Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 52

52

Thỏ chết nướng chó, nhốt công thần,

Cung tốt bỏ đi bảo vệ người tài

Thánh chỉ bắt Cận Phụ mười ngày sau đã tới Thanh Giang. Vừa lúc từ tháng bảy tới nay khai thông sông giữa, hồ Lạc Mã tưới nước, toàn bộ tham sự, quan viên phủ đốc sông Thanh Giang đều ra quân ngồi thuyền quan đến An Đông xem lễ. Từ khi có sông đào đến giờ, ngoại trừ lúc Trần Tuyên đào cửa Thanh Khẩu vào đầu nhà Minh, trước nay chưa hề có công trình nào to lớn như thế. Ven bờ Hoàng Hà một trăm tám mươi dặm, tập trung mười vạn dân công, làm ròng rã trong năm năm, tiền bạc bỏ ra vô số, công trình ven sông cuối cùng coi như hoàn thành, tảng đá nặng đè trên ngực Cận Phụ coi như được tháo gỡ, cùng với mấy người thuộc hạ Trần Hoàng, Phong Chí Nhân, Bành Học Nhân, người nào cũng cắt tóc cạo râu, mặt mày hớn hở, xuống thuyền lên đê ngóng nhìn xa xa về phía bắc. Chỉ thấy con đê đá như một sợi dây đen, người tập trung hai bên bờ sông đào đông như kiến, nhìn ngút mắt: người ta đến xem mở nước ra sông giữa. Trần Hoàng nhìn thấy ông già Mướp đắng mặc bộ đồ vải xanh mới toanh, dẫn theo con cháu đứng gần đám người, bèn đi tới, cười nói: “Cụ Hoàng, lâu không gặp cụ, công trình này xong rồi, chúng con không còn được uống nước trà của cụ rồi!”

“Ông Trần đấy à!” ông Hoàng Mướp đắng mặt cười hớn hở, vội vái chào, nói: “Từ năm ngoái tôi đã đến công trường Sơn Dương nấu nước, thấy ngài bận rộn, tuy có qua lại chỗ đó, nhưng không dám quấy rầy ngài. Mấy năm nay theo công trình sông dành dụm được ít tiền, ông cháu chúng tôi đã bàn bạc rồi, sẽ đi buôn bán trên thuyền, mua đồ sành sứ hồ Lạc Mã đưa xuống Nam Kinh, sông giữa này mở ra, khỏi phải đi trên Hoàng Hà, đó chẳng phải là công đức của quan Cận và ngài sao?” Trần Hoàng đang định hỏi sao ông không làm ruộng, bỗng nhớ tới việc đồn điền, bèn ngừng lời, chỉ cười nói: “Buôn bán cũng không tồi, buôn bán đồ sành sứ cũng nhất bản vạn lợi đấy”. Con trai ông Hoàng không chịu thua Trần Hoàng, anh cười nhạt nói: “Nếu như trả đất bồi lại cho chúng tôi, thì có ma mới muốn đi buôn bán!”

Trần Hoàng bị anh ta chen ngang đứng ngây ra, đang định nói thì ở cống Quảng Tế trên thượng du tiếng pháo nhất loạt nổ đì đùng, đã mở cống xả nước. Nước Hoàng Hà gầm réo chảy vào dòng sông giữa, cuốn theo những mảnh gỗ và cỏ lá ở lòng sông. Dân công hai bên bờ hoan hô rầm rầm, tung cao lên trời những cái ky, sọt, mũ, nón. Xúc động, phấn khởi, mặt họ đỏ lên, có người kêu to “sông giữa thông rồi”, có người hô “A di đà Phật”; có người gào “Đức Hoàng đế Vạn tuế”! Tiếng reo hò inh tai. Cảm giác không vui ở Trần Hoàng lập tức biến mất, anh bước nhanh tới trước mặt Cận Phụ, xúc động kéo tay ông ta nói to: “Có nước rồi, có nước rồi, đại nhân, ngài xem, đến hơn nửa máng! Đi thuyền tốt lắm!”

Cận Phụ cười không ngớt, ông chăm chú nhìn sông giữa dòng nước đang từ từ dâng cao, không muốn rời mắt một chút nào, một lúc lâu mới nói: “May mà có chú, may có ông Phong, ông Bành! Mười năm gian khổ mới được kết quả này. Nhất định ta tâu lên Hoàng thượng cất nhắc các ngươi!”

“Tôi không muốn làm quan!” Trần Hoàng đứng trên bờ đê để mặc gió thu thổi tốc vạt áo lên cao, không hiểu vì sao, anh bỗng nhớ tới A Tú, vất vả nửa đời người, toàn bộ tâm huyết đều dồn hết vào số đất bùn dưới chân và dòng nước sông giữa đang chảy xuôi, đến nay vẫn cô đơn một mình. Nhớ lại việc riêng của mình thì đã người già hoa héo! Rất lâu, Trần Hoàng mới thở dài than, “Cuốn Hà phòng thuật yếu của ta vẫn còn là bản thảo, mấy năm nay không có thì giờ sửa chữa, nếu làm quan, cuốn sách này sẽ cũ vàng, chẳng phụ lòng ta lắm sao?” Vừa nói hai dòng nước mắt tràn mi chảy ra. Phong Chí Nhân và Bành Học Nhân năm ngoái được thưởng chóp mũ tứ phẩm, đang còn nóng lòng muốn làm quan, nên không hiểu được tâm tư anh, chỉ nói tràn đầy phấn chấn: “...Đài Loan lấy về là biển lặng, đường sông nhất định là sông trong, biển lặng sông trong, thiên hạ thái bình, chúng ta cũng được hưởng mấy năm hạnh phúc!” “Đường sông mới mở không thể coi là sông trong”, Trần Hoàng cười nói xen vào: “Hoàng Hà chỉ cần trồng nhiều loại cây ở vùng Thiểm Cam, nhất định sẽ trong thật đấy!”

Đang nói thì thấy lính trong dinh cưỡi ngựa theo bờ đê phóng như bay tới, thở hổn hển bẩm “Cận trung thừa, thượng thư Y Tang A từ kinh tới, vì không đợi được ở trong nha đã ngồi kiệu đến đây, bảo nhỏ tôi tới bẩm trước một tiếng”.

“Không nói có việc gì sao?” Cận Phụ ngớ người hỏi.

“Nói có ý chỉ”, anh lính đáp, “Ý chỉ gì nhỏ tôi không dám hỏi”.

Cận Phụ nhìn ra phía xa, thấy dù rồng vàng che chiếc kiệu to tám người khênh từ từ đi tới, vội vàng sửa áo mũ chuẩn bị tiếp khâm sai. Ông quay đầu nói với Trần Hoàng: “Nhất định Hoàng thượng nhận được sớ tâu khai thông sông giữa, chọn ngày mở nước này ban bố ân chiếu. Ngươi không muốn làm quan, chỉ sợ phú quý trói buộc người, cũng không do ngươi định đoạt!” Bây giờ chiếc kiệu đã từ từ đặt xuống ở phía dưới đê, Y Tang A khom lưng bước ra, từng bước nặng nề bước lên bờ đê, bá tánh chung quanh đã bị xua đi từ sớm, nhưng quang cảnh này ai không muốn xem, chỉ đứng xa xa vây quanh thành một bức tường người, chăm chú nhìn sang bên này.

“Cận Phụ tiếp chỉ!” Y Tang A lên bờ đê, mệt muốn đứt hơi, trấn tĩnh lại, nói to.

“Thần Cận Phụ cùng lĩnh thánh dụ”, Cận Phụ dẫn người trong dinh thự quỳ xuống một vùng lớn, nhìn thấy sắc mặt Y Tang A, trong lòng không khỏi nghi ngờ, “khấu thỉnh Vạn tuế kim an!”

“Thánh cung an!” Y Tang A nói to “Có chỉ hỏi Cận Phụ, ngươi trong đồn điền bốn vạn khoảnh, số ruộng đất bồi có chủ cộng chiếm bao nhiêu? Ngươi nói sông dưới đê hẹp, có thể phòng nước biển chảy ngược, nay nước biển vẫn còn chảy ngược, nguyên nhân vì sao? Bảo Cận Phụ cứ thực mà tâu về!”

Mở đầu đã hỏi, giọng nói thì không lành, Cận Phụ không biết thế nào, ông nhìn chằm chằm Y Tang A hồi lâu, mới nghẹn ngào cúi lạy đáp: “Trong số đồn điền ước có một phần ba, vốn thuộc ruộng có chủ, tạm làm đồn điền nuôi sông, đợi cho chủ ruộng chuộc lại. Đê hẹp sông dưới còn công đoạn cuối chưa xong, nên triều đêm có lúc còn chảy ngược, nhưng không gây hại lớn, cho thần tu sửa hoàn tất, có thể bảo đảm khỏi phải lo lắng...” Y Tang A gật đầu nói: “Đã tâu như vậy, bản khâm sai sẽ chuyển nói lại với Thánh thượng. Thánh chỉ hỏi: Năm Khang Hy thứ 19 Cận Phụ đưa tiền băng kính (tiền quan địa phương gửi tặng quan kinh sư để bổ sung số bổng lộc ít ỏi không đủ) cho Minh Châu hai vạn lượng, có hay không? Số bạc đó lấy ở đâu? Ngươi Cận Phụ cứ thực mà tấu lên, nếu có che dấu, thì tội ngươi không thể dung tha!” Câu hỏi này giống như tiếng sét giữa trời trong, mặt Cận Phụ bỗng chốc tím tái. Lúc đó Phật Luân, môn sinh của Minh Châu làm thiếu hụt kho bạc bị hạch tội, Minh Châu viết thư xin giật tạm công trình sông hai vạn bạc. Hai người Cận Phụ và Bành Học Nhân bàn nhau rút ra hai vạn trong số bạc dư của đập Quy Nhơn đưa đi, cũng là việc đường cùng hết cách, không ngờ Hoàng đế lại hỏi. Cận Phụ như người sợ sét, đờ đẫn lạy đáp: “Việc này khó thoát khỏi con mắt tinh anh của Hoàng thượng, quả thực nô tài rút ra từ số bạc dư công trình sông cho Minh Châu giật tạm, chứ không phải là băng kính, xin Hoàng thượng minh xét!”

“Ừm”. Y Tang A hỏi xong, thấy người trên thuyền mang ghế tới bèn ngồi xuống, thay đổi sắc mặt, cười nói: “Ông Cận, ông ở bên ngoài không biết tình hình trong triều thay đổi. Ngày mồng 8 tháng 9, Minh Châu bị tịch thu nhà. Việc liên can đến ông, Hoàng thượng không thể không hỏi. Tôi đến nha mới biết, công trình sông đã hoàn thành, xem ra quả nhiên không tồi. Tội là tội, công là công, Hoàng thượng sáng suốt xem xét không phụ công của ông đâu. Hai mục trên, e rằng ông phải theo người anh em cùng về kinh trình bày trước mặt Hoàng thượng. Nhưng hai việc đồn điền, sông dưới, quả là túc hạ dùng nhầm kẻ cướp, đến nỗi nhiễu dân tạo nên sai lầm lớn. Xin ông lập tức xử trí, người anh em về kinh đương nhiên nói giúp cho ông”.

Cận Phụ đã giận điếng người, ngơ ngác hồi lâu, rồi hỏi: “Xử ai? Ai là kẻ cướp?”

“Trần Hoàng!” Y Tang A không cần suy nghĩ, lập tức trả lời: “Đề xướng đồn điền không phải hắn sao? Quả thực là tên tiểu nhân mọt nước hại dân! Tiểu nhân mà có tài không bằng quân tử mà vô tài!”

Mặt Cận Phụ tái nhợt, gân xanh trên trán co giật, ông mím chặt môi, từ trong kẽ răng phun ra một tiếng cười gượng: “Đồn điền nuôi sông, sông dưới bọc đê, đều do một mình tôi lãnh chịu, xin khâm sai xử trí!” Bành Học Nhân ưỡn người ra, nói: “Y trung đường, việc này không can hệ gì với Cận đại nhân và Trần Hoàng, chỉ một mình tay tôi làm ra!” Phong Chí Nhân không nén nhịn nổi cũng nói to: “Xin đại nhân nắm vững đạo công bằng, Trần Hoàng tương tán trị sông có công không tội, xử trí như vậy rất khó làm dân phục!” Bành Học Nhân là người lâu năm trong quan trường, trước nay cương trực dám nói, Cận Phụ không cảm thấy gì, nhưng Phong Chí Nhân xưa nay nhu nhược sợ việc, nay cũng dám nói thẳng bênh vực lẽ phải, Cận Phụ bỗng thấy bất ngờ. Lại thấy Trần Hoàng từ từ gỡ cái chóp mũ ra, đưa sang cho tên lính. Sắc mặt anh bình tĩnh, như mới vừa thức giấc, anh cười dửng dưng nói: “Tình cảm của Cận trung thừa và hai vị tôi xin nhận, nhưng cần gì mọi người phải làm rối việc lên vậy? Sông trị tốt rồi, đúng là lúc nhàn tản viết sách, nhẹ nhàng không vướng mắc vào quan chức thật hợp với sở nguyện của tôi. Cầu nhân được nhân, tôi chẳng sao cả!”

“Hoàng thượng nói tiểu nhân kết bè đảng cành gốc đan chen khó gỡ, quả nhiên không sai!” Y Tang A cười lạnh lùng nói: “Quả thật một người gặp nạn, mọi người cùng gánh! Đã như vậy, ông Cận về nha làm việc bàn giao đi sau, ba người này hôm nay tôi đưa đi!”

“Giao cho ai?” Cận Phụ nhìn nước mùa thu lênh láng không bờ không bến, ngơ ngác hỏi, ánh mắt thất thần, ngay cả bản thân cũng không rõ là mộng hay là mơ, cũng không biết mình đang nghĩ gì?

Y Tang A khoát tay ra lệnh đem ba người Trần Hoàng đóng gông lớn, mặc áo vàng bịt mặt, giải lên thuyền quan của Cận Phụ, quay đầu vái Cận Phụ một vái, nói: “Tử Hoàn, giữ gìn sức khỏe, người anh em ở kinh không có rượu mời, mượn chiếc thuyền này của Cận Phụ, tôi xin cáo biệt, còn người đến tiếp nhận chức đốc sông, có lẽ là Chấn Giáp, có khâm sai khác truyền chỉ cho ông ta, e rằng nay mai sẽ đến nha nhận việc!” Nói xong bước lên tấm ván lên thuyền, rồi lải nhải căn dặn gì rất lâu, Cận Phụ không nghe được lời nào.

Thuyền quan xuất phát, ven theo con sông giữa vừa khai thông từ từ đi về hướng bắc, ba vị quan phạm tội thần sắc vui vẻ ngồi bên khoang, hàng vạn bá tánh đứng hai bên bờ nhìn theo, vắng lặng không nghe cả một tiếng ho, bầu không khí nặng nề đè nén làm con người như không thở nổi. Không biết ai hô to giọng buồn bã: “Trần Hà Bá trở lại...” lập tức nổi lên một tràng tiếng khóc sướt mướt.

Cận Phụ vội vàng đến Bắc Kinh, gặp lúc đang có tuyết đầu mùa. Tuyết rơi không lớn, nhưng giống như những hạt cát nhỏ đập vào vành mũ kêu lào xào, gió quất tuyết vào mặt, làm cho mặt đã đỏ lại đau. Ông là “quan phạm tội”, không muốn gây phiền cho người khác, tự mình tới bộ Lại báo tên, sau đó tới hẻm Dưa gà tìm một gian phòng sạch sẽ nghỉ trọ, liền nhận được dụ mời, lệnh cho ông sáng mai trình thẻ, Khang Hy gặp ông ở điện Dưỡng Tâm. Tối hôm đó có mấy bạn tốt đồng niên đội tuyết đến gặp. Trong lúc đau buồn vắng lặng có được tình người như vậy, Cận Phụ bất giác cảm kích rơi lệ, đàm đạo mãi đến canh ba mới tản ra về.

Một đêm không ngủ, hôm sau thức dậy, tuyết to hơn, tô điểm cả một tòa thành Bắc Kinh trở nên trong ngọc trắng ngà. Nhưng Cận Phụ còn lòng nào mà thưởng tuyết, ông ăn qua quít mấy miếng điểm tâm, cũng không ngồi kiệu quan, mà thuê một con lừa đi tới cửa Tây Hoa. Ông cần băng làm lạnh bớt đầu óc ông nóng rực vì phải nghĩ ngợi quá nhiều.

Vừa tới cửa Tây Hoa đã thấy đại A ca Dận Đề từ trong đi ra. Mấy năm không gặp đã lớn lên thành một công tử trẻ tuổi mặt thanh mày tú. Cận Phụ bỗng nhớ tới, mẹ chàng là em họ của Minh Châu, vội lên trước vái chào lạy nói: “Xin thỉnh an Bối lặc!”

“Ừ. Có phải Cận Phụ đó chăng?” Dận Đề mỉm cười nói, “Gặp Hoàng thượng phải không? Bây giờ vua đang ở trong điện Dưỡng Tâm, ông vào đi!” Cận Phụ đang định hỏi thêm thì Dận Đề đã đi rồi. Đang ngơ ngác, thì Tứ A ca cũng ở trong đi ra, cũng có biết Cận Phụ. Dận Chân tuổi mới mười hai, mặt béo phệ, trông rất phúc hậu, thấy Cận Phụ đứng ngơ ngác, bèn dừng chân nói: “Cận Phụ đó à! Trời lạnh thế này, xem cái gì vậy?” vừa nói vừa chớp cặp mắt đen láy. “Tứ gia hả!” Cận Phụ vội làm lễ nói, “Vừa rồi Đại A ca đi ra, còn sớm thế này các ông đi đâu?”

“Ông đâu có biết, từ lúc năm tuổi, mỗi ngày mới canh tư, chúng ta đã phải vào trong học, bây giờ mới xong buổi học sớm”. Dận Chân nói xong định đi, nhưng dừng lại hỏi: “Nghe nói vụ án Minh Châu liên lụy tới ông, có đúng không?” Cận Phụ thấy Dận Chân quan tâm như vậy, bất chợt mủi lòng, vội cúi đầu đáp: “Cũng do hạ quan làm việc bất cẩn, làm cho trời giận, nhưng thuộc hạ của tôi có tội gì mà bắt đưa tới miếu ngục thần. Tôi trình thẻ vào cầu xin Hoàng thượng...” “Ông nói tới Trần Hoàng phải không?” Dận Chân suy nghĩ một lát rồi nói, “Tôi nghe sư phụ Thang Bân nói hình như một người tài cán, đáng tiếc hành động không cẩn thận đã bị ngã nhào. Ta khuyên ông không nên dây vào việc người khác, mà phải nói cho Hoàng thượng biết rõ việc của ông với Minh Châu, sẽ tốt hơn”.

Cận Phụ lắc đầu nói: “Bẩm Tứ gia, Cận Phụ không dám bán bạn để cầu yên thân. Trần Hoàng quả thật oan ức!” Dận Chân mỉm cười nói: “Tấm lòng ông không phải là không tốt. Nhưng ông cứu không được hắn, hắn và...” nói tới đây, Dận Chân im lặng, quay đầu nhìn nội cung đã phủ tuyết trắng xóa. Trong khoảnh khắc Cận Phụ đã hiểu, rõ ràng là có người nói ra việc xưa giữa Trần Hoàng và A Tú! Vậy thì cứu làm sao? Đang suy nghĩ thì Dận Chân đã bước tới một bước, cười nói: “Ông cũng đừng nên đoán người này người nọ, người mách lẻo không ít đâu! Ông đi gặp Hoàng thượng đi, có gì khó tới cung Ung Hòa tìm ta, ta không sợ những chuyện bậy bạ đó. Hôm qua bộ Hình bắt được cử nhân Ô Tư Đạo gây chuyện ở trường thi Giang Nam năm đó, ta đã bảo lãnh - hai chân đều đứt, hắn có bao nhiêu tội đều phạt hết! A di đà Phật!” Vị hoàng tử này sùng Phật, nói tới đây, chắp hai tay thành kính niệm Phật, rồi mới lệnh cho kiệu đi. Bây giờ Cận Phụ mới giở thẻ bài ra, đi thẳng tới điện Dưỡng Tâm.

Có lẽ bên ngoài điện giũ tuyết không sạch, vừa bước vào điện, lò sưởi tỏa nhiệt nóng phừng phừng, Cận Phụ cảm thấy tuyết chảy nước ngứa ngứa nhỏ giọt xuống cổ, ông cúi đầu lạy, không dám động đậy. Liếc mắt nhìn thấy cả hai người Cao Sĩ Kỳ, Sách Ngạch Đồ đều có mặt, im lặng đứng nghiêm trang bên cạnh Khang Hy.

“Ngươi đến rồi à?” tiếng lật giấy xào xào, Khang Hy xếp tập sớ tâu lại, nói, “Đứng dậy, đứng sang bên kia!” Cận Phụ nghe giọng Khang Hy hình như không nghiêm khắc lắm, hơi cảm thấy yên tâm, vội lạy tạ ơn rồi đứng lên. Bây giờ mới dám đưa mắt nhìn Khang Hy. Khang Hy mặc một áo khoác lông dê lót lụa Thạch thanh, cái mũ cao da hải long lót lụa đặt trên bàn, bím tóc đen lánh kết nút vàng sáng tùy tiện quấn quanh cổ, tỏ ra rất phong lưu nhàn nhã. Khang Hy không để ý Cận Phụ, chỉ hỏi Sách Ngạch Đồ: “Vụ án Minh Châu, qua sớ tâu của Bạch Minh Kinh, sự tình càng ngày càng rối rắm, trong đó lại dây tới việc của Thái tử! Trẫm đi cửa Cổ Bắc, hắn ở kinh vào triều, thấy Thái tử không làm lễ vua tôi, khanh lúc đó tại triều có thấy không?”

Sách Ngạch Đồ cúi mình cười theo nói: “Sự việc không chỉ bấy nhiêu, Thái tử ngự cửa Càn Thanh nghe chính sự, Minh Châu cưỡi ngựa tới cửa Long Tông mới xuống ngựa, còn có Đại A ca đi theo. Hùng Tứ Lý lúc đó còn nổi nóng trách mắng, nói là Hoàng thượng tuy vắng mặt nhưng đối với người thừa kế quốc gia cũng phải kính trọng, làm sao lại phóng túng như vậy? Việc đó nô tài không có mặt, chỉ nghe các thái giám nói lại, Hoàng thượng hỏi Hùng Đông Viên thì biết ngay thôi”. Cao Sĩ Kỳ cười thầm trong bụng, trên mặt lại tỏ vẻ phẫn nộ, nói: “Tham ô lộng quyền, lại thêm một tội đại bất kính, con người Minh Châu thật đáng ghét, nhất định không thể tha tội!”

Khang Hy tay cắp sau đít, đi hai bước, bỗng cười nhạt một tiếng, nhìn chằm chằm Cao Sĩ Kỳ một hồi lâu, nói: “Minh Châu không thể tha, ngươi Cao Sĩ Kỳ có tha được không? Trước khi tịch thu nhà, nghe nói Minh Châu có đến thăm ngươi, các ngươi ngồi với nhau nói những chuyện gì? Trong danh mục tịch thu có bức hoành ngươi tặng, viết chữ ‘mục ái’! Ngươi chẳng phải không cùng một đảng với Minh Châu?”

“Vạn tuế!” Cao Sĩ Kỳ quỳ cái rụp xuống đất, nói: “Đêm trước khi tịch thu nhà, Minh Châu quả thật có tìm thần bảo thần giúp hòa giải trước mặt Hoàng thượng, thần không chịu, chỉ bảo ông nhận tội, sớm giao tang vật, chứ chẳng nói gì khác...”

Khang Hy rút từ trong tập sớ thật dày ra một tờ giấy, mở ra, mọi người xúm lại xem, quả có hai chữ “mục ái”. Khang Hy lạnh lùng hỏi: “Cái này nói sao? Giao thiệp với đại thần, bạn tỉ như gian, thân phận như ngươi vì sao đi ôm chân thối của Minh Châu?” Cao Sĩ Kỳ hoảng hốt lạy đáp: “Bẩm Hoàng thượng, Minh Châu đương quyền cần chữ, nô tài cũng khó từ chối. Xin Hoàng thượng xem kỹ, hai chữ này thực ra là ‘thu thụ’, cũng là cùng cực không cách nào khác...” Khang Hy ngơ ngác, xem kỹ lại, nét chữ thảo “mục ái” viết như rồng bay phượng múa, xem nét bút, rất giống chữ “thu thụ” là thu nhận hối lộ, bất giác phì cười, nói: “Ngươi là tên cẩu tài quen mắng chửi người, lại cho ngươi thoát qua một cửa, cút ngay!” Nói xong, liền trở lại nghiêm nghị, nhà vua trầm ngâm, nói: “Trẫm vốn không muốn xử nặng Minh Châu, không ngờ hắn dấu Trẫm làm bao nhiêu việc bậy bạ. Đọc sách không đi theo đường ngay, mà chuyên môn dùng để đối phó Trẫm, đáng ghét! Trẫm xem bản của Bạch Minh Kinh, nhất định là Minh Châu bày vẽ cho để vạch tội, muốn đem lỗi của một người hắn đưa lên thành tranh giành phe cánh. Quả là coi thường Trẫm lắm. Hồi trước, Nghiêm Sùng chẳng đã dở trò này sao? Hừm!” Nói xong ném bản tâu lên bàn, ngồi xuống uống một ngụm trà, rồi bỗng nhiên đứng lên đi quanh phòng, bàng hoàng mấy bước, xem ra trong lòng vô cùng mâu thuẫn, ngẫm nghĩ cả buổi, ngước mặt gọi ra bên ngoài: “Tức khắc truyền chỉ, cách chức Minh Châu chức Thị vệ nội đại thần, hành tẩu phòng dâng thư, hàm thượng thư. Lưu nhiệm Tản trật đại thần, theo ban hầu việc!” Vốn định lập tức giết ngay Minh Châu, trong một khoảnh khắc, Khang Hy đã thay đổi ý định, nhà vua còn muốn để xem lại, muốn ngẫm nghĩ thêm.

Cận Phụ quậy cựa trong lòng bất an, bây giờ mới biết, hôm nay Khang Hy bàn bạc với các đại thần phòng dâng thư cách xử trí Minh Châu như thế nào. Ông ngầm kinh ngạc sự suy tư thông minh đặc sắc của Khang Hy, nhưng xử lý nhẹ như vậy ông không hiểu nổi. Đang suy nghĩ lung tung, thì Khang Hy quay mặt lại hỏi: “Cận Phụ, Minh Châu làm nhiều điều bậy bạ như vậy, trước đây ngươi có biết không?” Đầu Cận Phụ kêu oong oong, ông vội quỳ xuống, không biết trả lời như thế nào.

“Không biết hả?” Khang Hy bực mình nói, “Trẫm tưởng ngươi là người thực thà, không ngờ ngươi lại phụ lòng Trẫm như vậy, thật dễ sợ!” Nói xong ném ra một tập vở dày cộp, “Đây là biên lai tịch thu nhà Minh Châu, ngươi xem đi, người như thế đáng giết hay không đáng giết, ngươi đáng tội gì?”

Mặt Cận Phụ không còn sắc máu, tay run run mở quyển sổ ra xem, thấy viết chi chít:

Biên lai thu nhà Minh Châu

Khâm tứ vương phủ một tòa, đình đài 27 nhà, cộng 340 gian phòng, vườn hoa 1 vườn, ruộng đất 2000 khoảnh. Cửa hàng cầm đồ 3 nơi, vốn gốc 24 vạn lượng. Kho vàng tồn kho 21000 lượng. Kho bạc Nguyên bảo 23000 đồng, thỏi Kinh một triệu thỏi, thỏi Tô 70 vạn. Kho tiền tiền đúc một triệu 70 vạn đồng, đĩnh ngọc 10 cái, khánh ngọc 10 cái, như ý nạm ngọc 405 cây, đá quý ánh lam 10 cục, bình phong bát bảo viền vàng 5 cái, chén bạc 72 cái, đũa nạm vàng 100 đôi, đỉnh đồng cổ 11 cái, kiếm cổ 1 cái, giấy Tống 1000 xấp, Nghiên Thụy 451 cái, cây san hô bốn nhánh cao 3 thước 6 tấc, chuông viền vàng khảm ngọc 1 cái, gấm vóc lụa là 5200 xấp, da chồn trắng 62 tấm, da chồn nguyên 250 bộ, da chuột tía 400 bộ, đồng hồ chuông to 5 cái, đồng hồ chuông nhỏ 70 cái. Châu báu, vàng bạc, châu triều, tạp bội, trâm xuyến... cộng 1 vạn 11 chiếc....

Phía dưới còn một danh mục vật phẩm dài, kê rõ mỗi vật do người nào tặng và kèm lời ghi chú. Cận Phụ thấy tên mình xuất hiện ba bốn lần, bất giác mồ hôi đầm đìa, không biết là xấu hổ hay là kinh sợ. Sau khi đọc hết, ông nằm phục xuống đất một hồi lâu không dám ngẩng đầu.

“Xem ra ngươi vẫn còn biết sợ hãi”. Khang Hy đưa mắt nhìn Sách Ngạch Đồ và Cao Sĩ Kỳ, nói, “Đây còn có chỗ đáng tha thứ. Phải biết trời gây nghiệp chướng còn có thể sống, chứ tự gây nghiệp chướng thì không thể sống! Người vốn là người có tài, việc sông trị được như vậy, vốn đáng ghi công, ai ngờ ngươi chui vào dưới trướng Minh Châu? Ngày ngươi rời kinh, Trẫm căn dặn ngươi thế nào!”

Cận Phụ nhớ lại ngày đó Khang Hy hết sức bảo đảm nói dùng người thì không nghi, lại nghĩ tới hoàn cảnh khốn khổ của mình bị kẹp vào giữa hai đảng Sách, Minh, bất giác thở dài, nước mắt tuôn chảy ròng ròng. Ông lạy nói nghẹn ngào: “Quả là nô tài có phụ thánh ân, xin Chúa thượng trị tội nặng để giữ gìn kỷ cương triều đình. Nhưng nô tài dù có chết cũng có một lời bẩm lên Chúa thượng, trăm sai ngàn lỗi chỉ do một mình nô tài, Phong Chí Nhân ba người có công tích chứ không có làm điều gì sai...”.

“Ngươi muốn nói Trần Hoàng?” Khang Hy cười mỉa mai, “Ngươi là ốc không mang nổi mình ốc còn muốn bảo lãnh cho người khác! Vụ án Minh Châu Trẫm tạm không trị tội, không phải là buông tay. Ngươi đã bị cách chức, ở kinh đợi sai bảo, hãy nên nghĩ nhiều đến việc của ngươi! Ai nghĩ Trẫm là ông vua có thể lừa dối được thì cứ chờ mà xem, các ngươi lui ra hết đi! Có phải Cao Sĩ Kỳ tiến cử Trương Đình Ngọc vào thảo chiếu ở phòng dâng thư không? Ngày mai bảo anh ta vào đây, Trẫm phải khảo xem học thức, phẩm hạnh anh ta!” Nói xong vén rèm đi vào nội cung.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3