở Nam Kinh đều đoản mệnh, nhưng cớ là vì sao?”

Lưu Tòng Vân cười ha hả: “Tư lệnh hãy nghe đã. Đất định đô phải có khí của long mạch, dựa núi gần sông, thế núi tựa ở sau là bình phong, dòng nước xanh phía trước là nguồn tài. Nhưng thành Nam Kinh lại không có được địa thế này, theo nguyên tắc tọa bắc hướng nam của người xưa, sau lưng Nam Kinh là dòng Trường Giang cuồn cuộn, không có điểm tựa, dòng chảy cuộn trào chính là cảnh tượng rối ren bất an, do đó không thích hợp cho việc định đô. Nhưng nơi này có sông ngòi dào dạt, thảo nguyên xanh rì, mang lại linh khí văn nhân mặc sức múa bút, tâm hồn bay bổng, vậy nên Giang Nam nhiều tài tử, mạn bắc xuất kỳ nhân.”

Tổ Gia gật đầu: “Lưu sư gia nói rất đúng, chính là đạo lý này. Từ xưa đến nay, đất Giang Nam đã xuất hiện biết bao tài tử giai nhân!”

Nói đến đây, Tổ Gia trầm tư giây lát rồi bỗng hỏi: “Điều tôi quan tâm là sau khi công hạ Nam Kinh rồi, quân Nhật ngoài đốt phá, tàn sát, cưỡng hiếp, cướp bóc ra, còn có hành động gì khác thường không?”

“Có!” Hồng lão hổ nghĩ ngợi một lát, “Kể ra rất buồn cười, tôi có mấy người anh em chạy thoát được khỏi thành Nam Kinh, họ nói rằng sau khi chiếm Nam Kinh, bọn Nhật lấy dây xích buộc mũi trâu của núi Đầu Trâu, rồi cử một đại đội canh giữ ngọn núi đó... À, đúng rồi, quân sư và tiên sinh có biết núi Đầu Trâu không? Có biết vì sao lại có tên gọi như vậy không?”

“Ừm. Núi Đầu Trâu là long mạch của Nam Kinh,” Tổ Gia nói, “tương truyền năm xưa Chu Nguyên Chương chăn trâu cho nhà địa chủ, cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Một hôm đói quá không chịu nổi, ông bèn giết một con nghé nướng lên ăn. Chiều tối khi lùa trâu về, địa chủ kiểm tra phát hiện thiếu mất một con, Chu Nguyên Chương nói dối là con nghé mải ăn cỏ trong núi, không lùa về được. Địa chủ cười nham hiểm nói: ‘Trâu nhà tao chỉ cần nghe tiếng tao gọi liền đáp lại ngay, bây giờ tao vào trong núi tìm, nếu không có tiếng nghé đáp lại, tao sẽ giết mày’ Chu Nguyên Chương nghe vậy toát mồ hôi hột, thầm nghĩ lần này chết chắc rồi. Không ngờ tên địa chủ gọi to một tiếng, quả nhiên trong núi có tiếng ò ọ đáp lại, nhưng chẳng thấy nghé đâu. Sau đó địa chủ dẫn người vào núi không tìm được, đành nọc Chu Nguyên Chương ra đánh cho một trận rồi cho qua chuyện. Sau này Chu Nguyên Chương lên làm hoàng đế, mọi người đồn rằng Chu Trùng Bát là chân long thiên tử, con nghé đó bị giết nhưng vẫn phải nghe lời chân long thiên tử, do đó khi tên địa chủ gọi, hồn phách con nghé liền đáp lại. Về sau hình thế ngọn núi này có sự thay đổi, dần dần biến thành hình đầu trâu. Một lần Chu Nguyên Chương xuất cung vi hành, đi qua chân núi, bất giác ngẩng đầu nhìn, giật mình vội hỏi viên thái giám tùy tùng rằng: ‘Ngọn núi này sao lại giống đầu trâu như vậy, trông gớm ghiếc quá, hãy san phẳng cho ta!’ Thái giám nói: ‘Không nên, không nên, ngọn núi này chính là con nghé từng cứu mạng bệ hạ năm xưa biến hóa mà thành!’ Chu Nguyên Chương nghe vậy liền cho là phải. Khi ngẩng lên nhìn lại lần nữa, cái đầu trâu trên núi trông như đang mỉm cười với ông vậy, Chu Nguyên Chương giật thót, vội dặn thái giám: ‘Mau! Mau gông cái đầu trâu này lại cho ta!’ Thế là những thợ khéo trong cung bắt đầu đục một cái lỗ tại vị trí mũi trâu rồi dùng dây xích luồn qua, thấy vậy Chu Nguyên Chương mới yên tâm. Từ đó mọi người đều nói rằng, ai nắm được sợi xích trên cái đầu trâu, người đó sẽ nắm được long mạch của Nam Kinh.

Hồng lão hổ nghe xong, gãi đầu nói: Tiên sinh có tin chuyện này không?”

Tổ Gia mỉm cười: “Tôi không tin, nhưng bọn Nhật thì tin.’

Lưu Tòng Vân cũng cười: “Từ xưa đến nay, đất Trung Hoa có biết bao truyền thuyết! Quân Nhật đến xâm lược, có chiêu trò gì đều giở ra cả rồi!

Tổ Gia nói: “Đúng vậy! Tôi nghe nói, trước đó không lâu bọn chúng còn pháo kích Lão Quân đài ở Lộc Ấp, Hà Nam, nhưng bắn 13 quả không có lấy một phát nổ, khiến cho đám lính tráng ngây người khiếp sợ!”

“Đó là sự thực!” Hồng lão hổ nói, “nhân dân cả nước đều biết! Việc này thật bất bình thường, 13 quả đạn pháo đều tịt ngòi, xác suất là bao nhiêu?”

“Rất ít, ít đến mức chẳng cần tính làm gì, nhưng quả thực nó đã xảy ra, giống như chết sặc vì một ngụm nước, gãy xương vì cái hắt hơi vậy, xác suất là rất thấp, nhưng nó vẫn xảy ra trên thế gian này.” Tổ Gia cười nói.

“Ha ha!” Song đao nữ hiệp Chu Cẩn nãy giờ đứng bên cạnh bất giác bật cười, “Tiên sinh hài hước thật, hắt hơi một cái làm gãy cả xương, ha ha...” nói rồi lại cười khanh khách.

Bách bộ xuyên dương Vương Kế Khôn cũng nói chen vào: “Điều này chứng tỏ công nghiệp quân sự của lũ xâm lược Nhật Bản không tốt, hãy xem xưởng công nghiệp quân sự của Hitler, họ kiểm tra thí điểm đạn dược bất cứ lúc nào, nếu xác suất đạn xịt vượt quá một phần ngàn thì toàn bộ công nhân bị xử tử hỏa thiêu, như vậy ai còn dám chế tạo đạn xịt đây?”

Hắc diện sát tinh Lưu Học Toàn cũng góp lời: “Theo tôi nghĩ là do tổ tiên chúng ta hiển linh, đó có thể là Thái Thượng Lão Quân, bọn Nhật dù có tài giỏi cũng vẫn là người phàm trần, Lão Quân là thần tiên, ngài cưỡi mây phất cây phất trần một cái khiến cho đạn pháo rụng xuống, chỉ có điều kẻ phàm phu tục tử không nhìn thấy được mà thôi...”

“Vậy thì anh dùng phất trần tống cổ bọn chúng về Nhật đi!” Vương Kế Khôn bắt bẻ.

Được rồi, được rồi, tán huyên thuyên,” Hồng lão hổ nói, “xem ra bọn Nhật rất mê tín, ngoài tấn công quân sự, chúng còn sử dụng cả bàng môn tà đạo...”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3