Pachinko - Chương 28
Osaka, tháng Một năm 1953
Lo lắng về tiền, Sunja thức dậy từ nửa đêm để làm kẹo bán. Không ở trên giường, Yangjin đi xuống bếp.
“Con không ngủ nữa”, Yangjin nói. “Con sẽ ốm nếu con không ngủ”.
“Mẹ à, con khỏe. Mẹ vào ngủ đi”.
“Mẹ già rồi. Mẹ không cần ngủ nhiều”, Yangjin vừa nói vừa đeo tạp dề vào.
Sunja đang cố kiếm thêm để trả tiền học cho Noa. Thằng bé thi vào trường Waseda lần đầu bị trượt vì thiếu vài điểm và cảm thấy chắc chắn rằng lần tới nó có thể vượt qua kỳ thi nếu được dạy kèm thêm môn toán. Tiền thuê thầy phụ đạo quá cao. Những người phụ nữ đang cố kiếm thêm để Noa có thể bỏ việc ghi chép sổ sách mà dành toàn bộ thời gian ôn luyện, nhưng thật khó để xoay xở chi phí sinh hoạt và đơn thuốc của Yoseb bằng đồng lương của anh và số tiền họ kiếm được từ việc bán đồ ăn. Mỗi tuần, Kim đều đưa tiền phòng và tiền ăn cho họ. Anh ta cố góp tiền học cho Noa, nhưng Yoseb cấm những người phụ nữ nhận thêm của anh ta. Yoseb không cho phép Sunja nhận đồng nào của Hansu cho việc học của Noa.
“Đêm qua con có ngủ được chút nào không?”. Yangjin hỏi.
Sunja gật đầu, đặt miếng vải sạch lên trên những khoanh kẹo to làm bằng đường đen để hãm bớt tiếng chày và cối giã.
Yangjin đã kiệt sức. Ba năm nữa, bà sẽ bước sang tuổi sáu mươi. Thời con gái, bà tin rằng mình có thể làm việc chăm chỉ hơn bất cứ ai trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhưng bây giờ bà không còn cảm thấy như vậy nữa. Gần đây Yangjin cảm thấy mệt và thiếu kiên nhẫn; những chuyện nhỏ nhặt cũng khiến bà bực mình. Thường thì càng nhiều tuổi bạn càng kiên nhẫn, nhưng trong trường hợp của bà, bà cảm thấy dễ cáu giận hơn. Thỉnh thoảng khi một khách hàng phàn nàn về cỡ kẹo nhỏ, bà muốn mắng ông ta một trận. Gần đây điều khiến bà buồn bực nhất là sự im lặng không thể chịu đựng được của con gái mình. Yangjin muốn lay cô để cô mở miệng.
Bếp là phòng ấm nhất trong nhà và những cái đèn điện phát ra ánh sáng ổn định. Sát các bức tường được dán giấy, hai bóng đèn điện được gắn với trần nhà bằng các sợi dây điện tạo ra những cái bóng ảm đạm, trông giống như hai quả bầu trơ trọi treo lủng lẳng từ những dây bầu trụi lá.
“Mẹ vẫn nghĩ về những cô gái của chúng ta”. Yangjin nói.
“Dokhee và Bokhee hả mẹ? Không phải họ đã tìm được việc làm ở Trung Quốc sao?”.
“Đáng lẽ mẹ không nên để họ đi với mụ đàn bà khéo mồm đến từ Seoul ấy. Nhưng hai cô gái rất phấn khích với việc đi Mãn Châu kiếm tiền. Họ hứa sẽ quay trở về khi họ có đủ tiền để mua cái nhà trọ đó. Họ là những cô gái tốt nết”.
Sunja gật đầu, nhớ lại sự dịu dàng của họ. Cô không biết những người như thế nữa. Dường như sự chiếm đóng và chiến tranh đã làm thay đổi tất cả mọi người và giờ đây cuộc chiến tranh ở nước Hàn đang khiến tất cả mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Những con người vốn dĩ dịu hiền dường như trở nên cảnh giác và cứng rắn. Chỉ còn sự hồn nhiên ở những đứa trẻ nhỏ nhất.
“Ở chợ, mẹ nghe nói các cô gái đi để làm việc ở các nhà máy bị đưa đến nơi khác và họ phải làm những chuyện khủng khiếp, khủng khiếp với lính Nhật”. Yangjin ngừng một lát, vẫn bối rối. “Con có nghĩ chuyện đó có thể là thật không?”.
Sunja đã nghe những chuyện như thế và đã hơn một lần Hansu cảnh báo cô về những kẻ tuyển mộ người Hàn làm việc cho quân đội Nhật, hứa hẹn một cách giả dối những công việc tốt, nhưng cô không muốn mẹ mình lo lắng thêm nữa. Sunja giã đường nhuyễn hết mức có thể.
“Điều gì xảy ra nếu các cô gái ấy bị đưa đi? Để làm cái việc đó?”. Yangjin hỏi.
“Mẹ, chúng ta không biết được đâu”, Sunja thì thầm. Cô nhóm bếp lên, đổ đường và nước vào chảo.
“Đó là những gì đã xảy ra. Mẹ cảm thấy như vậy”. Yangjin gật đầu với chính mình. “Cha của con - việc chúng ta mất nhà trọ chắc hẳn khiến cha con buồn lắm - chao ôi. Và bây giờ đang xảy ra chiến tranh ở nước Hàn. Chúng ta chưa thể về nước bởi vì quân đội sẽ chiếm mất Noa và Mozasu. Không phải như vậy sao?”.
Sunja gật đầu. Cô không thể để các con trai mình đi lính.
Yangjin rùng mình. Cơn gió lạnh buốt luồn qua cửa sổ bếp châm chích làn da nâu, khô khốc của bà và bà nhét một chiếc khăn lau quanh ngưỡng cửa sổ. Yangjin kéo chiếc áo chẽn bằng vải bông đã sờn thật khít bên ngoài bộ đồ ngủ của bà. Bà bắt đầu ép đường cho mẻ kẹo tiếp theo trong khi Sunja trông nồi kẹo đang sôi lục bục trên bếp lửa liu riu. Sunja ngoáy nồi kẹo khi đường đã biến thành ca-ra-men. So với Osaka, Busan dường như giống một cuộc sống khác; Yeongdo, hòn đảo hơi nhiều đá của họ, vẫn ở trong trí nhớ của cô, trong lành và đầy nắng như không có thật, mặc dù đã hai mươi năm rồi cô chưa trở lại đó. Khi Isak cố gắng giải thích về thiên đường, cô đã tưởng tượng ra quê cô như thiên đường - một vẻ đẹp lung linh, trong trẻo. Dù ký ức về trăng ở nước Hàn dường như khác ánh trăng lạnh lẽo nơi đây; dù người ta phàn nàn bao nhiêu về những điều tồi tệ ở trong nước, thật khó cho Sunja tưởng tượng ra bất cứ điều gì ngoài ngôi nhà vững chắc, sáng sủa mà cha cô đã chăm chút thật cẩn thận bên bờ biển xanh trong như mặt gương, mảnh vườn phì nhiêu đã mang cho họ nào là dưa hấu, rau diếp, rau bí, và cái chợ không có mái che chẳng bao giờ hết những thứ tươi ngon. Khi cô còn ở đó, cô yêu nó chưa đủ.
Những tin đồn từ trong nước thật đáng sợ - dịch tả, nạn đói và tin lính bắt cóc những đứa con trai, thậm chí cả những đứa nhỏ tuổi - đến mức cuộc sống đạm bạc của họ ở Osaka và những nỗ lực thảm hại của họ nhằm xoay đủ tiền để cho Noa vào đại học dường như quá xa xỉ. Ít nhất họ đã đoàn tụ. Ít nhất họ có thể lao động để hướng tới điều tốt đẹp hơn. Chiến tranh ở nước Hàn kích thích thương mại ở Nhật và có nhiều việc làm hơn cho mọi người. Ít nhất ở đây, người Mỹ vẫn đang cầm trịch và họ có thể kiếm được đường và bột mì. Mặc dù Yoseb cấm Sunja nhận tiền của Hansu, nhưng khi Kim tìm được các nguyên liệu khan hiếm mà họ cần qua các mối của anh ta, những người phụ nữ trong nhà đều biết giữ miệng để không đặt quá nhiều câu hỏi hoặc nói cho Yoseb biết.
Ngay khi kẹo trong chiếc chảo sắt nguội, hai mẹ con họ nhanh tay cắt kẹo thành những miếng vuông vắn, đều chằn chặn.
“Ngày trước Dokhee thường trêu con vì con thái hành cẩu thả”, Sunja mỉm cười nói. “Và cô ấy không thể chịu nổi việc con rửa xoong nồi chậm như sên. Mỗi buổi sáng khi con lau sàn nhà, cô ấy nhất định nói, ‘Luôn dùng hai cái giẻ để lau sàn. Trước tiên, hãy quét đã, sau đó nhúng nước một cái giẻ sạch, rồi nhúng nước cái giẻ sạch thứ hai để lau lại lần nữa!’. Dokhee là người sạch sẽ nhất mà con từng gặp”. Khi Sunja nói những lời đó, cô nhớ khuôn mặt tròn mộc mạc đượm vẻ u sầu của Dokhee trong khi đưa ra những chỉ dẫn.
Nét mặt, thái độ và giọng nói của các cô gái ấy đều sống động. Sunja vốn không thường xuyên cầu nguyện, bèn thầm cầu Chúa che chở cho các cô gái ấy. Cô nguyện cầu rằng họ không bị đưa đi phục vụ lính tráng. Isak từng nói rằng chúng ta không thể biết được tại sao một số người lại phải chịu đựng nhiều hơn những người khác; anh nói chúng ta không bao giờ nên vội vàng đưa ra sự phán xét khi người khác chịu đựng đau khổ. Tại sao cô được miễn mà họ thì không? Cô tự hỏi. Tại sao cô ở trong căn bếp này cùng với mẹ mình khi mà rất nhiều người ở quê nhà đang chết đói? Isak từng nói rằng Chúa đã có kế hoạch của Ngài và Sunja tin rằng có lẽ trong trường hợp này cũng vậy, nhưng giờ đây cô cảm thấy được an ủi chút ít khi nghĩ về các cô gái đó. Những cô gái ngây thơ hơn cả các con trai cô khi chúng còn bé.
Sunja ngước lên nhìn, mẹ cô đang khóc. “Các cô ấy đã mất mẹ, rồi mất cha. Đáng lẽ mẹ phải làm nhiều điều hơn cho các cô ấy. Cố giúp các cô ấy lấy chồng, nhưng chúng ta không có tiền. Cái số đàn bà là số khổ. Chúng ta phải chịu khổ”.
Sunja cảm thấy rằng mẹ mình đúng khi nói rằng các cô gái đó đã bị lừa. Có thể bây giờ họ đã chết. Cô đặt tay lên vai mẹ. Tóc của mẹ cô gần như đã bạc hết, ban ngày bà búi tóc lại sau gáy theo kiểu cổ. Bây giờ là ban đêm và bím tóc bạc bé tẹo của bà buông xuống lưng. Những năm lao động dãi nắng dầm mưa đã hằn lên khuôn mặt trái xoan ngăm đen của bà những nếp nhăn sâu, trên trán và quanh miệng bà. Từ khi cô có thể nhớ được, cô nhớ mẹ mình là người đầu tiên thức dậy và là người cuối cùng đi ngủ; thậm chí khi hai chị em cô gái ấy làm việc cùng với họ, mẹ cô cũng làm việc chăm chỉ như cô giúp việc trẻ tuổi hơn. Chưa bao giờ mẹ là người nói nhiều, khi cô lớn bà có nhiều điều để nói hơn, nhưng dường như Sunja chẳng bao giờ biết phải nói gì với mẹ mình.
“Mẹ, mẹ có nhớ những lúc đào khoai với cha không? Những củ khoai của cha trông thật thích mắt. Chúng mập và trắng, trông thật ngon khi mẹ nướng chúng trong đống tro. Từ đó con chẳng có một củ khoai nào trông ngon như thế…”.
Yangjin mỉm cười. Họ đã từng có những khoảng thời gian hạnh phúc. Con gái bà không quên Hoonie, người cha tuyệt vời đối với nó. Rất nhiều đứa con của họ đã chết yểu, nhưng họ có Sunja. Con gái bà trầm tính.
“Chí ít bọn trẻ cũng được an toàn. Có lẽ đó là lý do tại sao chúng ta ở đây. Đúng vậy”. Yangjin ngập ngừng. “Có lẽ đó là lý do tại sao chúng ta ở đây”. Khuôn mặt bà rạng rỡ. “Con biết đấy, thằng Mozasu của con là đứa vui tính đáo để. Hôm qua, nó nói nó muốn sống ở Mỹ và mặc com-lê, đội mũ như trong phim. Nó nói nó muốn có năm đứa con trai!”.
Sunja bật cười, bởi vì bà nói điều đó nghe giống Mozasu.
“Mỹ ư? Mẹ đã nói gì?”.
“Mẹ bảo với nó rằng điều đó tốt thôi miễn là nó đưa năm thằng con trai về thăm mẹ!”.
Căn bếp thơm phức mùi ca-ra-men, và hai mẹ con họ làm việc một cách nhanh nhẹn và khéo léo cho đến khi ánh mặt trời tràn ngập căn nhà.
•••
Trường học là nỗi khổ sở. Mozasu mười ba tuổi và cao so với tuổi của nó. Với đôi vai rộng và cánh tay săn chắc, nó trông có vẻ đàn ông hơn cả một số giáo viên của mình. Bởi vì nó không thể đọc và viết theo trình độ của học sinh ở tuổi nó - bất chấp những nỗ lực phi thường của Noa nhằm dạy nó chữ kanji* - Mozasu được xếp vào một lớp toàn những đứa trẻ mười tuổi. Mozasu nói tiếng Nhật thành thạo như các bạn đồng trang lứa; có thể nói nó có khả năng sử dụng lời nói rất tốt, một khả năng giúp ích cho nó trong các cuộc khẩu chiến thường xảy ra giữa nó và những đứa trẻ nhiều tuổi hơn. Về số học, nó có thể theo kịp cả lớp, nhưng môn viết và đọc tiếng Nhật làm cho nó què quặt một cách tàn nhẫn. Các giáo viên gọi nó là thằng ngốc người Hàn, và Mozasu chờ thời cơ để có thể thoát khỏi cái địa ngục đó. Bất chấp chiến tranh và mọi sự thiếu thốn về học hành, Noa vẫn học xong trung học và bất cứ khi nào không làm việc, nó lại học ôn để thi đại học. Nó không bao giờ rời khỏi nhà mà không có cuốn sách luyện thi và một trong những cuốn tiểu thuyết tiếng Anh đã cũ mà nó mua của người bán sách.
Sáu ngày một tuần, Noa làm việc cho ông Hoji, một người Nhật vui tính sở hữu hầu hết những căn nhà ở khu dân cư đó. Có tin đồn rằng ông Hoji thực chất có gốc gác thuộc tầng lớp tiện dân hoặc là người Hàn, nhưng không ai nói nhiều về dòng máu đáng xấu hổ của ông, bởi vì ông là địa chủ của tất cả mọi người. Có khả năng tin đồn đầy ác ý rằng ông không phải là người Nhật chính cống có thể bắt nguồn từ một người thuê nhà bất hạnh, nhưng ông Hoji dường như không quan tâm. Là người ghi chép sổ sách và là thư ký của ông, Noa giữ các cuốn sổ cái của ông Hoji theo một trật tự không chê vào đâu được và thay mặt ông viết thư cho các quan chức thành phố bằng chữ tiếng Nhật rất đẹp. Mặc dù thường mỉm cười và hay nói đùa, riêng về tiền thuê nhà của ông thì ông Hoji không có tí nể nang, thương xót nào. Ông trả công cho Noa rất ít, nhưng nó không phàn nàn. Nó có thể kiếm tiền bằng cách làm thuê cho người Hàn ở quán pachinko* và các nhà hàng thịt nướng, nhưng Noa không muốn điều đó. Nó muốn làm việc trong một văn phòng của người Nhật và có một bàn làm việc hẳn hoi. Giống như hầu hết các chủ doanh nghiệp người Nhật, ông Hoji không thường thuê người Hàn, nhưng cháu trai của ông là giáo viên của Noa ở trường trung học, và ông Hoji, một người biết tìm những món hời, đã thuê học sinh thông minh nhất của cháu mình.
Vào buổi tối, Noa giúp Mozasu làm bài tập, nhưng cả hai đều biết điều đó là vô ích, bởi vì Mozasu không để tâm vào việc ghi nhớ chữ kanji. Như một gia sư chịu đựng vất vả kéo dài, Noa tập trung dạy Mozasu làm tính và viết cơ bản. Với sự kiên nhẫn phi thường, Noa chưa bao giờ bực mình khi Mozasu làm bài rất kém trong các kỳ thi của nó. Noa biết hầu hết các học sinh người Hàn ở trường đều thế; hầu hết chúng đều bỏ học và nó không muốn điều này xảy ra với Mozasu, vậy nên nó không tập trung vào điểm thi. Nó thậm chí bảo bác Yoseb và mẹ nó kiềm chế, không bực mình trước bảng điểm của Mozasu. Nó nói với họ rằng mục tiêu nhắm tới là đảm bảo rằng Mozasu có những kỹ năng trên mức trung bình của một người lao động. Nếu Noa không cố gắng nhiều và dạy em mình với sự quan tâm như vậy, thì Mozasu đã làm điều mà gần như tất cả những thằng bé người Hàn khác ở khu dân cư đó đã làm thay vì đến trường - đi lượm sắt vụn bán lấy tiền, bới rác để kiếm thức ăn ôi thiu về cho những con lợn mà mẹ chúng gây giống và nuôi ở trong nhà, hoặc tệ hơn, gặp phiền phức với cảnh sát vì những tội lặt vặt.
Là một học sinh, sau khi Noa giúp Mozasu, nó học tiếng Anh bằng một cuốn từ điển và sách ngữ pháp. Với sự hoán vị trong học tập, Mozasu, vốn thích tiếng Anh hơn tiếng Nhật và tiếng Hàn, thường giúp anh mình học từ mới bằng cách luyện cho Noa thuộc các từ và cụm từ.
Tại cái trường học rất tệ ở địa phương, Mozasu lang thang, lủi thủi một mình trong giờ ăn trưa và giờ giải lao. Trong lớp có bốn học sinh người Hàn khác, nhưng tất cả bọn chúng đều dùng tên đã được Nhật hóa và không chịu nói ra gốc gác của mình, nhất là trước sự có mặt của những người Hàn khác. Mozasu biết chắc chắn chúng là ai, bởi vì chúng sống cùng khu phố với nó và nó biết gia đình của chúng. Tất cả chúng đều chỉ mười tuổi, vậy nên học sinh người Hàn trong lớp đều nhỏ hơn nó và Mozasu không chơi với chúng, cảm thấy vừa khinh thường vừa tủi thân.
Hầu hết người Hàn ở Nhật có ít nhất ba cái tên. Mozasu dùng tên Mozasu Boku, cái tên được Nhật hóa từ tên gốc Moses Baek, và hiếm khi sử dụng họ Nhật là Bando được ghi trong các danh sách ở trường và giấy tờ cư trú. Với cái tên bắt nguồn từ tôn giáo phương Tây, một cái họ rõ ràng là của người Hàn và địa chỉ ở khu ổ chuột, ai cũng biết nó là gì - có phủ nhận cũng chẳng ích gì. Những đứa trẻ người Nhật chẳng thèm chơi với nó, nhưng Mozasu cóc quan tâm. Khi nó còn nhỏ, việc bị chế nhạo thường khiến Mozasu khó chịu, mặc dù điều đó khiến nó ít khó chịu hơn Noa - cậu bé đã bù đắp bằng việc làm tốt hơn các bạn cùng lớp về học tập và rèn luyện thể chất. Hằng ngày, trước khi trường học bắt đầu hoạt động và sau khi tan trường, những thằng bé to lớn hơn nói với Mozasu, “Cút về nước Hàn đi, đồ con hoang hôi hám”.
Nếu có cả một lũ những đứa ấy thì Mozasu cứ lặng lẽ bước đi; tuy nhiên, nếu chỉ có một hoặc hai đứa, thì nó sẽ đánh chúng mạnh hết sức có thể cho đến khi nó nhìn thấy máu.
Mozasu biết nó đang dần trở thành một người Hàn xấu xa tồi tệ. Các sĩ quan cảnh sát thường bắt những người Hàn vì tội trộm cắp hoặc nấu rượu lậu. Tuần nào ở khu phố của nó cũng có người gặp phiền phức với cảnh sát. Noa có thể nói rằng vì một số người Hàn phá luật mà tất cả mọi người Hàn đều bị mang tiếng. Trong mỗi dãy nhà ở Ikaino, đều có một người đàn ông đánh vợ và có các cô gái làm việc ở quán bar bị đồn là gái làm tiền. Noa nói rằng người Hàn phải tự nâng mình lên bằng cách làm việc chăm chỉ hơn và trở nên tốt hơn. Mozasu thì chỉ muốn nện tất cả những ai nói những điều hèn hạ. Ở Ikaino, có những bà già thô kệch hay chửi thề và những người đàn ông say xỉn đến mức ngủ ở ngoài đường ngay bên ngoài nhà họ. Người Nhật không muốn người Hàn sống gần họ, bởi vì họ không sạch sẽ, họ sống với những con lợn, còn trẻ con Hàn thì đầy chấy rận. Người Hàn còn bị nói là thậm chí thấp kém hơn cả tầng lớp tiện dân bởi vì ít nhất đám tiện dân cũng có dòng máu Nhật Bản. Noa bảo với Mozasu rằng các thầy giáo cũ của nó nói với nó rằng nó là một người Hàn tốt và Mozasu hiểu rằng với những điểm kém và cách cư xử tồi của mình, chính các giáo viên ấy sẽ nghĩ Mozasu là một người Hàn tồi. Vậy thì đã sao? Nếu những đứa trẻ mười tuổi khác nghĩ Mozasu ngu đần, thì điều đó chẳng sao cả. Nếu chúng nghĩ nó bạo lực, điều đó cũng chẳng sao. Nếu cần thiết, Mozasu chẳng sợ dọn hết tất cả răng khỏi miệng bọn chúng. Mozasu nghĩ, chúng mày cho rằng tao là một con vật, ừ thì tao có thể là một con vật và tấn công chúng mày đấy. Mozasu không định trở thành một người Hàn tốt. Điều đó quan trọng quái gì chứ?
Trước khi mùa xuân đến, vài tháng trước khi chiến tranh ở nước Hàn kết thúc, một thằng bé mới từ Kyoto nhập lớp của nó. Nó mười một tuổi, sắp bước sang tuổi mười hai. Haruki Totoyama rõ là con nhà nghèo và điều đó thể hiện rõ qua bộ đồng phục đã sờn và đôi giày thảm hại của nó. Nó trông cũng dẻo dai và bị cận thị. Thằng bé có khuôn mặt nhỏ hình tam giác và đáng lẽ nó có thể được những đứa khác chấp nhận, nhưng thật không may, ai đó đã tiết lộ rằng nó sống ở con phố giáp ranh giữa khu ổ chuột của người Hàn và khu dân nghèo Nhật Bản. Rất nhanh, những tin đồn lan đi, rằng Haruki là một đứa nhà quê, mặc dù không phải như vậy. Sau đó tụi nó phát hiện ra rằng Haruki có một đứa em trai có cái đầu trông giống như quả dưa lưới. Thậm chí là người Nhật, cũng thật khó cho mẹ của Haruki tìm được một nơi tốt hơn để sống, bởi vì nhiều chủ cho thuê nhà người Nhật nghĩ gia đình đó đáng ghê tởm. Haruki không có cha; điều này có thể thông cảm được nếu cha nó chết trong chiến tranh như một người lính, nhưng sự thật là khi mẹ của Haruki sinh em trai nó, người cha nhìn thấy thằng bé và bỏ đi biệt.
Không giống Mozasu, Haruki rất coi trọng việc hòa nhập và rất cố gắng, nhưng thậm chí những đứa trẻ có địa vị xã hội thấp nhất cũng không cho nó một cơ hội. Nó bị đối xử như một con chó ghẻ. Các thầy giáo theo dõi các dấu hiệu của những học sinh dẫn đầu giữ khoảng cách với Haruki. Thằng bé mới đến ấy đã hy vọng rằng trường này sẽ khác so với trường cũ ở Kyoto, nhưng rồi nó hiểu rằng ở đây nó cũng chẳng có cơ hội.
Vào giờ ăn trưa, Haruki ngồi ở cuối chiếc bàn dài với hai ghế bỏ trống ở bên trái và bên phải nó như một dấu ngoặc đơn vô hình trong khi những đứa con trai khác mặc đồng phục bằng vải len tối màu ngồi chen chúc nhau như một hàng hạt ngô đen thật khít. Không xa từ cái bàn đó, Mozasu, người luôn ngồi một mình, nhìn đứa con trai mới đến thỉnh thoảng lại cố nói điều gì đó với đám con trai kia, mặc dù, tất nhiên, Haruki chẳng hề được đáp lại.
Sau một tháng như vậy, Mozasu cuối cùng cũng nói điều gì đó với Haruki trong phòng vệ sinh.
“Tại sao bạn cứ cố làm cho những đứa ấy thích bạn thế hả?”. Mozasu hỏi.
“Mình làm gì có lựa chọn nào?”. Haruki đáp.
“Bạn có thể bảo chúng xéo đi và sống cuộc đời của bạn”.
“Vậy thì bạn có cuộc đời kiểu gì?”. Haruki hỏi. Cậu không cố ý thô lỗ; cậu chỉ muốn biết liệu có sự lựa chọn nào hay không.
“Nghe này, nếu người ta không thích bạn, thì đó chẳng phải luôn là lỗi của bạn đâu. Anh mình nói với mình như vậy”.
“Bạn có anh trai à?”.
“Ừ. Anh ấy làm việc cho ông Hoji, bạn biết đấy, ông ấy là địa chủ”.
“Anh của bạn là anh chàng đeo kính đó hả?”. Haruki hỏi. Ông Hoji cũng là người cho gia đình Haruki thuê nhà.
Mozasu gật đầu, mỉm cười. Nó tự hào về Noa, người đã tạo được hình ảnh ấn tượng ở khu dân cư đó. Tất cả mọi người đều khâm phục anh nó.
“Mình nên trở lại lớp”, Haruki nói. “Nếu vào muộn, mình sẽ gặp rắc rối”.
“Bạn là đồ nhát gan”, Mozasu nói. “Bạn thực sự bận tâm nếu thầy giáo la mắng bạn sao? Thầy Kara thậm chí là đồ nhát gan hơn bạn”.
Haruki nuốt khan.
“Nếu bạn muốn, mình sẽ để bạn ngồi với mình trong giờ ra chơi”, Mozasu nói. Nó từng đưa ra một đề nghị như thế, nhưng nó không nghĩ mình có thể chịu đựng nổi, nếu Haruki cố nói chuyện với những đứa đáng khinh kia một lần nữa và lại bị từ chối. Chỉ theo dõi những cố gắng của nó cũng thấy khổ sở và ngượng cháy mặt rồi.
“Thật ư?”. Haruki nói và mỉm cười.
Mozasu gật đầu và thậm chí sau này khi hai người đã trở thành đàn ông, không ai quên họ đã trở thành bạn của nhau như thế nào.