Hồi ký Lý Quang Diệu - Chương 09

9

THẾ GIỚI NHỮNG NGƯỜI HÁN
HỌC

Bước
làm quen của tôi với thế giới những người Hán học xảy ra sau một biến cố được
gọi là 5–1–3, đặt tên theo những vụ biểu tình gây rối vào ngày 13/5. Năm
học sinh đến nhà tôi vào một buổi tối năm 1954, ngay sau vụ xử tờ Fajar, gồm
Robert Soon Loh Boon, một thanh niên nhỏ con, tóc húi cua và sún răng cửa, đóng
vai thông dịch và phát ngôn viên của nhóm, Louis Hwa, có khả năng Anh ngữ, cùng
ba cô gái người Hoa tóc thắt bím. Các cậu mặc quần sooc, các cô mặc váy, kiểu
đồng phục học sinh của họ. Bảy học sinh bọn họ đã bị kết tội cản trở cảnh sát
trong những cuộc biểu tình lôi cuốn tới 500 học sinh các trường tiếng Hoa, chủ yếu
là trường Trung học Chung Cheng, và họ đã xô xát với cảnh sát. Họ đang tiến
hành biểu tình để ủng hộ một nhóm đại diện trên đường tới Tòa nhà Chính phủ để
trình một kiến nghị phản đối việc đăng ký quân dịch thì bị chặn lại và yêu cầu
giải tán. Họ đã ném đá vào cảnh sát, sáu cảnh sát còn bị đâm bằng dao. Cảnh sát
dùng dùi cui phản công và đánh một số học sinh. Có 26 người bị thương; 48 học
sinh, trong đó có hai nữ, đã bị bắt giữ.

Phiên
tòa được tổ chức ngày 28/6. Trong số 41 học sinh bị truy
tố về tội không chấp hành lệnh giải tán của cảnh sát, 26 học sinh bị kết
tội và lĩnh án sáu tháng tù treo. Bảy học sinh bị truy tố nặng hơn vì tội
ngăn trở cảnh sát thi hành công vụ. Họ đã yêu cầu được xét xử ở một tòa khác vì
chánh án tỏ ra có thành kiến trong cách ông xét xử và kết án các
bạn của họ trong ngày hôm trước. Họ từ chối không tự bào chữa gì cả và bị kết
án ba tháng tù, mức án cao nhất cho tội danh này. Tòa sẽ xét đơn kháng cáo của
họ vào tháng 10. Tôi nên nhờ Pritt lo vụ kháng cáo cho họ không?

Sự
thách thức pháp luật của họ là mối quan tâm trước mắt của tòa. Nhưng những vấn
đề tiềm ẩn thì rất sâu xa và cơ bản. Những người Hán học không giữ một vị trí
hay vai trò nào trong sinh hoạt chính thức của thuộc địa này vốn chỉ sử dụng
dân bản xứ có anh học làm nhân viên. Chính
quyền mở trường tiểu học dạy bằng tiếng Anh và tiếng Malay, còn trường trung
học thì chỉ dạy bằng tiếng Anh.

Nhưng
những cộng đồng dân nhập cư bị bỏ mặc tự lo lấy thân. Người Hoa quyên góp nhau
và xây trường cho họ. Hoàn toàn tự túc, họ dùng sách giáo khoa xuất bản ở Trung
Quốc và mời thầy từ Trung Quốc qua để dạy bằng tiếng Quan thoại cứ như họ đang
ở Quảng Đông hay Phúc Kiến vậy. Về văn hóa, họ sống trong một thế giới tách
biệt. Học xong trung học, học sinh có thể học tiếp bằng cách chuyển sang một
trường dạy tiếng Anh và như thế tiến thân theo những bậc thang Anh học, hoặc
tìm việc trong các cơ sở dùng tiếng Hoa – các cửa tiệm, nhà hàng hay công
ty, hoặc một vài ngân hàng của người Hoa.

Họ
cảm thấy trơ trọi, và sự thiếu vắng cơ hội kinh tế đã khiến các trường học của
họ trở thành nơi hun đúc các tư tưởng khuynh tả vốn đã xuất hiện ở Singapore và
Malaysia từ 1923, khi Quốc tế cộng sản lần đầu cử cán bộ từ Thượng Hải qua đây.
Sau Thế chiến, thành tích kháng Nhật khiến uy tín của MCP lên cao và trở thành
một lực lượng mạnh trong giới trẻ và họ đã xây dựng được một mạng lưới chi bộ
tại các lớp học. Nhiều thầy giáo đã trở thành đảng viên hoặc cảm tình đảng;
nhiều học sinh quá tuổi vì học hành dang dở do việc Nhật chiếm đóng cũng đã
được kết nạp; còn ban quản lý trường phần lớn là các thương gia cũng có cảm
tình hoặc ngại ngăn cản họ.

Một
khi tình trạng khẩn cấp được công bố, phong trào cộng sản
ở Singapore rút vào bí mật, nhưng thực tế họ vẫn phát triển. Năm 1952, người
Anh phát thẻ động viên tại Singapore và Malaysia, nên mọi người nam tuổi từ mười
tám đến năm mươi lăm đều có thể bị gọi phục vụ trong quân đội hay lực lượng
phòng vệ dân sự, và tháng 4/1954, chính quyền bắt đầu yêu cầu họ đăng ký. Họ
chỉ cần 800 người cho quân đội Singapore và 1.200 người cho các lực lượng phòng
vệ dân sự, và sẽ chọn bằng cách rút thăm. Nhưng việc đăng ký tại các trường học
tiến hành chậm, và vào ngày 12/5, hạn chót đăng ký, học sinh các trường tiếng
Hoa trình một kiến nghị cho Quyền thư ký thuộc địa xin miễn quân dịch tập thể.
Quyền thống đốc W.A.C. Goode ra thông báo rằng việc miễn dịch sẽ được cứu xét
cho từng trường hợp cụ thể. Việc này dẫn tới cuộc biểu tình của 500 học sinh,
và viên toàn quyền đã từ chối gặp gỡ đại diện của họ cho đến khi họ đăng ký
xong.

Lúc
đó tôi không biết hết nguồn cội của vấn đề, tuy tôi biết rằng đang có cái gì đó
âm ỉ sôi sục trong thế giới người Hoa này. Các học sinh được tổ chức chặt chẽ,
có kỷ luật và đoàn kết. Họ có khả năng tự kiềm chế và rất giỏi đấu tranh tập
thể và biểu tình phản đối khiến chính quyền rất khó tách riêng hay cô lập những
người cầm đầu để trừng phạt. Sau những vụ bắt giữ, họ khởi sự thổi bùng những
vấn đề khác có thể cho phép họ gây ra những xung đột với cảnh sát, để xảy ra
những vụ bắt bớ và qua đó kích động tinh thần đấu tranh của quần chúng. Chỉ mãi
sau này tôi mới hiểu ra tất cả những điều đó. Nhiều người Anh học, kể cả những
người trong Hội sinh viên Đại học Malaysia cũng thiếu thông tin và kinh nghiệm
như vậy. Ngày 18/5, họ cũng có hành động ủng hộ những cuộc biểu tình của học
sinh người Hoa bằng cách yêu cầu có điều
tra về các vụ biểu tình gây rối vì trong những vụ đó, cảnh sát đã sử dụng bạo
lực không hợp cách. Họ cũng suy nghĩ đơn giản như tôi vậy.

Những
người cộng sản lập tức ghi nhớ vụ gây rối ngày 13/5 bằng con số “5–1–3” (ngũ
nhất tam), theo cách người Trung Quốc ghi nhớ những sự kiện lớn, như vụ
Tiananmen[12] ngày
4/6/1989 được gọi là vụ “6–4” (lục tứ). Các học sinh tổ chức ở lỳ trong trường
và phản đối, họ lập ban đại diện đòi miễn dịch gồm 55 người, chia thành nhiều
tổ công tác lo việc thu thập thông tin về những học sinh bị thương, giúp đỡ
thuốc men và kêu gọi dân chúng ủng hộ.

Họ
tỏa ra khắp Singapore để vận động sự ủng hộ của học sinh các trường khác, các
phụ huynh, chủ tiệm và các lãnh đạo cộng đồng người Hoa – nghĩa là toàn bộ khối
người nói tiếng Hoa. Họ theo những phương pháp vận động quần chúng đã từng được
áp dụng thành công ở Trung Quốc. Ngay khi có dấu hiệu hành động ở phía cảnh
sát, họ sẽ rút vào trong các trường họchay nhà máy để tập
trung thành một đám đông, thu hút chú ý, kêu gọi ủng hộ, thách thức
giới cầm quyền và khiêu khích chính quyền “đàn áp” họ.

[12]
Thiên An Môn, xem chương 38 tập 2 của bộ Hồi ký này, “Bí quyết hóa rồng – Lịch
sử Singapore 1965–2000”.

Nên
ngày 14/5, kế theo ngày xảy ra bạo loạn, họ cố thủ trong trường Chung Cheng,
nhưng ngay hôm sau họ giải tán theo yêu cầu của một đoàn đại biểu 12 người của
Phòng Thương mại Trung Quốc. Họ đã trở nên quan trọng, và những người lớn tuổi
trong cộng đồng người Hoa đã cùng đến để đấu tranh với họ và hứa hẹn sẽ can
thiệp với chính quyền. Để giảm áp lực từ phía chính quyền đang nóng lòng phục
hồi trật tự, Phòng thương mại đã đề nghị cho nghỉ sớm kỳ nghỉ giữa năm và đóng
cửa trường. Nhưng các đại biểu này trước hết phải nhận sáu yêu sách của học
sinh để chuyển lên chính quyền thuộc địa. Những yêu sách này đòi miễn quân dịch
hoàn toàn, tha bổng không điều kiện 48 học sinh đang chờ xét xử, tiến hành điều
tra công khai vụ bạo loạn ngày 13/5 và một vài nhượng bộ khác nữa. Các học sinh
đã khôn khéo lôi cuốn những người lớn tuổi của cộng đồng người Hoa ủng hộ họ,
và vào ngày 23/5 khoảng 2.500 học sinh lại chiếm đóng trường Chung Cheng và
tuyên bố không giải tán cho đến khi họ được miễn quân dịch. Ba ngày sau, hàng
ngũ của họ phân tán khi cảnh sát phong tỏa mọi nguồn cung cấp thực phẩm và các
phụ huynh lôi con em của họ về.

Rồi
cứ như thế. Học sinh Chung Cheng đòi mở cửa trường học lại, học sinh trường
Trung học Trung Quốc đe dọa biểu tình tuyệt thực, và ngày 2/6, khoảng 1.000 học
sinh từ các trường trung học khác kéo về trường Trung học Trung Quốc để bắt đầu
một cuộc cắm trại lỳ trong kỳ nghỉ bắt buộc này. Đó là một hành động thách
thức. Họ tự tổ chức học hành trong các phòng học và ngay sân trường, học sinh
lớp trên dạy các đàn em về toán, tiếng Anh, tiếng Hoa và địa lý. Các phụ huynh
mang thực phẩm đến cho họ; ngoài ra, trông đó cứ như một kỳ cắm trại giữa năm
kèm tự tổ chức bồi dưỡng học vấn.

Các
học sinh còn gửi những kiến nghị khác cho thống đốc nhưng tất cả đều không được
trả lời. Khi bảy trường học khác mở cửa lại vào ngày 24/6, những biện pháp kỷ
luật mới đã được áp dụng, trong đó có biện pháp thanh
lọc kiểm tra các giáo viên và cấm học sinh không được dùng cơ sở của
nhà trường cho các hoạt động ngoại khóa nếu không được hiệu trưởng
đồng ý. Nhưng những lệnh mới này chỉ nằm trên giấy tờ và báo chí thôi, vì ban
quản lý cũng như hiệu trưởng đều e ngại những tổ chức ngầm trong cả giáo viên
lẫn học sinh.

Vào
ngày 13/9, chính quyền thông báo rằng họ dự định đặt thêm cho họ quyền được
đóng cửa bất cứ trường học nào không chịu tuân thủ Pháp lệnh về các trường học.
Giám thị trường học từ nay có thể bị yêu cầu phải trình bày lý do nếu trong sáu
tháng trước đó trường đã bị sử dụng cho việc tuyên truyền chính trị bất lợi cho
Singapore. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Các ban quản lý của các trường học
có thể là thân cộng, trung lập hay cảm tình viên. Nhưng một khi chính quyền đòi
kiểm soát trường học của họ, họ liền đoàn kết với nhau để chống lại, và ngay cả
báo chí của phe Trung Hoa Quốc dân đảng cũng ủng hộ họ.

Thống
đốc John Nicoll rất ngạc nhiên. Nói chuyện với Hội đồng lập pháp ngày 21/9, ông
kết án những gợi ý cho rằng chính quyền đang thực thi một chính sách bài Hoa.
Chính quyền không có ý định đồng hóa các trường tiếng Hoa vào hệ thống giáo dục
của thuộc địa. Những người cộng sản biết rằng kế hoạch của viên thống đốc là
nhằm dập tắt những hoạt động của họ, nhưng trong thực tế ông ta đã cho họ cơ
hội nối kết tất cả những người Hán học vào lý tưởng yêu nước, và họ đã lý giải
vấn đề thành một âm mưu muốn Anh hóa các trường tiếng Hoa và tiêu diệt nền
văn hóa, ngôn ngữ và giáo dục của người Hoa. Đó là những di sản
thần thánh gắn bó với tâm hồn của mọi người Hoa, nhất là những chủ tiệm hay
thương gia người Hoa giàu có nhưng ít học tại Singapore. Họ đã say mê những báo
cáo của Trung Quốc xã hội chủ nghĩa, miêu tả bước chuyển hóa đất nước này thành
một đại cường. Và bây giờ, khi nước Trung Quốc mới hồi sinh này trở thành một
niềm tự hào và vinh dự cho người Hoa ở khắp nơi, thì người Anh có vẻ như muốn
tước đi cái quyền đương nhiên này của họ. Chính quyền, thuộc địa đã sa chân vào
một bãi mìn văn hóa. Nếu Sở đặc vụ có những viên chức có Hán học và có thể hiểu
được tâm tình của các cộng đồng người Hoa ở Singapore, thì hẳn họ đã cảnh báo
viên thống đốc là cần phải hành động thận trọng và tinh tế hơn.

Những
học sinh Hán học không hề giống những học sinh Anh học đã xuất bản tờ Fajar. Họ
rất giỏi lạc quyên ngân quỹ. Khi tôi thay mặt họ liên lạc với Pritt, tôi cho
ông ta hay rằng các học sinh này có thể huy động nguồn tài chính từ giới thương
nhân trong Phòng thương mại Trung Quốc. Ông ta đã đề nghị một thù lao là 30.000
đôla. Tôi nói lại với các học sinh và họ chẳng hề bối rối. Và khá lâu trước khi
Pritt bay sang Singapore vào ngày 7/10 để dự buổi tranh tụng vụ kháng cáo, vốn
sẽ tiến hành năm ngày sau đó, họ đã mang tiền mặt tới nhà tôi. (Họ thấy không
thoải mái khi tới tìm tôi ở văn phòng Laycock & Ong, nơi một luật sư Anh
nắm ưu thế.)

Sau
khi đọc hồ sơ kháng cáo, Pritt hẳn phải biết không có cơ hội thắng lợi, nên với
tác phong kịch liệt do bao nhiêu năm kinh nghiệm, một lần nữa ông lại hết sức
gây tiếng vang và tuyên truyền cho các học sinh để công kích chính quyền. Các
học sinh đã mời ông một bữa tiệc trà tại Badminton Hall sau khi ông tới đây
được một ngày. Pritt đọc một bài diễn văn bằng tiếng Anh, phía học sinh làm mấy
bài phát biểu bằng tiếng Hoa, và chẳng có ai dịch cho ông nghe. Điều này chẳng
có gì ngạc nhiên vì đây là cơ hội để các tay lãnh đạo huy động sự ủng hộ nâng
cao nhiệt tình và tạo thêm khí thế đấu tranh quần chúng với một lý do hết sức chính đáng.
Diễn biến này đã khiến ông ta bị ấn tượng sâu đậm đến nỗi trong hồi
ký xuất bản 12 năm sau, Pritt còn nhớ rõ cách tổ chức và hậu cần cho
phép 5.000 học sinh vẫn ngồi ngay ngắn trong đại sảnh, mỗi người nhận được một
hộp đựng bánh nướng, bánh mì, đậu phộng và chuối, phần ăn dư được bỏ gọn vào
hộp và được các học sinh phụ trách đi dọc các dãy ghế dọn đi, và khi họ xếp
hàng ra xe buýt để về nhà, khu đại sảnh vẫn sạch sẽ ngăn nắp. Và tất cả những
việc này đều được làm răm rắp theo lệnh hướng dẫn do các cô cậu học sinh chỉ độ
mười lăm tuổi phát ra qua loa phóng thanh bằng một tác phong rất tự tin. Đó là
một buổi trình diễn có thể làm vui lòng bất kỳ sỹ quan quân đội nào, và tôi cũng
bị ấn tượng như Pritt. Đó là lần đầu trong mấy cuộc gặp gỡ giữa tôi với họ. Tôi
chưa bao giờ thấy một chuyện như vậy ở những học sinh Anh học thường ăn nói rụt
rè thiếu tự tin, và có tâm lý lúng túng khi họ sử dụng một thứ không phải tiếng
mẹ đẻ.

Tôi
biết vụ kháng cáo này cũng kết thúc không hào hứng gì. Nhưng đám học sinh xem
nó như một cơ hội để tổ chức biểu tình chống chính quyền. Ngày 12/10, rất
đông học sinh tập trung trên phố Padang phía ngoài Tòa án tối cao, và theo tờ Singapore Standard, “một
cơn bão hoan hô” đã nổ ra khi Pritt xuất hiện. Chánh án người Anh, ông Knight
đã hỏi: “Một vụ kháng cáo lặt vặt thế này mà sao đăng ký tới ba ngày?” Pritt
nói chính ông đã xin như thế vì ông ta cho rằng nếu bảo nó sẽ kết thúc nhanh
hơn thì không an toàn. Rồi ông rề rà trình bày các lý lẽ để kháng cáo, bày ra
một màn trình diễn kéo dài đến hai ngày (còn tôi hẳn cố lắm cũng chỉ kéo được
hơn một buổi), nhưng chẳng có tác dụng gì. Sau khi phần biện hộ kết thúc vào
cuối ngày thứ nhì, chánh án nói ông giữ nguyên bản án cũ. Tuy nhiên ông sẽ bỏ
những án cấm cố nếu các học sinh ký giấy cam kết giữ hạnh kiểm trong 18 tháng.

Lần
lượt mỗi học sinh được hỏi ý có chịu ký cam kết không. Họ đều lắc đầu từ chối.
Chánh án quyết định tôn trọng luật pháp, và các học sinh quyết chí đấu tranh vì
lý tưởng. Chánh án chẳng có cách nào khác ngoài việc ra lệnh đưa họ vào nhà
giam, tuy rằng khi làm thế ông chỉ tạo thêm cơ hội khơi dậy tinh thần chống đối
trong cộng đồng nói tiếng Hoa.

Nếu
biết trước hệ quả của việc này hẳn tôi đã có giải pháp là thuyết phục các phụ
huynh học sinh ký vào bản cam kết ấy để thả các học sinh ra. Chính quyền sẽ đạt
được một thắng lợi về tinh thần còn phụ huynh nhẹ nhõm vì con em họ sẽ được thả
cùng một lời cảnh cáo. Nhưng vào thời điểm đó, tôi cũng bị cuốn theo làn sóng
cảm tình với họ và ngày 20/9, tờ Nanyang Siang Pau trích đăng
lời tôi phát biểu: “Cho đến nay chính quyền cũng chưa có bằng chứng nào về hoạt
động cộng sản trong các trường tiếng Hoa, nhưng họ
đã xem sự chống đối khi chính quyền từ chối yêu cầu được hoãn dịch của các học
sinh như một hoạt động cộng sản, và với lý do này họ đã tìm cách kiểm soát các
trường tiếng Hoa chặt chẽ hơn.” Tôi đã kém hiểu biết và ngây thơ, và đã không
biết họ giỏi đến mức nào trong việc xâm nhập và điều khiển các tổ chức đang âm
ỉ chống đối chính quyền.

Hồ
sơ kháng cáo được trình bày trước Hội đồng tư vấn pháp lý
ngày 15/2/1955 và bị bác bỏ. Vụ án kết thúc nhưng bước làm quen của tôi với
giới Hán học chỉ mới bắt đầu. Đó là một thế giới đầy sức sống, rất nhiều tay
hoạt động tích cực và rất nhiều thanh niên có lý tưởng, vị tha, sẵn sàng hy
vinh vì một xã hội tốt đẹp hơn. Tôi rất ấn tượng về mức tận tụy của họ đối với
lý tưởng cách mạng, về lòng quyết tâm đấu tranh lật đổ chính quyền thuộc địa để
thiết lập một thế giới mới công bằng hơn. Và tôi cũng ngày càng e ngại con
đường mà các lãnh tụ của họ đang dẫn họ vào.

Nhưng
tôi cũng tin tưởng rằng nếu tôi không thu hút được ít nhiều trong số những
thanh niên năng động ấy đi theo đường lối của tôi và các bạn bè tôi, thì chúng
tôi sẽ chẳng bao giờ thành công. Cho đến nay, chúng tôi chỉ có liên hệ với
những người Malay và người Anh học vốn là những người chẳng có niềm tin hay
nhiệt tình đua tranh, chứ đừng nói đến chuyện đương đầu với thế lực trong cộng
đồng người Hoa. Những người Hoa nói tiếng Hoa duy nhất trong mạng lưới của
chúng tôi là những nhóm ở căn cứ hải quân và trong Ban quản lý cảng, phần lớn
trong số đó là những công nhân người Quảng Châu có tay nghề, và một số nhân
viên công nhật trong Hội đồng thành phố.

Các
học sinh hẳn đã được chỉ thị nhờ tôi làm luật sư, sau khi đã nhờ những người
khác vốn không quan tâm đến chính trị lắm hay không muốn đối đầu với chính
quyền như tôi. Họ bắt đầu tìm đến đường Oxley để hỏi ý kiến về cả trăm vấn đề
mỗi khi họ có xung đột với cảnh sát hay bị chính quyền cản trở, từ chuyện các
nam sinh bị bỏng trong khi cố thủ trong trường học đến chuyện xin giấy phép hội
họp. Họ thường đến trong một chiếc xe hơi Chevrolet màu hồng. Rõ ràng một trong
các nữ sinh ấy đã mượn được xe của ông bố, có lẽ là một thương gia hay chủ tiệm
giàu có nào đó.

Tôi
không bao giờ từ chối họ, dù trong những giờ giấc bực mình nhất. Tôi muốn thu
hút người trong thế giới này cũng như phía cộng sản đã hoạt động và thu hút
được những người trong giới Anh học như John Eber, Sharma, De van
Nair, Samad và nhiều người khác. Hồi đó tôi nghĩ rằng tính kỷ luật của các học
sinh, năng lực và nhiệt tình của các thủ lĩnh học sinh là phẩm chất tự nhiên,
xuất phát từ nhiệt tình và lý tưởng của tuổi trẻ. Phải mất hai năm, từ 1954 đến
1956, tôi mới hiểu ra các phương pháp, đường lối và động cơ của Mặt trận cộng
sản thống nhất CUF. Đằng sau mặt trận này là Thành ủy MCP chỉ đạo thông qua
những nhân vật hoạt động công khai như Robert Soon Loh Boon và các thủ lịnh
phân bộ trong các lực lượng quần chúng. Cộng sản có một mạng lưới bí mật gồm
các cán bộ rất có kỷ luật chia thành những chi bộ bốn người, người đứng đầu chi
bộ sẽ nhận chỉ thị từ chi bộ cấp cao hơn. Những chỉ thị này được chấp hành rất
nghiêm chỉnh và các hình thức kỷ luật đối với đảng viên cũng nghiêm nhặt, đặc
biệt đối với những kẻ phản bội.

Nhưng
hồi 1954, tôi chưa hiểu rõ về lực lượng cộng sản và không thấy nao núng. Tôi
tin rằng mình sẽ thuyết phục được một số người nào đó rằng đấu tranh bạo động
sẽ không thành công được ở Malaysia. Tôi còn rất nhiều điều phải học hỏi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3