Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước - Chương 03

“…Mát-xcơ-va tháng giêng năm 1924. Giữa mùa đông nước Nga, khí trời lạnh dưới 40 độ. Lê-nin vừa mất được mấy hôm.

Sáng hôm ấy tại phòng chúng tôi, phòng số 8 khách sạn LUX có tiếng gõ cửa nhẹ. Một thanh niên rất gầy gò, đầu đội mũ cát-két, mình mặc chiếc áo mỏng manh mùa thu, tay xách một va-li bé tí, bước vào và nói:

- Tôi là Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam, vừa ở Pa-ri đến. Tôi đến thì Lê-nin vừa mất – Nói đến đây người thanh niên ngừng lại, lau nước mắt. – Bây giờ tôi muốn đến viếng linh cữu Lê-nin…

- Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đồng chí mặc mỏng manh như thế không chịu được rét Nga đâu. Đồng chí hãy chờ đến ngày mai, khi có quần áo ấm hãy đi…

Ái Quốc thở dài, không trả lời ngồi uống nước chè với chúng tôi, rồi trở về phòng mình. Chúng tôi cho rằng :”Thế là đồng chí ấy chịu nghe chúng mình rồi”.

Ngoài trời tuyết tạm ngừng rơi, lạnh như cắt ruột. Trước nhà Công đoàn nơi để linh cữu Lê-nin, dòng người im lặng và dài vô tận đứng chờ, hầu như không nhúc nhích được bước nào. Rét quá! Ngoài đường có từng đống lửa để nhân dân sưởi đỡ rét. Tiếng máy truyền thanh buồn bã nói về Lê-nin, vị lãnh tụ vừa quá cố… Tiết trời hôm nay hình như cũng chia buồn với lòng người.

Khoảng 10 giờ đêm, có tiếng gõ cửa nhẹ. Tôi bước ra mở cửa, trước mặt tôi là đồng chí Nguyễn Ái Quốc, vẫn trong bộ quần áo mỏng manh, đầu đội cát-két. Mặt đồng chí xanh xám, ngón tay, mũi và tai thâm tím vì giá rét.

- Tôi vừa đi viếng Lê-nin về - Ái Quốc vừa nói vừa run cầm cập – Tôi không thể chờ đến ngày mai để viếng Người bạn vĩ đại nhất của nhân dân các nước thuộc địa… Đồng chí có nước chè uống không?...

“Tôi luôn luôn nhớ mãi hình ảnh ấy, biểu hiện cho ý chí của con người luôn luôn kiên quyết đấu tranh chống thực dân, vì tự do và hạnh phúc của dân tộc. Sau đó chúng tôi trở thành bạn thân, cũng làm việc với nhau nhiều. Cái gì tiêu biểu nhất ở con người Hồ Chí Minh? Là tính khiên tốn lạ thường và ý chí phấn đấu và học hỏi vô cùng mạnh mẽ… Trong câu chuyện đồng chí Hồ thường nói:

“Chỗ của tôi là ở Việt Nam, nơi mà các đồng chí và đồng bào tôi đang chiến đấu…”

Chúng tôi thường cùng nhau nhắc lại những chuyện về nước Pháp, về Pa-ri… Chúng tôi thường nhắc đến cái “chợ trời” ở Pa-ri, tiếng Pháp gọi là “cái chợ rận”, đó là nơi mà những người cùng khổ ở Pa-ri mang bán từ tấm áo rách, đến cái xe đạp cũ, cái bàn, cái ghế gãy chân. Ở đây cũng là nơi mà hàng nghìn người vì đấu tranh cho tự do, cơm áo của nhân dân mà phải trốn tránh, những người mà pháp luật - “chính quốc” cũng như bọn quan lại, địa chủ trong nước họ đang tìm bắt, họ đang sống trong cảnh cực kỳ nghèo nàn, không thể tả được. Nhưng họ vẫn quyết tâm phấn đấu không ngừng. Đồng chí Hồ Chính Minh ngay từ đầu đã hiểu cách mạng tháng Mười, hiểu Lê-nin và ảnh hưởng to lớn của cách mạng ấy, của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Ở Pháp, tôi được quen khá nhiều người Đông Dương hoạt động chính trị, nhưng hình ảnh đồng chí Nguyễn Ái Quốc luôn luôn nổi bật bởi sự khiêm tốn, ham học và phấn đấu.

Theo tôi, đồng chí Hồ Chí Minh là người đã giúp cho phong trào vô sản thế giới và phong trào giải phóng dân tộc nhiều tài liệu đầy đủ nhất về tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương và phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương[3].

*

* *​

“Mát-xcơ-va tháng ba…

Con tàu băng qua vùng nông thôn phủ tuyết. Tuyết trắng muốt trên cây, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Thỉnh thoảng nhìn một ngôi nhà, tuyết lấp gần kín một xe ngựa kéo.

Tôi chỉ có một anh bạn cùng ngồi tàu. Anh đọc sách say sưa. Anh chẳng có vẻ gì là người Nga. Anh bất ngờ hỏi tôi :

- Xpít-ki I-ét (tiếng Nga – anh có diêm không ?)

Anh dùng tiếng Nga nói chuyện với tôi, một thứ tiếng Nga còn…thô sơ.

Tôi trả lời “có” bằng tiếng Pháp. Người bạn cùng đi của tôi liền thôi nói tiếng Nga và nói tiếng Pháp rất thạo. Tôi hỏi anh ở đâu đến.

- Tôi là người Việt Nam – bị Pháp cai trị, học sinh trường đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va. Tôi tên là Nguyễn Ái Quốc.

Tôi tự giới thiệu và tôi nảy ý muốn phỏng vấn anh, một cuộc phỏng vấn không định trước.

Tôi ngỏ ý với anh. Anh nhìn tôi, cười và gật đầu. Anh mảnh khảnh, da rám nắng, mắt đen lánh, tóc mượt.

- Anh kể cho nghe về đời học sinh được không?

- Được.

Anh bắt đầu kể và cho tôi biết anh là cộng sản. Trước khi ghi tên học trường đại học Phương Đông, hai năm trước đây anh làm đủ mọi nghề tại Pa-ri: Bán diêm, bán báo, đánh giầy, làm các nghề linh tinh.

- Trong nước, tôi lao động ở nông thôn, tôi rời Tổ quốc tôi cách đây ba năm [4].

- Trước đây tôi có đọc một tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống đối. Ở Việt Nam, có những người lính lê dương do Poăng-ca-rê (Poincaré) [5] gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các báo Pháp. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đã tới Pa-ri. Khi trường đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va mở, tôi bèn xin học.

- Trường có đông học sinh không?

- Tất cả có 1025 người học thuộc 62 xứ thuộc địa trong đó có 150 gái, 895 vào đảng cộng sản. Trong số 1025 người học 547 là nông dân, khoảng 300 là công nhân, còn là trí thức tư sản.

- Anh nghĩ thế nào về sáng kiến Bôn-sơ-vích này?

- Tôi rất phấn khởi đối với sáng kiến này. Tôi đã đọc nhiều tuyên bố ủng hộ và đoàn kết của những người chống đối nhưng không người nào đem lại cho chúng tôi một sự giúp đỡ thiết thực để thoát khỏi chế độ nô lệ mà những “người đi gieo rắc văn minh” đang giam hãm chúng tôi. Tôi cho rằng sáng kiến này sẽ đem lại những kết quả rất tốt. Nhiều người đã hiểu tình trạng kém cỏi của chúng tôi nhưng chưa có ai, trừ những người làm cách mạng Nga, chỉ cho chúng tôi con đường đi đến giải phóng. Ở Ba-cu, năm 1921, lần đầu tiên trong lịch sự của giai cấp vô sản, đã họp một đại hội của các dân tộc phương Đông và chính Lê-nin, đồng chí I-lít-sơ[6] thân mến của chúng tôi đã nêu lên những đề án và hướng dẫn chúng tôi đi những bước đầu đề làm cho chúng tôi có khả năng cùng tiến bước với giai cấp vô sản thế giới.

Đồng chí Việt Nam nói rất hào hứng, nhanh và thạo tiếng Pháp. Một tay đồng chí phải băng.

- Tay anh làm sao thế?

- Không sao, anh trả lời. Tôi mang vòng hoa của học sinh viếng Lê-nin, vì thế hai ngón tay tôi bị tê cóng.

- Các anh có bao nhiêu giáo sư ? Chương trình học có những môn gì?

- Chúng tôi có 150 giáo sư dạy các môn: khoa học xã hội, duy vật lịch sử, lịch sử phong trào công nhân, khoa học tự nhiên, lịch sử cách mạng, kinh tế chính trị học v.v… Trường đại học có một phòng chiếu bóng, một thư viện 47.000 cuốn sách. Mỗi dân tộc có một thư viện riêng gồm sách, báo, tạp chí. Nên biết là chúng tôi thuộc 62 dân tộc mà đoàn kết với nhau như anh em ruột thịt. Người học tự viết lấy báo hàng tuần. Chúng tôi có một nhà an dưỡng ở Cơ-ri-mê và hai nhà nghỉ hè, một trong hai nhà đó trước cách mạng là lâu đài của một quận công.

Anh thanh niên Việt Nam vừa cười vừa nói với tôi: anh hãy hình dung là ở trên đỉnh ngọn tháp của lâu đài, gần con quạ, biểu tượng của đế chế, phấp phới là cờ đỏ và ở trong phòng khách thay vào ngài quận công, là những người nông dân Triều Tiên, Ác-mê-ni nô đùa với nhau.

- Ai nấu cho các anh ăn?

Tôi hỏi người đồng chí và người bạn cùng chuyến tàu. Anh vẫn còn cười vì vẫn còn nghĩ đến những người Triều Tiên nô đùa trong phòng khách của quận công.

- Chúng tôi thay phiên nhau làm bếp. Chúng tôi cũng thay phiên nhau làm ở thư viện, ở câu lạc bộ, giặt giũ. Chúng tôi tổ chức thành công xã [7]. “Công xã” họp một tuần một lần để thảo luận chính trị, và tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật, giải trí. Những sự sai phạm sẽ do một “tòa án” do công xã bầu ra thấy cần thiết, xét xử.

- Khi học xong, anh dự định làm gì?

- Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc tôi để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi có nhiều việc phải làm lắm. Chúng tôi chẳng có quyền gì cả, trừ quyền đóng thuế cho “mẫu quốc” Pháp, cho bọn chủ bản xứ. Sự việc nổi bật nhất như thế này: chúng tôi là những người bị đô hộ, như đồng chí biết, chúng tôi là những dân tộc “hạ đẳng”, và vì thế chúng tôi không có quyền ứng cử, bầu cử. Ở nước Nga, ở cái nước của những người dã man – giai cấp tư sản dân chủ gọi các đồng chí Nga như thế - chúng tôi có đầy đủ những quyền như công nhân Nga. Thật vậy, những đại biểu của chúng tôi do Xô-viết của chúng tôi bầu ra theo đúng kỳ hạn, đã cùng hội họp với các đại biểu công, nông, binh. Đó, anh đã thấy rõ sự đối xử khác nhau của chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ công nhân đối với chúng tôi!

Người bạn nói chuyện với tôi ngừng nói. Anh nhìn thẳng trước mặt anh, như để đo khoảng cách giữa hai loại dân chủ, rồi anh tiếp tục:

- Chúng tôi đã đau khổ nhiều và chúng tôi còn phải đau khổ nữa. Những người “khai hóa” các nước chúng tôi để chúng tôi tự do. Nhưng chúng tôi tiếp tục đi theo con đường Cách mạng tháng Mười đã vạch ra, chúng tôi sẽ vận dụng vào thực tiễn những bài học đã học được. Các đồng chí của tôi làm việc phấn khởi, tin tưởng, nghiêm túc. Nhiều người còn rất trẻ đã có một trình độ Mác-xít ít có thể tưởng tượng là có thể có được vào tuổi đó. Chúng tôi hiểu rõ là chúng tôi có trách nhiệm rất nặng nề, và tương lại của các dân tộc thuộc địa tùy thuộc vào sự tuyên truyền và tinh thần hy sinh của chúng tôi.

Người đồng chí Việt Nam của tôi, dân thuộc địa của Poăng-ca-rê, nói tiếp:

- Ở Phương Đông, từ Xy-ri đến Triều Tiên – tôi chỉ nói các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, có một diện tích rộng mênh mông với hơn 1.200 triệu dân. Cả vùng rộng lớn này nằm dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc tư bản chủ nghĩa. Các dân tộc ở đó không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn bó với giai cấp vô sản thế giới. Những nghị quyết của phái xã hội dân chủ tỏ cảm tình dù nồng nhiệt đến đâu cũng không có sức nặng.

Việc thành lập trường đại học Bôn-sơ-vích đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử các dân tộc thuộc địa ở Phương Đông, và nhà trường đã dạy chúng tôi nguyên lý đấu tranh giai cấp, đã đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc phương Tây, trang bị cho chúng tôi – những người nô lệ, khả năng hoạt động chặt chẽ.

- Khí hậu nước Nga thế nào, có cực lắm không?

- Có… Tôi chưa quen tuy đã ở hai năm. Nhưng không sao, tôi sẽ khắc phục được.

Chúng tôi còn nói chuyện với nhau thêm một lúc thì người bạn Việt Nam xuống một ga nhỏ. Anh bắt tay tôi và nói:

- Tôi đi thăm một công xã nông nghiệp. Thôi chào anh.

Tôi thấy anh choàng chiếc áo khoác ngoài quấn chăn vào người, bước lên một chiếc xe ba ngựa kéo rồi biến sau quả đồi, như bị biển tuyết bạc óng ánh lấp đi. Con tàu chuyển bánh, băng qua cánh đồng.[8]

*

* *​

“…Nguyễn Ái Quốc cũng là người thường đến xem triển lãm. Người đã có quan hệ với chúng tôi từ trước khi mở triển lãm này. Quê hương của Người là Việt Nam ngày nay. Người biết thông thạo ngôn ngữ của những nước lớn ở Châu Âu, và khi thảo luận Người có cách nói rất sinh động. Người am hiểu những trào lưu nghệ thuật Tây Âu và mỉm cười để lộ rằng ở Pa-ri, Người cũng có vẽ chút ít. Người nói một cách rất tinh tế về những tác phẩm mà người đã xem và trước hết về những nghệ sĩ đã mạnh dạn phơi trần sự thật xã hội và kêu gọi đấu tranh. Người coi nghệ thuật trừu tượng không có tác dụng đối với cuộc đấu tranh giai cấp. Người bàn luận về những vấn đề nghệ thuật của Châu Âu một cách có suy xét đầy đủ, chính xác và thận trọng, và nhấn mạnh rằng mỗi dân tộc cần phải chăm lo đến đặc tính của dân tộc mình trong nghệ thuật. Ngày nay Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh.”[9]

*

* *​

“Cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, tôi thấy ở binh công xưởng Rô-an-nơ vùng quê tôi có nhiều người Châu Á mà thời đó người ta quen gọi là “Người An Nam”. Hàng nghìn người Việt Nam đã phải rời quê hương, tổ quốc, bị đầy đi lính hoặc đi làm thợ như thế cho thực dân Pháp. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi có dịp gặp người Việt Nam.

Năm tôi 19 tuổi, tôi làm bí thư thanh niên cộng sản vùng La Loa. Mùa xuân năm đó, tức năm 1922, có hội nghị Trung ương mở rộng của liên đoàn thanh niên cộng sản Pháp. Tôi được cử đi dự hội nghị đó cùng với các bí thư đoàn thanh niên khác. Hội nghị họp trong hai ngày. Ngày đầu họp Lê-ga-li-te phố Săm-brơ-ê Mơ-dơ nội thành Pa-ri. Sáng ngày thứ hai chuyển ra họp ở phòng thể thao thị xã A-ni-e thuộc ngoại ô Pa-ri. Trong ngày thứ hai, đồng chí điều khiển hội nghị báo tin: “Hôm nay sẽ có một đồng chí thanh niên “An Nam” đến nói chuyện với các đồng chí về những đau khổ và những niềm hy vọng của đất nước đồng chí ấy”.

Một người thanh niên Châu Á bước vào phòng họp giữa tiếng vỗ tay. Anh làm tôi nhớ lại những người lính thợ Việt Nam mà tôi đã gặp ở binh công xưởng Rô-an-nơ. Anh mặc quần áo kiểu Châu Âu, thắt cà-vạt, giản dị, nhanh nhẹn, thân người hơi gầy, nét mặt tươi cười, thái độ bình tĩnh. Tôi thấy anh ấy giống in hệt ảnh người đại biểu dân tộc Đông Dương đứng nói ở đại hội Tua năm 1920 và sau tôi được biết đây là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Đứng trước các đại biểu thanh niên Pháp, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nói trong vòng 15 phút. Đồng chí trình bày tình hình Việt Nam dưới ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và lòng tin một ngày kia nhân dân Việt Nam nhất định dành được độc lập, tư do. Rồi đồng chí phân tích mối quan hệ khăng khít giữa cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam và cuộc chiến đấu của nhân dân Pháp chống kẻ thù chung. Cuối cùng đồng chí kêu gọi thanh niên và nhân dân Pháp ủng hộ nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp.

Nói xong chuyện, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến bắt tay hỏi thăm một số đại biểu chúng tôi, đứng nói chuyện lâu với Lô-dơ-ray trong Ban lãnh đạo thanh niên cộng sản rồi ra đi.

Hai năm sau, vào mùa hè năm 1924, tôi lại được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Lần này không phải gặp đồng chí trong vài phút mà nhiều tuần liền, không phải ở Pa-ri mà ở Mát-xcơ-va. Năm đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở trong đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp, do Pi-e Xê-man dẫn đầu, đi dự Đại hội Quốc tế cộng sản họp trong điện Krem-lanh. Còn tôi đến Mát-xcơ-va để đi dự Đại hội thanh niên quốc tế cộng sản. Tại đại hội Quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đọc bản tham luận nổi tiếng trong đó đồng chí phê phán một số điểm trong chính sách của Đảng cộng sản Pháp lúc bấy giờ chưa thoát khỏi ý thức hệ thực dân chủ nghĩa. Đồng chí nói thành khẩn và nghiêm khắc với động cơ duy nhất là phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Pháp – Việt chống kẻ thù chung: đế quốc Pháp. Trong những lúc nói chuyện riêng với chúng tôi, đồng chí luôn đề cập đến vấn đề đó, vì đối với đồng chí, đấy là một vấn đề hết sức quan trọng.

Tôi lúc đó ở cùng với đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại khách sạn “Đại Pa-ri” đường Tvéc-xkai-a, ở Mát-xcơ-va. Sau đại hội Quốc tế cộng sản ít hôm, đồng chí Nguyễn Ái Quốc được mời đến dự Đại hội Thanh niên quốc tế cộng sản của chúng tôi, đầu tiên họp trong điện Krem-lanh, sau họp trong phòng họp của Nhà công đoàn. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc có lên nói chuyện với đại hội và tham gia công việc của các tiểu ban”.[10]

[1] T. Lan – “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1963.

[2] T. Lan: “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1963.

[3] Géc-Ma Nét-Tô – (nguyên Ủy viên chấp hành và Ban Bí thư công hội đỏ quốc tế) “Một buổi sáng mùa xuân 1924” trong tập “Bác Hồ”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.

[4] Sự thật, đồng chí Nguyễn Ái Quốc rời tổ quốc 13 năm, tức là năm 1911 (ND)

[5] Poăng-ca-rê là thủ tướng Pháp thời đó, rất phản động.

[6] I-lít-sơ là tên nhỏ của Lê-nin. Để tỏ tinh thần theo phong tục châu Âu, người ta gọi tên nhỏ.

[7] Tiếng Ý viết là communita và commune.

[8] Ma-ri và Mát-xi-mô Lô-kê, “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn báo Đoàn kết (Ý) năm 1924”, Nguyễn Thành Lê dịch theo bản dịch tiếng Pháp.

[9] Eric Johansson, tạp chí Nghệ thuật tạo hình số 12 – 1965 của nước Cộng hòa dân chủ Đức, “Nhớ lại kỷ niệm cuộc gặp gỡ Hồ Chủ tịch năm 1924, tại Cuộc triển lãm tổng hợp nghệ thuật Đức ở Mát-xcơ-va 1924”.

[10] Phrăng-xoa Bi-u, “Bác Hồ của chúng tôi”, Hồng Hà ghi, trong tập “Bác Hồ ở Pháp”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1970.

Sáng lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội

"Sau Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản, Bác còn dự các cuộc Đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế nông dân, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ (Nopr).

Ở Đại hội Quốc tế phụ nữ, Bác đã gặp nhiều nữ đồng chí Bôn-sơ-vích, trong đó có đồng chí Cơ-rúp-xcai-a (vợ Lê-nin). Đồng chí Cơ-rúp-xcai-a rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thạo. Đồng chí ân cần hỏi Bác về phong trào phụ nữ Việt Nam và nói cho Bác nghe một số kinh nghiệm về việc hoạt động phụ nữ. Hồi đó đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

Sau các cuộc đại hội đó, Bác bí mật sang Trung Quốc. Lúc đó, Trung Quốc đang ở trong tình trạng lộn xộn. Ở miền Bắc, bọn quân phiệt Ngô Bội Phu, Đoàn Kỳ Thụy, Trương Tác Lâm… - do các nước đế quốc giật dây – đang đánh nhau lung tung. Ở miền Nam, Quốc dân đảng của cụ Tôn Trung Sơn và Đảng cộng sản đang hợp tác chặt chẽ, do đó mà phong trào cách mạng đang lên cao. Chính phủ cách mạng (Quốc dân đảng) đóng ở Quảng Châu, đang chuẩn bị tiến quân về miền Bắc.

Bác về đến Quảng Châu thì may lại gặp các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Thái Xưởng (vợ đồng chí Lý) và nhiều đồng chí khác mà bác đã quen biết lúc ở Pháp. Đồng chí Mao Trạch Đông hồi đó phụ trách trường huấn luyện nông dân. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ phụ trách phong trào công nhân. Đồng chí Bành Bái phụ trách tổ chức nông dân.

Thiên hạ đều biết rõ hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Đây Bác chỉ tóm tắt kể chuyện đồng chí Bành Bái. Tuy xuất thân từ một nhà địa chủ phong kiến kếch sù, đồng chí Bành là một trong những người lập nên Đảng cộng sản Trung Quốc. Trước đó, đồng chí đã vận động và tổ chức nông dân ở vùng Hải Lục Phong. Đầu tiên, đồng chí vận động những tá điền của bố mình đòi giảm tô giảm tức, vì vậy, mà bị ông cụ ghét bỏ thậm tệ. May nhờ bà cụ cưng con và cô em gái thương anh, mà đồng chí Bành tiếp tục hoạt động được.

Trong thời kỳ đầu, đồng chí Bành đã gặp nhiều thất bại như: mặc áo tây đến nhà nông dân, họ tránh không chịu gặp, vì họ nghĩ "cậu ấm" đến đòi nợ cho bố. Vì hay nói chữ, nông dân nghe không hiểu. Vì gặp phụ nữ cũng nói chuyện, bị nông dân ghen, v.v… Mỗi lần thất bại, đồng chí đều cố tìm ra nguyên nhân và sửa chữa ngay. Nhờ có quyết tâm và chịu khó, chẳng bao lâu đồng chí đã tổ chức được nông hội khắp hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Nông dân hai huyện đã dùng súng ống đánh nhau với những địa chủ ngoan cố. Khi Quốc dân đảng phản bội cách mạng, nông hội Hải Lục Phong vẫn đứng vững và đã che chở được nhiều các bộ bí mật. Công xã Quảng Châu thất bại, đồng chí Bành vâng lệnh Đảng lên hoạt động bí mật ở Thượng Hải, bị bắt và đã oanh liệt hy sinh.

Ở Quảng Châu, Bác vừa làm phiên dịch cho đồng chí Bơ-rô-đin – cố vấn Liên-xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quốc dân đảng – vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette – báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân đảng.

Đến Quảng Châu được ít lâu, Bác cùng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh… tỏ chức hội "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí" chuẩn bị nền tảng cho việc tổ chức Đảng cộng sản sau này. Với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước đến Quảng Châu học ở lớp huấn luyện chính trị. Hội ra một tờ báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về nước để tuyên truyền.

Thế là lời đoán mò cách đây mười mấy năm trước của "quan thượng thư" thuộc địa Pháp đã thực hiện: Phong trào cách mạng từ Pa-ri sang Mát-xcơ-va, từ Mát-xcơ-va sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Được các đồng chí Trung Quốc đồng ý, Bác tổ chức hội "Á châu bị áp bức dân tộc liên hiệp". Hội này có người Việt Nam, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên v.v… tham gia khá đông và hoạt động khá mạnh. Cụ Liêu Trọng Khải được bầu làm hội trưởng, Bác làm bí thư" [1].

"…Bây giờ ông Nguyễn ở Trung Quốc, ông bắt đầu đi bán thuốc là và bán báo đế sống. Khi mới đến ông Nguyễn còn cảm thấy tiếng vang của mọi việc xảy ra ở Quảng Châu. Mấy tháng trước đây, một thanh niên cách mạng Việt Nam Phạm Hồng Thái, đã ném một quả bom vào Méc-lanh (Merlin), toàn quyền Đông Dương, khi Méc-lanh đến Sa Điện, một tơ giới quốc tế gần Quảng Châu, Méc-lanh thoát chết. Nhưng liệt sĩ Phạm Hồng Thái phải tự vẫn trên sông Châu Giang.

Việc đó tuy nhỏ, nhưng nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân.

Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp càng ra sức bóc lột Đông Dương. Chương trình bóc lột này được dự tính tỷ mỷ trong quyển sách của An-be Xa-rô (Albert Sarraut): "Khai thác thuộc địa". Toàn thể nhân dân đau khổ vì sự bóc lột đó. Thuế má và tạp dịch tăng lên. Ruộng đất của nhiều làng bị bọn chủ đồn điền Pháp chiếm đoạt. Pháp thi hành chính sách gây nạn đói để làm cho nông dân bần cùng. Giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bị nghẹt thở vì sự áp bức nặng nề của tư bản thuộc địa. Một giai cấp thợ thuyền mới ra đời. Từ 1862 tiếng súng kíp của đội quân Cần vương chống lại đại bác của bọn xâm lược Pháp, cuộc chiến đó vẫn tiếp tục. Nó tiếp tục đến năm 1885 dưới sự lãnh đạo của cụ Phan Đình Phùng, năm 1887 dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám, năm 1917 dưới sự lãnh đạo của cụ Lương Ngọc Quyến và nhiều nhà chí sĩ khác. Có một lúc tạm yên sau đại chiến lần thứ nhất. Và bây giờ tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu.

Trung Quốc cũng bị các tập đoàn quân phiệt chia sẻ, bọn này được đế quốc giúp đỡ. Nhưng lòng yêu nước của nhân dân Trung Quốc bắt đầu thức tỉnh. Lời kêu gọi của Bác sĩ Tôn Dật Tiên bắt đầu truyền bá. Một phong trào dân tộc vĩ đại bắt đầu. Trước hết là cuộc đấu tranh chống Nhật, liên hợp tất cả các giai cấp trong nước. Sau đó là sự tẩy chay Anh ở Hương Cảng do công nhân phát động. Rồi đến đội quân Bắc phạt chống bọn quân phiệt để thống nhất Trung Hoa, do Bác sĩ Tôn Dật Tiên và những người đồng chí của ông lãnh đạo.

Ông Nguyễn bị lôi cuốn vào cuộc vận động này.

Đọc quảng cáo trên tờ "Quảng Châu nhật báo" ông tìm đến làm phiên dịch cho ông Bô-rô-đin, cố vấn chính trị của Bác sĩ Tôn Dật Tiên và của chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo Trung Quốc ra tiếng Anh. Ông để hết tâm lực nghiên cứu chính trị Trung Quốc.

Ba nguyên tắc của Bác sĩ Tôn Dật Tiên là:

- Dân tộc

- Dân quyền

- Dân sinh

Vừa nghiên cứu vừa làm việc để sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho Tổ quốc mình, Ông bắt đầu tổ chức đồng bào Việt kiều ở Trung Quốc, tổ chức này gọi là "Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội".

Để tuyên truyền, ông xuất bản một tờ tuần báo "Thanh niên".

Được sự giúp đỡ của ông Liêu Trọng Khải, ông Nguyễn tổ chức hội "Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á đông".

Trong tổ chức này, có người Việt Nam, người Triều Tiên, người Nam Dương, v.v…

Đoàn thể này giống hội Liên hiệp thuộc địa mà ông Nguyễn đã tổ chức ở Pa-ri.

Được sự cộng tác của Đảng cộng sản Trung Quốc quân đội cách mạng của Bác sĩ Tôn Dật Tiên đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bọn quân phiệt lần lượt bị đánh bại. Trong một thời gian ngắn, chính quyền Quốc dân Đảng Quảng Châu đã lan rộng khắp nửa Trung Quốc.

Hoạt động của "Hội thanh niên cách mạng đồng chí" bắt đầu lan vào trong nước. Thực dân Pháp gián tiếp giúp đỡ rất nhiều. Vì sao vậy?

Trong khi tài liệu và báo chỉ của ông Nguyễn bí mật lọt vào nước rất khó khăn, thì bọn thực dân đều làm to chuyện để yêu cầu đàn áp. Đó là một quảng cáo rất tốt cho công việc của ông, làm cho đồng bào chú ý, làm cho bọn họ càng thích được nghe tuyên truyền cách mạng.

Hơn nữa, thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung Quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu thả cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy. Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước.

Muốn ru ngủ và lung lạc người Việt Nam thực dân Pháp cử Va-ren (Alexandre Varenne), đảng viên đảng xã hội Pháp làm toàn quyền Đông Dương. Lúc đầu, người Việt Nam phấn khởi, nhất là thanh niên.

Nhưng Va-ren ngay từ đầu khi thi hành chính sách hết sức phản động. Người Việt Nam sớm tỉnh ngộ và vì vậy sẵn sàng đáp lại kêu gọi của ông Nguyễn: "Muốn tự giải phóng phải trông vào lực lượng của mình".

Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp về Việt Nam. Về được một năm thì cụ mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước và một lần nữa giúp cho sự tuyên truyền yêu nước của ông Nguyễn và của hội Thanh niên.

Ông Nguyễn mở những lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu. Những thanh niên Việt Nam phần lớn là học sinh, trốn ra dự những lớp này, để học làm cách mạng, cách hoạt động bí mật. Học xong họ lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân…” [2]

"Thành phố Quảng Châu (Trung Quốc) có nhiều quan hệ mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong những năm hai mươi thế kỷ này. Ở đấy, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã sống và hoạt động trong mấy năm để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng.

Theo tài liệu[3] thì Hồ Chủ tịch từ Liên-xô về đến Quảng Châu và giữa tháng 12-1924. Ở Quảng Châu, Người lấy tên là Lý Thụy. Sau khi tìm hiểu và rút kinh nghiệm về hoạt động của Tâm Tâm xã, Hồ Chủ tịch chọn một số thanh niên yêu nước trong tổ chức đó và nhiều người khác từ trong nước ra, mở các lớp chính trị để đào tạo thành những cán bộ cách mạng rồi cử về nước hoạt động. Người sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng, trong đó nòng cốt lãnh đạo là Cộng sản đoàn; xuất bản tờ tuần báo Thanh niên, là cơ quan của Tổng bộ thanh niên. Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á đông trong đó chi hội Việt Nam, để đoàn kết nhân dân các thuộc địa cùng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Những bài giảng của Hồ Chủ tịch tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu được tập hợp lại và in thành cuốn Đường cách mạng, tài liệu này có tác dụng lớn đối với việc giáo dục cán bộ và phát triển cách mạng Việt Nam, đồng thời đặt nền tảng cho cương lĩnh của Đảng ta về sau. Ngoài việc huấn luyện chính trị, Hồ Chủ tịch còn dạy thanh niên học văn hóa và tiếng Anh nữa.[4]

"Đây là một nhà cũ ba tầng (một tầng dưới và hai gác) gồm có hai nhà bên trong có cửa thông sang nhau. Hồi 1924-1927 nhà đó mang số 13 và 13-1 phố Văn Minh, nay là số 422 đường Diên An 2. Nhà có cửa mở ra phố, bên kia đường là một khu nhà lớn trước kia là trường đại học Quảng Đông. Nhà làm lâu năm, nhiều bộ phận hỏng được chữa lại không giống như cũ: sau khi lập nhà bảo tàng, các đồng chí Trung Quốc lại cho thay cầu thang, sàn gác và một vài bộ phận khác đã yếu mọt. Khi chúng tôi đến thăm, măt trước nhà còn đang dựng giàn giáo để chữa nóc nhà và bao lơn, cửa sổ.

Các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng nói về những hoạt động của Hồ Chủ tịch ở Quảng Châu trong thời kỳ 1924-1297 – như tài liệu đã có – và cho biết thêm: Hồi đó, các đồng chí Việt Nam sử dụng chủ yếu là gác ba của hai nhà; còn những tầng dưới là nhà dân. Hồ Chủ tịch không ở đây; hàng ngày Người đi bộ tới làm việc và giảng bài; từ nơi Người ở đi đến đây mất khoảng 10 phút; ngôi nhà ở của Hồ Chủ tịch nay không còn nữa. Ở tầng ba, gác nhà số 13 được dùng làm trụ sở của Thanh niên cách mạng đồng chí hội, còn nhà số 13-1 là lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên. Hồ Chủ tịch mở được ba khóa huấn luyện thanh niên, thời gian mỗi khóa từ 3 đến 4 tháng; lớp thứ nhất có 5 học viên, lớp thứ hai: 15 và lớp thứ ba: hơn 30 người. Ngoài một số thanh niên học ở đây, còn một số ít hơn được đưa đến học trường quân sự Hoàng Phố. Khi học xong, các học viên tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội, rồi phần lớn được cử về nước hoạt động cách mạng, một số ở lại tham gia cuộc đấu tranh cách mạng của Trung Quốc. Chương trình học là những bài tập hợp trong cuốn Đường cách mạng; ngoài ra, còn học và nghe nói chuyện về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ…, lịch sử Quốc tế thứ 1, thứ 2, thứ 3, lịch sử đấu tranh của phụ nữ, thanh niên và nông dân thế giới… Hồi ấy, các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Đặng Dĩnh Siêu cũng đến giảng một số bài ở lớp huấn luyện. Trong thời kỳ 1924-1927, cuộc đấu tranh cách mạng ở Quảng Châu diễn ra gay gắt vào phức tạp. Hồi ấy, có sự hợp tác giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng bọn Tưởng Giới Thạch luôn luôn tìm cách chống Đảng Cộng sản và làm hại những nhân sĩ yêu nước, tiến bộ. Trong khi ấy, ở tỉnh Quảng Đông và vùng lân cận có nhiều bọn quân phiệt hoạt động. Vụ Phạm Hồng Thái ném bom định giết tên toàn quyền Méc-lanh hồi tháng 6-1924 có tác dụng thúc đẩy mạnh phong trào cách mạng Việt Nam, đồng thời làm cho bầu không khí chính trị Quảng Châu càng sôi nổi. Trong tình hình đó, với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, Hồ Chủ tịch đã đặt nơi mở các lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên và trụ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở lẫn vào nhà dân lao động, và những nguyên tắc bí mật được thực hiện nghiêm khắc trong mọi hoạt động của các bộ ta. Các đồng chí Trung Quốc rất chú ý bảo vệ căn nhà số 13, 13-1 phố Văn Minh: từ các phía chung quanh nhà đó đều có cơ quan của Đảng cộng sản Trung Quốc, trong trường đại học Quảng Đông ở trước nhà cũng có một chi bộ đảng. Tới năm 1926, khi bọn Tưởng trắng trợn trở mặt khủng bố cách mạng, thì các đồng chí Trung Quốc chuyển hướng hoạt động và Hồ Chủ tịch rời Quảng Châu.

Chúng tôi đã đi xem các nơi trước đặt cơ quan. Hai căn gác diện tích bằng nhau, thông sang nhau bằng một cửa ở trong nhà và cái sân sau. Mỗi gác là một phòng hình chữ nhật, dài 12 mét, rộng 4 mét, phía trong hẹp hơn phía ngoài một ít; nhà không có trần, từ sàn lên mái chỗ thấp nhất khoảng 3 mét rưỡi. Chỉ có một cầu thang nối tầng dưới với gác nhà số 13. Phần lớn diện tích trong phòng là chỗ làm việc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (nhà số 13) và lớp huấn luyện chính trị (nhà số 13-1), trừ hai buồng nhỏ che ván gỗ làm chỗ ngủ của cán bộ Hội và học viên. Hai phòng đều có cửa ra sân sau; ở đây mỗi bên có một khoảng trống, có mái và tường thấp bao quanh, để thông gió xuống tầng dưới. Ở sân sau gác số 13 có một cái bếp rất nhỏ, người nấu phải đứng bên ngoài, đấy là nơi cán bộ và học viên nấu cơm ăn hàng ngày.

Các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng cho biết: ông chủ nhà này họ Lâm. Khi được biết nhà mình trước kia là một nơi Hồ Chủ tịch đã hoạt động cách mạng, ông Lâm vui vẻ hiến nhà để làm Nhà bảo tàng lưu niệm. Rất say sưa với công việc của mình, các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng đã sưu tầm được một số tác phẩm của Hồ Chủ tịch và một số sách viết về đời hoạt động của Bác. Điều mong muốn và cũng là khó khăn của các đồng chí ấy là làm sao tìm biết được nhiều chi tiết cụ thể về ngôi nhà hồi 1924-1927 để có thể xây dựng, sắp xếp Nhà bảo tàng gần giống như ngôi nhà cũ, nhất là ở hai phòng tầng ba. Năm 1971, Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang thăm hữu nghị Trung Quốc, có qua Quảng Châu và đến thăm Nhà bảo tàng. Các đồng chí phụ trách ở đây rất sung sướng được đồng chí Thủ tướng Việt Nam chỉ dẫn cho một số chi tiết trong nhà, và các đồng chí đang cho sửa chữa cho phù hợp.

Nhà bảo tàng này, sau khi được xây dựng xong, sẽ ghi lại hình ảnh ngôi nhà số 13 và 13-1 phố Văn Minh là nơi cách đây gần nửa thế kỷ, được Bác Hồ dùng làm trụ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và huấn luyện chính trị cho thanh niên Việt Nam; nhắc lại một thời kỳ có ý nghĩa lịch sử, khi Bác đào tạo cán bộ cách mạng và chuẩn bị thành lập Đảng ta, đồng thời tham gia cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc. Đấy còn là một bằng chứng sinh động về mối quan hệ khăng khít giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, về tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại Việt – Trung.” [5]

"…Khoảng tháng 7 năm 1926, hai anh Phạm Trọng Bình và Lợi ở Quảng Châu về Sài Gòn gặp tôi. Hai anh kể cho tôi biết quá trình đi của các anh, và nói đã được gặp ông Nguyễn. Tất nhiên, các anh không kể hết và cũng không nói đã học hành như thế nào, tôi cũng không muốn hỏi kỹ. Chỉ hiểu là lần đầu tiên, chuẩn bị ra đi, tôi thấy sung sướng hồi hộp… Anh Bình bảo tôi viết một bức thư bí mật, báo cáo qua tình hình từ khi các anh về và giới thiệu ba người chúng tôi (anh Ngô Thiêm và một người nữa lâu ngày tôi quên tên, và tôi). Ngoài phong bì đề địa chỉ: Quảng châu thị, Huệ Ái Đông lộ, Trần Nhi Cô, chuyền giao Lương…nữ sĩ. Tôi bụng dạ bảo, mừng thầm, thư này chắc chắn sẽ đến tay ông Nguyễn.

Một đêm tháng chín, với bộ quần áo công nhân, chúng tôi ra bến tàu Khánh Hội, xuống chiếc tàu Đại Phúc Tinh. Mấy anh thủy thủ đón sẵn. Lập tức người ta đưa chúng tôi lần mò trong đêm tối mịt, rồi đưa vào một nơi, đóng cửa lại. Lấy tay sờ soạng, chúng tôi thấy mình đang ở trong một cái khuông rất hẹp, ngồi đứng đều không được. Tôi thấp mà phải co lại như con tôm mới có thể nằm xuống. Còn hai anh kia thì đứng nghiêng nghiêng. Hồi lâu chúng tôi mới biết đấy là cái mạn tàu hai mê. Đứng trong mạn tàu, mình nghĩ mình như thân con kiến, nhưng lại nghĩ: chuyến này mà thoát, gặp được ông Nguyễn… thì cũng thỏa. Cứ như thế từ mười hai giờ đêm trước đến hai giờ chiều sau, tàu ra khỏi hải phận, bọn "ma tà" bên bờ, người ta mới dám mở cho chúng tôi ra, mọi người đã đẫm mồ hôi, như kẻ chết trôi mới vớt lên.

Anh em công nhân đưa chúng tôi vào buồng, hòa sữa cho uống. Thế là thoát "Con chim đã sổ lồng".

Độ năm ngày đêm, đến Hương Cảng, tàu bốc hàng xong. Nhưng vì không có hàng đi Quảng Châu, anh em công nhân lại tìm cách gửi chúng tôi sang chiếc tàu "Quảng Tây". Lại bị giấu một lần nữa; nhưng lần này không phải vì chính trị, mà vì kinh tế; không có tiền tàu… Lần này, chúng tôi không phải là con kiến nữa, mà là những con vịt. Ngồi lom khom dưới đáy tàu, nước đến nửa ống chân. Hơn một tiếng đồng hồ, đợi người soát vé xong, anh em đưa chúng tôi lên.

Chúng tôi được đưa vào gian buồng đặc biệt của anh công nhân thợ máy, tên là Lý Hoa. Anh cho chúng tôi ăn kẹo, bánh, hút thuốc lá.

Khoảng năm giờ chiều, tàu đến Quảng Châu. Chúng tôi được đưa đến một nơi, thấy có anh em công nhân nằm ngồi la liệt, người xem báo, kẻ nói chuyện. Sau đó, một anh công nhân rủ chúng tôi đi ăn cơm. Ăn uống xong lại ngủ một đêm. Anh công nhân ấy lại đưa chúng tôi đến một nơi khác, bảo chúng tôi đi với một người khác nữa. Người ấy đưa chúng tôi đi…

Lên cầu thang gác thứ ba, có mấy cậu bé đưa chúng tôi vào. Trong số các cậu bé, sau này tôi biết có đồng chí Lý Tự Trọng. Một lúc nữa, có một người thanh niên đến, tuổi chừng hai mươi, ăn mặc lối học sinh, có vẻ hoạt bát, linh lợi, tự giới thiệu là Hoài.

Sau khi kể chuyện đường đi của mình, anh Hoài cho biết những người thủy thủ trên tàu đều đã có tổ chức và đám người công nhân ở nhà kia là những người bãi công ở Hương Cảng, được Chính phủ Quảng Đông đưa về nuôi dưỡng và học tập.

Gian nhà này ở trong một căn nhà dài, đối diện với trường Quảng Châu đại học. Trong nhà, trên tường chính giữa ngảnh mặt ra, có chân dung Mác, Ăng-ghen, Lê-nin. Hai tường bên treo chân dung Sta-lin và Tôn Trung Sơn đối diện nhau. Phía ngoài cửa ngảnh vào, treo chân dung Phạm Hồng Thái. Đây là lần đầu tiên, được nhìn các chân dung kể trên một cách rõ ràng. Chúng tôi bảo nhau nhìn cho "no". Ở trong nước, chúng tôi chỉ được nhìn ở nơi thầm kín, đâu mà được thấy trong ánh sáng như thế này. Đứng nhìn, đi nhìn, mà hình như các vị cũng đương nhìn mình và nhìn cả từng bước đi của mình nữa…

Sau đó, một vài đồng chí đến gặp chúng tôi hỏi tình hình trong nước. Có lẽ vừa hỏi và cũng vừa khảo sát chăng? Có một người mặc quần áo học sinh Trung Quốc, trạc chừng ngoài ba mươi tuổi, mắt sáng, gò mà cao, vui vẻ hoạt bát, nói năng hùng biện, tên là đồng chí Lương; một người thì mặt hơi to, thường đeo kính, béo, hay mặc âu phục, tên là Trương. Một người nữa, mặc bộ quần áo Trung Sơn (trong suốt thời gian chúng tôi ở Quảng Châu, lúc nào cũng chỉ thấy mặc có một bộ này), dáng người mảnh khảnh cao, trán rộng, mắt sáng, giọng nói khoan thai, ấm áp… vui tính những ít cười, gọi là đồng chí Vương.

Trong một buổi nói chuyện thân mật về tình hình trong nước, chúng tôi kể từ chuyện quan trường, vua chúa thối nát, đến chuyện gặp cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Văn Trường, đến chuyện anh em thanh niên bồng bột nông nổi, chuyện Bắc, Nam còn thành kiến, v.v… Tóm lại, trong khi kể chuyện, chúng tôi tỏ ra bi quan nhiều. Cuối cùng, đồng chí Vương nói, đại ý: Cũng vì khó khăn thế, còn nhiều điều xấu xa như thế, cho nên chúng ta phải làm cách mạng. Người cách mạng phải là người lạc quan chủ nghĩa, tin tưởng ở sự thắng lợi cuối cùng v.v…

"Lạc quan chủ nghĩa". Sau này tôi mới hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhưng khi ấy, tôi đã thấy nó là một liều thuốc chữa trúng bệnh của tôi. Nhờ thuốc ấy, sau này mỗi khi gặp khó khăn nguy hiểm, tôi đã vui vẻ vượt qua!

Trong cuộc nói chuyện, chúng tôi thấy đồng chí Vương tuy xa nước đã lâu, nhưng đồng chí biết rất thành thuộc tình hình trong nước: năm nào Pháp cướp lúa gạo của ta chở sang Pháp bao nhiêu, năm nào ngân hàng Pháp được lời bao nhiêu, v.v… cho đến chuyện tên toàn quyền Va-ren đã cướp đồ cổ của Việt Nam chở sang Pháp bao nhiêu hòm; nó có mấy người bồi, mấy con chó. Mỗi con chó của nó ăn mỗi thắng bao nhiêu. Với tiền nuôi chó ấy, một người nông dân Việt Nam ăn được hàng năm, hay bằng mấy lần tiền lương hàng tháng của một công chức nhỏ người Việt, v.v…Những con số chân thật và mỉa mai ấy làm cho chúng tôi căm thù và ứa nước mắt…

Ngày khai mạc lớp học, anh em đến đầy đủ, trước buổi khai mạc, gần năm mươi anh em chúng tôi đều phải viết bản "Ngôn chí", nói rõ nghề nghiệp và động cơ của mình ra ngoài. Khi làm lễ khai mạc, học viên cử đại biểu phát biểu ý kiến. Tôi cũng là một người "bị" anh em cử đứng lên nói. Tôi lúc ấy thật là lúng túng; đứng lên, tim đập thình thịch, mặt đỏ bừng rồi tái mét, trông một người thành hai, ba người, cái bàn hình như nâng lên rồi hạ xuống. Một hồi, tôi mới nói được.

Địa điểm lớp học, hình như ở đường Văn Minh thì phải, đối diện với một Hội quán Tổng Nông hội, cách nhau một quảng trường. Ở đấy, vừa là Hội quán vừa là ký túc xá của lớp huấn luyện cán bộ Nông vận tỉnh Quảng Đông. Hàng ngày chúng tôi cũng sang ăn cơm ở bên đó. Sau khi lớp chúng tôi mở, Tổng Nông hội mở tiệc trà hoan nghênh.

Ngoài cửa lớp học, treo một cái biển có chữ lớn "Đặc biệt chính trị huấn luyện ban". Tiền chi phí của lớp học do Đảng cộng sản Trung Quốc giúp một phần, các tổ chức giúp một phần, anh em sĩ quan và học sinh quân Việt Nam ở trường Hoàng Phố hàng tháng bớt tiền lương đóng góp một phần.

Chương trình học đại khái là: trước hết, học "nhân loại tiến hóa sử" nhưng chủ yếu là học từ thời kỳ tư bản chủ nghĩa đến đế quốc chủ nghĩa. Đối với tôi khi ấy, chưa nói gì nội dung sâu xa, ngay hiểu được những danh từ như "tờ-rớt", "xanh-đi-ca",v.v… thật là nhức óc. Sau đó học đến lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ và lịch sử mất nước của Việt Nam. Chúng tôi cũng học các thứ chủ nghĩa như: chủ nghĩa Găng-đi, chủ nghĩa Tam-dân một cách có phê phán và chủ nghĩa Mác-Lê-nin, kết hợp với lịch sử cách mạng tháng Mười.

Về phần tổ chức, chúng tôi học lịch sử và tổ chức Quốc tế và các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ và quốc tế cứu tế, quốc tế nông dân.

Phần cuối cùng là phần vận động quần chúng và tổ chức quần chúng như vận động công nhân và hệ thống tổ chức công hội, vận động nông dân và tổ chức nông hội; thanh niên cũng vậy. Trong khi học vận động quần chúng, có tổ chức tuyên truyền thực tập. Một người đóng vai là người đi tuyên truyền. Nhiều người khác đóng vai là người công nhân, nông dân hay học sinh ngồi nghe và đặt ra câu hỏi để người nói phải trả lời. Sau đó anh em phê bình và rút kinh nghiệm.

Đối với tôi, hệ thống tổ chức công nhân, nào tổ chức ngang, nào tổ chức dọc, vẽ lên hàng như màng nhện, thật rối như canh hẹ.

Ngoài việc lên lớp, sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" ở các tiểu tổ. Mọi người lần lượt báo cáo về lý luận của mình đã biết được. Nếu có sai thì anh em bổ sung cho. Có cả viết "học báo" nữa. Thường có những cuộc phê bình và tự phê bình.

Trong nhưng buổi họp, đồng chí Vương là người phụ trách giảng nhiều nhất. Đồng chí Hồ Tùng Mậu tức đồng chí Lương và Hoài là người trực tiếp hướng dẫn, giải đáp.

Trong khi học, chúng tôi thấy cái gì ở đồng chí Vương? Đồng chí giảng rất dễ hiểu. Đồng chí Vương nhớ những con số rất tài, ai cũng phải khâm phục. Thường khi các đồng chí giảng viên cũng phải hỏi con số ở đồng chí Vương. Đồng chí Vương còn khéo léo dùng những con số để cắt nghĩa những vấn đề phức tạp làm cho học sinh dễ hiểu. Đồng chí nói: cần chú ý tác dụng của con số, vì nó là những tài liệu thực tế làm cho người ta trông thấy sự thật. Như Lê-nin thường nói: Người nông dân tin con số hơn lý thuyết. Dù khó nhưng cũng phải cố gắng nhớ.

Mọi người rất thích đồng chí Vương đến giảng hay tham gia các cuộc báo cáo học vấn ở tổ. Vì cũng một vấn đề ấy mà được đồng chí Vương giảng hay giải đáp thì mọi người dễ nắm được vấn đề hơn là với đồng chí Lương hay đồng chí Hoài. Nhờ có cách giảng hay khéo léo ấy, mà chúng tôi tuy trình độ còn thấp kém, và chỉ được học tập trong thời gian ba, bốn tháng (vì đi lâu, đế quốc nghi), nhưng sơ bộ chúng tôi hiểu được. Mọi người lại rất sợ đồng chí Vương hỏi. Vì đồng chí hỏi những câu mới nghe rất thường, dễ trả lời, nhưng khi bị hỏi văn lại, hỏi sâu vào, thì anh em rất lúng túng.

Đồng chí Vương thường dạy chúng tôi chú ý về thái độ với quần chúng. Đồng chí nói: "Đế quốc Pháp nó dạy cho thanh niên mình hỏng, Tây không ra Tây, Nam không ra Nam, như thế không gần được với quần chúng”.

Đồng chí Vương công việc rất nhiều, nhưng không bao giờ đến chậm giờ giảng. Ngoài thì giờ làm việc, đồng chí còn viết bài trên các báo Thanh niên, Phụ nữ, Quân nhân cách mạng. Nghe nói đồng chí còn dạy chữ quốc ngữ cho mấy anh em làm bồi ở Hương Cảng về ở Quảng Châu nữa.

Lớp học bế mạc, chúng tôi được tổ chức vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, chúng tôi đi viếng mộ Phạm Hồng Thái và mỗi người đều tuyên thệ: "Nguyện hiến thân cho tổ quốc, dù hy sinh cũng không từ".[6]

"… Đồng chí Vương hẹn gặp tôi ở một phố Quảng Châu, trước một công ty bách hóa lớn. Sa Điện chỉ cách Quảng Châu có một cái cầu, qua một nhánh của con sông Châu. Tôi tới chỗ hẹn vào một buổi trưa mùa đông. Đồng chí Vương đã đợi tôi ở chỗ hẹn, chìa tay bắt tay tôi, vồn vã, niềm nở ngay từ phút đầu. Tôi không nhớ một cách cụ thể hình dáng Bác lúc bấy giờ, chỉ có ấn tượng là đồng chí Vương còn trẻ lắm, - khi ấy Bác mới ba mươi lăm tuổi – Người gầy, nhưng khỏe mạnh, đôi mắt rất sáng. Đồng chí Vương mặc một bộ quần áo kiểu Tôn Trung Sơn. Cũng như đồng chí Ích, đồng chí Vương rất nhanh nhẹn, hoạt bát, nhanh nhẹn mà vẫn từ tốn, hoạt bát mà vẫn ôn tồn, cử chỉ và lời nói thì dịu dàng thân mật, khiến cho tôi gần gũi ngay. Đồng chí Vương rủ tôi vào trụ sở một công hội khu phố. Bây giờ phong trào công hội rất rầm rộ ở Quảng Châu và ở khắp các tỉnh khác của Trung Quốc. Mình muốn họp, là anh em thu xếp chỗ ngay cho.

Đồng chí Vương hỏi tuổi, hỏi công việc làm ăn của tôi, hỏi hoàn cảnh lính ta dưới tàu chiến Pháp, hỏi tình hình đồng bào trong nước. Hồi ấy, Pháp đang ra sức vơ vét của cải, bóc lột dân ta để bù đắp vào những thiệt hại của chúng do cuộc đại chiến lần thứ nhất gây ra. Chúng mộ phu đi làm ở Hòn Gai, Cẩm Phả, đi vào đồn điền cao su trong Nam. Đời sống của những anh em ấy thật là trăm cay nghìn đắng. Dân quê thì luôn luôn thiên tai, hết lụt đến hạn. Tôi lấy làng tôi ra làm ví dụ, lụt liền ba năm, nhiều bà con chỉ còn cái xác, thế mà vẫn phải è cổ ra mà đóng sưu cao, thuế nặng. Tôi được dịp thổ lộ những nỗi uất ức của tôi. Đồng chí Vương chăm chú lắng nghe. Nghe xong đồng chí nói, tôi không nhớ lời được, chỉ nhớ là đồng chí Vương nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc Pháp, và tuyên truyền yêu nước cho tôi. Rồi đồng chí lại hỏi tôi được học đến đâu? Tôi nói nhà nghèo, chẳng được học mấy. Đồng chí Vương bảo tôi: "Đấy, các đồng chí cũng thất học. Chúng ta cần giúp đỡ nhau học thêm…"

Buổi gặp đầu tiên ấy cũng ngắn thôi. Nhưng đối với tôi, đấy là kỷ niệm sâu sắc. Gặp đồng chí Ích, tôi đã phấn khởi. Gặp đồng chí Vương, tôi càng phấn khởi hơn. Không những tôi nhận thấy ở đồng chí Vương một người có một tấm lòng yêu nước sâu rộng, mà còn tìm thấy ở đồng chí một người anh săn sóc mình từng li từng tí. Nhưng điều tôi thích nhất vẫn là cách đối xử thân mật và những lời nói ôn tồn, thấm thía của đồng chí Vương.

Cách đó không lâu, tôi được kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Trong buổi lễ kết nạp, đồng chí Vương cũng có mặt. Từ đó, mỗi tuần hai kỳ, tôi từ Sa Điện sang Quảng Châu, dự lớp huấn luyện chính trị, mở cho một số anh em chúng tôi và do đồng chí Vương và đồng chí Ích hướng dẫn. Trí óc tôi dần dần mở mang. Đấy là những ngày tôi say sưa với một tài liệu rất quí báu là cuốn "Đường cách mạng", cuốn này dó chính Bác soạn ra. Ngoài giờ huấn luyện chính trị, đồng chí Vương còn dạy chúng tôi học thêm văn hóa, như dạy học tiếng Anh chẳng hạn. Trong những ngày này, chúng tôi thường gặp đồng chí Vương ở các trụ sở công hội, hoặc ở nhà chúng tôi thuê làm cơ quan để hội họp. Cũng có khi đồng chí Vương hẹn gặp chúng tôi ở một chỗ rồi kéo chúng tôi đi trên hè phố nói chuyện. Những lúc gần gũi như thế, tôi thấy đồng chí Vương không bỏ qua một việc gì, dù nhỏ, nhằm uốn nắn, giáo dục chúng tôi. Một hôm, nhân một câu chuyện gì đó về lính thủy, chúng tôi gọi anh em là họ. Đồng chí Vương cười và hỏi: Đấy là anh em mình cả, sao lại gọi là họ? Lời nói thật là ôn tồn, và tôi nhận ra rằng gọi như thế tức là đã có ý bỉ thử, phân chia người này với người khác.

Việc học tập chính trị và văn hóa đang tiến hành, một hôm trong cuộc họp chung, đồng chí Vương nói hiện nay trong nước đang cần người về hoạt động và hỏi chúng tôi ai tình nguyện về nước? Tôi giơ tay xin về. Đang tuổi thanh niên, tôi rất ham hoạt động, có việc gì là đi. Tôi làm dưới tàu binh Pháp, lương tháng không đến nỗi ít ỏi, thế nhưng tôi bỏ phăng. Đồng chí Vương gặp riêng tôi, hỏi đã nghỉ việc chưa, đã sẵn sàng chưa? Đồng chí căn dăn tôi khi về nước, thì tìm gặp những bạn cũ ở quê nhà hay ở thành phố, vẫn có tinh thần với mình. Trong bất cứ câu chuyện gì, cũng gợi đến cảnh Pháp áp bức bóc lột. Nếu bà con tỏ ý đồng tình, thì hỏi: ta cứ chịu để cho nó áp chế mãi sao? Bà con sẽ hỏi sức đâu mà chẳng chịu? Nói: sức mạnh là ở đoàn kết, đoàn kết thì súng của giặc là vũ khí của mình. Dần dần đưa bà con vào các phường họ, các hội ái hữu, tương tế. Người tích cực thì tổ chức vào Hội trước. Người tốt tổ chức sau. Cứ thế mà mở rộng phong trào. Đồng chí Vương dặn dò tôi cặn kẽ, tỉ mỉ nhất là vấn đề giữ bí mật. Trước khi chia tay, đồng chí Vương lại bảo tôi phải chú ý một điểm: Mình ở ngoài nước về, thường là có mật thám theo. Cho nên mới về nước, không nên đi lung tung ngay, chưa nên vào nhà ai vội. Không những thế, nếu cần còn phải đóng vai người chơi bời để mật thám không chú ý…”[7]

[1] T. Lan, "Vừa đi vừa kể chuyện", Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1963.

[2] Trần Dân Tiên, "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1975.

[3] Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh (tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng), Nhà xuất bản Sự Thật.

[4] Hồi ký "Những lần gặp Bác" của đồng chí Nguyễn Lương Bằng, đăng trên báo Nhân Dân, ngày 08-05-1960.

[5] Quang Thái – "Nhà số 13 phố Văn Minh, Quảng Châu", báo Nhân Dân.

[6] Lê Mạnh Trinh, "Những ngày ở Quảng Châu và Xiêm", trong tập "Bác Hồ", Nhà xuất bản văn học, năm 1960.

[7] Nguyễn Lương Bằng "Những lần gặp Bác", trong tập "Bác Hồ", Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.

Trở về Tổ quốc cách mạng

Tuy bọn Quốc dân đảng khủng bố tợn, Bác vẫn rán ở lại Quảng Châu một thời gian, vì Bác cần bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc, và cần duy trì công việc của hội "Thanh niên cách mạng đồng chí". Nhưng một đêm đã khuya, vào đầu tháng năm 1927, đồng chí Lĩnh (người Việt Nam, tốt nghiệp tại Trường quân quan Hoàng Phố, làm việc ở sở Công an) đến báo tin: "Chúng sắp bắt anh đấy! Tính thế nào anh phải tính nhanh đi!". "36 chước, chước "chuồn" là hơn”. Bác liền bí mật đi Hương Cảng.

Đến Hương Cảng, bị sở mật thám Anh xét hỏi. Cũng như đối với mật thám Pháp, mật thám Ý, lần này gặp mật thám Anh, Bác cũng đối phó xong xuôi, dù lần này khó khăn hơn nhiều. Chúng bảo Bác phải rời khỏi Hương Cảng trong 24 giờ.

Lên Thượng Hải, bọn Quốc dân đảng cũng khủng bố gắt. Để che mắt mật thám, Bác mặc thật bảnh, ở khách sạn thật sang. Nhưng mưu mô ấy không thể kéo dài, tốn tiền quá.

Chỉ còn một cách là chạy về Tổ quốc cách mạng – chạy về Liên-xô. Bác làm việc một thời gian ở Mát-xcơ-va, và ở Bá-linh rồi ở Pa-ri. Cố nhiên, lần này không đến gặp quan thượng thư thuộc địa, và phải hết sức khéo léo tránh mặt những người “bạn” mật thám Pháp đã quen thuộc Bác năm xưa... Bác được phái đi dự cuộc hội nghị quốc tế “chống chiến tranh đế quốc” ở Bơ-rúc-xen, thủ đô nước Bỉ. Đến ga xe lửa, thì Bác gặp đồng chí Xan Ca-ta-da-ma – người sáng lập Đảng cộng sản Nhật. Vì tuổi già, đồng chí được đoàn thể cấp cho vé xe hạng nhất. Khi thấy Bác đi hạng ba, đồng chí cũng quyết đi hạng ba, mặc dù Bác khẩn khoản mời đồng chí cứ đi hạng nhất cho khỏe khoắn. Đồng chí Xan Ca-ta-da-ma là một người thợ nhiều nghề, đấu tranh đã nhiều, lênh đênh không ít, tính rất kiên quyết, đồng thời rất hiền lành.

Đến dự hội nghị, có nhiều đại biểu các nước thuộc địa, và đại biểu mấy đảng cộng sản các nước đế quốc. Ở hội nghị, Bác có gặp người chiến sĩ lão thành yêu nước là cụ Nê-ru thân sinh của Thủ tướng Nê-ru.

Sau hội nghị ít lâu, Bác đi Thụy Sĩ, sang Ý để dần dần đi về Tổ quốc.[1]

Sang Xiêm, về Hương Cảng hợp nhất Đảng

“... Bác đáp tàu Nhật Bản đi sang Xiêm. Ở Xiêm, Bác giúp kiều bào chỉnh đốn thêm những đoàn thể yêu nước, và tổ chức thêm trường học dạy các trẻ em. Kiều bào Xiêm có thể chia làm ba hạng. (A) là những đồng bào nghèo - số đông từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị - sang Xiêm buôn bán kiếm ăn. (B) là cháu chắt những đồng bào theo đạo Thiên chúa bị triều đình Minh Mạnh và Tự Đức khủng bố chạy trốn sang Xiêm. Những kiều bào này ở tập trung thành từng xóm từng làng. Họ vẫn nói tiếng Việt Nam ăn mặc như người Việt dù họ đã lấy quốc tịch Xiêm. (C) là những người đã tham gia phong trào Văn thân ngày trước và phong trào cách mạng ngày nay, bị thực dân Pháp khủng bố mà chạy sang đây. Khi đông người thì ở tập trung từng xóm, ít người thì ở xen lẫn với kiều bào cũ.

Nói chung, kiều bào đều đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhớ thương Tổ quốc, và căm thù thực dân. Có những cán bộ rất tận tụy và được kiều bào rất tin cậy.

Bà con Xiêm đối với kiều bào ta cũng tử tế. Chuyện sau đây chứng tỏ cảm tình tốt của người Xiêm đối với kiều bào : Cụ Tú Hướng (em cụ Đặng Nguyên Cẩn) là một người cách mạng già rất gương mẫu. Một hôm thực dân Pháp phái chủ mật thám sang yêu cầu chính phủ Xiêm bắt giam cụ Tú cho chúng. Viên quan địa phương cho mời cụ Tú đến trụ sở và hơn mười cụ già Xiêm da đen, người thấp, râu bạc giống hệt cụ Tú, rồi bảo tên mật thám Pháp : “Đấy, ông xem ai là cụ Tú Hướng thì ông bắt đi. Nhưng nếu ông bắt nhầm người công dân Xiêm, thì ông sẽ phải chịu phạm luật quốc tế!”. Tên mật thám nhìn kỹ, thấy ông già nào cũng giống nhau, nó không nhận ra ai là cụ Tú. Kết quả là nó phải cụp đuôi chuồn không dám bắt ai.

Ở Xiêm khoảng một năm, Bác được tin hội “Thanh niên cách mạng đồng chí” chia rẽ thành ba phái và tổ chức ba đảng cộng sản khác nhau. Nóng ruột, Bác lại bí mật trở lại Trung Quốc, và mời đại biểu ba phái đến Hương Cảng họp hội nghị. Đến dự hội nghị có Bác và các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh, Nguyễn Đức Cảnh…

Để giữ bí mật, hôm thì mấy anh em giả đánh “ma chược” ở khách sạn, hôm thì đến sân vận động xem đá bóng. Sau mấy buổi bàn cãi sôi nổi, đến ngày 3 tháng hai 1930, (vào dịp Tết âm lịch) ba phái đều đồng ý thống nhất thành Đảng cộng sản Việt Nam. Mọi người đều vô cùng vui mừng, phấn khởi. Để chúc mừng Đảng ra đời, Bác đãi một bữa Tết nguyên đán vừa tiết kiệm, vừa linh đình.

Bác nói : Từ năm 1918, Bác gửi cho hội nghị Véc-xay (hội nghị hòa bình giữa các nước dự cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, họp ở Pháp) tám khoản yêu cầu của nhân dân Việt Nam, đến năm 1920 - vào Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1924 – dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản và năm 1930 – dự cuộc thành lập Đảng công sản Việt Nam, đó là những ngày sung sướng nhất trong đời Bác.

Từ đó giai cấp công nhân Việt Nam có đảng tiên phong của mình và ngay từ đầu Đảng đã nắm quyền lãnh đại cách mạng. Tin mừng về việc thành lập một Đảng cộng sản thống nhất làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta vô cùng phấn khởi, và từ đó cuộc vận động cách mạng ào ạt tiến lên từ Bắc đến Nam. [2]

“Đồng bào ta ở Xiêm, lúc bấy giờ có gần hai vạn kể cả mới và cũ, trong đó có những người sang từ đời Gia Long, hoặc từ đời Minh Mạng, Tự Đức. Đa số là người lương nhưng cũng có một số đạo Gia tô. Nhưng lương hay giáo, kiều bào ta ở Xiêm đều sẵn lòng yêu nước. Phần lớn tán thành hoặc ủng hộ phong trào Cần vương hay phong trào Duy tân, Đông du.

Sau khi các phong trào nói trên thất bại, một số người hoạt động của phong trào cũng thường sang tạm lánh ở Xiêm như các ông Ngô Quảng, Thần Sơn, cả cụ Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính và một số người khác nữa. Những nhà hoạt động chính trị này đều đeo đuổi một chủ trương là “chiêu binh mãi mã” để về đánh Pháp. Họ không có một đường lối chính trị, một quan điểm trường kỳ trong công cuộc cách mạng giải phóng Tổ quốc. Họ coi đất Xiêm chỉ là nơi tạm bợ, coi nhà kiều bào chỉ là nơi trú chân, nên không ai tuyên truyền tổ chức kiều bào cả. Chỉ từ khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội do đồng chí Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo thì mới có chủ trương truyên truyền, tổ chức kiều bào để làm cơ sở nối liền phong trào cách mạng trong và ngoài nước.

Ngay từ năm 1925, một số đồng chí của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã được phái về Xiêm tổ chức Hội Thân ái với mục đích là tập họp kiều bào, làm cho họ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, dựa trên cơ sở đó mà giáo dục lòng yêu nước. Một số thanh niên từ bên nước mới sang thì được tổ chức lại thành Hội hợp tác là của chung. Trừ chỉ tiêu sinh hoạt mức tối thiểu hàng ngày của hội viên, còn bao nhiêu thì dùng vào công tác cách mạng. Hội này là nòng cốt của phong trào và là cơ sở phát triển hội viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.

Từ năm 1926 trở đi, Hội Thân ái lần lượt được tổ chức ở những nơi có đông kiều bào như U-đôn, Sa-côn, Na-khon, Pha-nom. Ở những nơi đó, Hội hợp tác cũng được thành lập. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng đã tổ chức được ba chi bộ, do Tổng hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Hồng Kông lãnh đạo.

Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, tuy Tưởng Giới Thạch đã phản động, nhưng Tổng hội ở Hồng Kông vẫn liên lạc được thường xuyên với các chi bộ ở Xiêm.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở đâu ? Người ta không được biết.

Mùa thu năm 1928, ở Bản-đông, thuộc Phi-chít (Trung bộ nước Xiêm) có ông Chín xuất hiện.

Những người chưa từng quen biết ông, đoán với nhau, thì thào. Có người nói : Có lẽ ông ở bên nước mới sang chăng. Nhưng rồi họ tự hỏi : nhưng sao ông lại nói tình hình thế giới được rành mạch như thế ? Có người nói : Hay là ông ở Tàu về ? Nhưng rồi họ cũng tự nhủ : Không lẽ ! Vì ông biết tình hình trong nước rất tường tận kia mà !

Ở đây luôn luôn có người trong ra, ngoài vào. Ai đến cũng đều có báo cáo tình hình với Hội hợp tác, nhưng không ai biết được nhiều chuyện mà nói rất rõ ràng và dễ hiểu như ông Chín cả. Mà lạ nhất là tại sao ông cũng hiểu rõ cả tình hình kiều bào ở Xiêm.

Ở Phi-chít kiều bào có ít, tổ chức tương đối tốt nhưng lại gần tai mắt của mật thám, nên ông Chín chỉ ở lại có mươi ngày rồi đi U-đôn. Từ Phi-chít đến U-đôn, phải đi bộ theo đường rừng mất khoảng mươi ngày. Mỗi người đi đường phải gánh theo hai thùng có nắp đậy để đựng những quần áo, đồ dùng lặt vặt và mang một con dao, một ống cheo ( thịt gà hoặc sườn lợn băm nhỏ rang muối mặn) và mười ki-lô gạo. Lúc ấy là mùa thu. Cây rừng trọi lá. Trên thì trời nắng, dưới chân thì đất cát lẫn sỏi.

Thấy ông Chín xưa nay chưa quen gánh mà cũng chưa quen đi bộ, anh em không để cho ông gánh. Nhưng ông không chịu. Đôi thúng đưa đi đưa lại, chân nam đá chân chiêu. Thế mà ông Chín vẫn cố gắng. Mấy ngày sau, trong lúc ngồi nghỉ, anh em thấy hai bàn chân của ông Chín đã đỏ chín, rớm máu. Hỏi ông, mới biết là ngay từ ngày đầu, chân ông đã phồng và đỏ như vậy, nhưng không ai biết, vì ông cứ thản nhiên làm như không có việc gì xảy ra. Ông cười và nói : “Thiên hạ vô nan sự, nhân tâm tự bất kiên ! Cứ để thế, đi một vài hôm nó sẽ thành “dạn”, đừng ngại…”. Quả nhiên, từ ngày thứ tư trở đi, ông Chín đã theo kịp mọi người. Mấy tháng sau gặp lại ông, tôi hỏi : “Bây giờ thì ông đi bộ giỏi lắm ?” Ông Chín nói : “Hừ ! Bây giời thì mình “long hành hổ bộ” rồi”. Thật vậy, người ta kể lại rằng, từ U-đon đến Xa-vang, dài 71 cây số, thế mà ông chỉ đi trong một ngày !

U-đôn, thuộc Đông-bắc nước Xiêm, có thể gọi là trung tâm của cuộc vận động Việt kiều ở Xiêm. Ngoài U-đôn, thì ở Noọng-khai, Sa-côn, Na-khon, Thạt-Pha-nôm, Mục-đa-han, đều có kiều bào đông. Ông Chín quyết định đi U-đôn trước. Hồi ấy, chi bộ ở U-đôn là chi bộ thứ hai của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Ở đó, cũng đã có tổ chức Hội thân ái và Hội hợp tác.

Với chủ trương của Tổng hội là đoàn kết kiều bào trường kỳ cách mạng, anh em thanh niên ở trong nước mới ra đã thực hành việc đó có kết quả khá. Nhưng dù sao, tư tưởng ấy vẫn chưa được thấm nhuần nên việc tổ chức kiều bào còn mắc bệnh hẹp hòi: Ở đất nước người ta lâu mà tiếng Xiêm, chữ Xiêm không học, vì anh em cho rằng không bao lâu nữa, không đi nước ngoài thì cũng về nước để tuyên truyền vận động, chứ chẳng ăn đời ở kiếp gì đây. Mặt khác, trước tình hình có nhiều khó khăn, phong trào trong nước bị khủng bố dữ dội, anh em thấy tiền đồ cách mạng còn đen tối. Trong cuộc hội nghị đầu tiên khi tới U-đôn, ông Chín báo cáo trước chi bộ, nói rõ tình hình và triển vọng cách mạng thế giới, tính trường kỳ gian khổ của cách mạnh Việt Nam và đề ra chủ trương : mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở cần thiết, tuyên truyền giáo dục kiều bào tôn trọng phong tục tập quán và giữ pháp luật của người Xiêm, làm cho quần chúng Xiêm có cảm tình với cách mạng Việt Nam.

Ông Chín chủ trương đổi báo Đồng thanh (một tờ báo của Hội thân ái xuất bản từ năm 1927) ra báo Thân ái; nội dung tờ báo phải rõ ràng, chương phải ngắn gọn và dễ hiểu; báo phát hành càng rộng càng tốt. Hội hợp tác trước kia chỉ nhận anh em thanh niên trong nước mới ra, nay chủ trương nhận cả kiều bào nào thật thà yêu nước tình nguyện gia nhập. Ông lại chủ trương xin phép Chính phủ Xiêm lập trường học cho trẻ em Việt kiều, khuyến khích mọi người học tiếng Xiêm, mở rộng việc vận động học chữ quốc ngữ. Ông Chín quyết định ở lại đây một thời gian. Lúc này, không ai bảo ai, người ta quen gọi ông là “Thầu Chín” (Thầu, tiếng Lào, để gọi người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính).

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3