Độc Huyền Cầm (Phần I) - Ngoại Truyện 2 - Phần 1
Ngoại truyện
2: OANH
“Sông Tô nước chảy quanh co
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya
Buồn tình vừa lúc phân chia
Tiếng ai như đã bên kia hẹn hò
…
Đèn ta thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này?”[1]
[1] Ca
dao.
***
1.
“Thầy u gọi con là Hĩm?”
Bàn tay gầy gầy, xương xương vuốt
gọn tóc nàng. Giọng nói dịu dàng nhưng thờ ơ cất lên làm đứa bé gái không khỏi
giật mình. Vị phu nhân thứ hai của quan Hành khiển xưa nay rất kiệm lời, luôn
nhìn đời bằng ánh mắt xa vắng, mông lung, cử chỉ khiêm nhường đến mức lắm lúc
chẳng mấy tương xứng với thân phận chủ nhân. Người như thế tự nhiên cất lời nói
chuyện khiến kẻ dưới ngạc nhiên, chẳng rõ biết nên đáp lại thế nào. Theo hầu
người phụ nữ ấy không lo bị quở trách, càng không sợ vất vả, chỉ ngại mỗi một
điều.
Buồn.
Vò vò dải dây lưng đã bạc màu
quấn quanh bụng, con Hĩm cúi gằm mặt. Nhìn mấy đầu ngón chân di di trên nền đất
đến phát chán, con bé nhấp nhổm mãi, muốn nói mà chẳng cất được thành lời. Lâu
thật lâu, hình như người phụ nữ nọ cũng quên bẵng mất sự hiện diện của đứa trẻ,
cứ cắm cúi bên những búi tơ vàng óng của mình. Đúng lúc Hĩm định đứng lên đi
rút quần áo phơi ngoài sân, bà mới bảo:
“Con gái… nên có một cái tên tốt
lành. Ta nghĩ vậy!”
Đôi mắt đen thẳm mênh mang in
hình đứa bé gầy guộc bên cạnh, nửa thấy, nửa lại như không. Đôi mắt giống dòng
nước chảy xa, xa mãi, mất hút vào một miền mờ nhòa, thăm thẳm khiến con trẻ bối
rối mà lảng tránh.
“Phu nhân… phu nhân dạy con hát,
dạy con chơi đàn được không? Con… con muốn trở thành người như phu nhân!”
Nói ra những lời ấy rồi mới từ từ
ngẫm lại, nó thấy dường như có gì không đúng nhưng vẫn mím chặt môi, nắm chặt
lấy tay áo người đàn bà. Nếu không phải nhị phu nhân chẳng bao giờ lớn tiếng
mắng mỏ, chẳng bao giờ một điều tôn ti, hai điều thứ bậc, có cho tiền con Hĩm
cũng không dám to gan như thế.
“Trở thành người như ta? Trở
thành người như ta… có gì tốt đâu?”
Năm đó con bé mới lên bảy. Trí
khôn của một đứa bé lên bảy chỉ mơ hồ nghĩ: làm thứ thiếp thì không tốt; làm
thứ thiếp nhưng lại thua cả một người được cưới về sau mình ắt chẳng phải
chuyện tốt lành; làm thứ thiếp mà không có con, cả đời cô độc… Nghĩ đến đấy,
con bé không sao nghĩ tiếp được nữa. Cái Hĩm không biết như vậy khủng khiếp hơn
cảnh con cái nheo nhóc, tay bồng tay bế lo chạy ăn từng bữa khủng khiếp hơn.
Nếu không phải vì khốn khổ khốn
nạn đến vậy, thầy u chắc không dễ dàng bán nàng đi làm con ở cho người.
Mà cũng có khi chẳng phải, nàng
chỉ là một đứa con gái thôi.
2.
“Từ nay gọi con là Oanh, được
không?”
“Oanh” ấy là chim oanh, phu nhân
bảo vậy.
Nàng chưa kịp mừng thì trải qua
một trận phong ba tan tác. Ba đời họ Nguyễn bỗng chốc chẳng còn một ai trừ
những vũng máu đào thấm dần xuống từng tấc đất, những thây người không còn vẹn
nguyên dần dần nguội lạnh trong một buổi chiều tà với tiếng quạ kêu rờn rợn.
Bản thân vì trót mang phận người ở nhà ấy nên sau đợt quan quân đến Côn Sơn vây
bắt, tịch biên tài sản, nếu nàng không đi làm nô tì ở phủ quan thì cũng bị buộc
sung vào giáo phường, làm đời con hát.
“Cô bé này chắc có học qua hát
xướng rồi phải không? Cũng có bài có bản lắm!” – Thầy Nguyễn vuốt vuốt chòm râu
bạc, mắt nheo lại làm những nếp nhăn xô nhau càng khiến gương mặt hom hem thêm
phần khắc khổ. – “Con bảo thầy dạy hát cũng là người đặt cho con cái tên
‘Oanh’? Xem ra người ấy tốn không ít tâm tư đâu. Trùm Tuân, cô bé này giữ được.
Yến oanh ở đời không thiếu, nhưng oanh nhà ta là con chim oanh bằng vàng, một
bước sẽ đậu cành cao. Kim Oanh, từ nay gọi con là Kim Oanh.”
Sự đời chìm nổi, ngẫm lại âu cũng
là hai chữ duyên phận, một sự hàm ơn.
Phu nhân lúc sinh thời từng bảo:
“Nữ nhân được cả trăm vạn ánh mắt đổ vào không phải hoàng nữ của đế vương,
không phải kim chi ngọc diệp xuất thân thế gia thì nhất định chỉ có thể là một
dạng người. Chính là… đào hát”.
“Chị không hiểu tại sao u lại dạy
chị hát với chơi đàn cũng là bình thường thôi. Đến em được u đẻ ra mà còn chẳng
hiểu nữa là…” – Con gái nhị phu nhân từng tựa cửa, ngửa cổ nhấp trà, nhạt
giọng: “Có khi… từ trong sâu thẳm trái tim mình, u chưa từng phân định được rõ
ràng chuyện làm con hát là hay hay dở. Nhưng ít nhất… em nghĩ… u từng sợ chị em
mình sẽ trở thành một người giống bà. Thế xem ra đã quá tình nghĩa rồi!”
3.
Phu nhân đã sợ. Phu nhân đã muốn
kéo tay hai đứa trẻ khỏi thứ vận mệnh khi còn xuân xanh người đã trót vướng
vào. Nhưng người chẳng sống được lâu đến thế, càng chẳng thể ngăn được những
thứ ông trời đã quyết an bài. Hay hay dở dở nói ra thì dễ, nhưng luận có dễ hay
chăng?
…
Lần đầu tiên gặp gỡ là lúc Kim
Oanh mới ra nghề, chưa có địa vị, càng chưa được mời đi hát riêng. Chút ít danh
tiếng đồn thổi chẳng qua là nhờ nhan sắc, nhờ được ca nương Bạch Vân chống lưng
chứ không phải bởi tài năng.
Đêm đó, giáo phường Khán Xuân rất
đông khách bởi chẳng mấy khi Bạch Vân cao hứng phá lệ, ngồi xuống chiếu hát hầu
ngần ấy quan viên. Xưa nay muốn gặp mợ phải đặt trước đến cả tháng mà có khi
còn chẳng được toại nguyện. Thiên hạ đồn người con gái ấy đi lại với không ít
công hầu khanh tướng trong triều, là vợ nhỏ của người này người kia. Một đồn
mười, mười đồn trăm, lắm kẻ tò mò muốn biết ả đào ấy có dung mạo thế nào, tài
hoa đến đâu mà làm lung lay được bao nhiêu trái tim như thế. Sau này nghĩ lại
những năm tháng ấy, ông trùm Tuân chẳng dám nói lớn bao giờ, chỉ ậm ừ rồi rít
một hơi thuốc lào, lảng sang việc khác. Cách sống của Bạch Vân hẳn nhiên không
làm ông trùm vừa mắt nhưng tiền người ấy mang về lại chưa bao giờ ít… thế nên…
Ngần ấy những đồn đại vây quanh, không cứ là quan khách, đến cả ca nương, kép
đàn trong giáo phường cũng hồi hộp chờ đợi cái người hiếm hoi lắm mới nhìn thấy
bóng ấy.
Treo cây đàn tì bà lên tường, Kim
Oanh thu tay lại, lặng lẽ đứng sang bên chờ cho hết khúc hát. Xung quanh nàng,
người ta nói nhiều, cố nói thật to để được Bạch Vân để mắt đến. Nào là bình
phẩm ca từ, nào là khen tiếng hát, tiếng phách gõ xuống sao mà thanh thoát,
điệu nghệ, đanh, chắc mà giòn… Không lời hoa mỹ nào vung ra lại tiếc. Ca trù là
thú chơi của tao nhân mặc khách, của những bậc thức giả bác học thế nên đã bỏ
tiền đến chốn này, có ai lại muốn thành kẻ đàn gảy tai trâu. Vậy mới càng phải
nói, say sưa nói…
“Ô… không ngờ công tử cũng đến
đây nghe hát? Thật có nhã hứng.”
“Người ta rảnh rỗi đương nhiên có
thể đến rồi.”
“Thú nghe hát này rất thâm sâu,
công tử tuổi còn trẻ, e rằng chưa hiểu hết cái hay của nó.”
“Chẳng hay phụ thân cậu dạo này
có được mạnh giỏi không?”
“Đúng là hổ phụ sinh hổ tử, con
nhà tông không giống lông cũng giống cánh.”
Người này nhấm nháy người kia,
chớp mắt đã tạo ra một đám ồn ào. Từng lời, từng lời vang lên làm Kim Oanh xao
nhãng khỏi nụ cười trên môi Bạch Vân, trong lòng không khỏi tò mò khi thấy vài
người đàn ông ăn vận quần là áo lượt đột nhiên quay ra chú mục vào một chàng
trai trẻ ngồi trong góc khuất, im lặng suốt từ đầu. Chỉ cần không phải kẻ ngốc
là có thể nhận ra ẩn ý chẳng mấy tốt lành trong những lời nói ấy.
“Chết thật! Ta không trông thấy
ngươi. Bộ quần áo bẩn mất rồi, phải đền thế nào đây?”
Bình trà trên tay người thanh
niên mới đứng dậy từ bàn của mấy khách quan kia vô duyên vô cớ đổ ào xuống vai
chàng. Nước hãy còn âm ấm loang trên nền vải lúc trước chắc được nhuộm lam
nhưng giờ màu đã bạc. Y phục gọn gàng nhưng cũ kĩ, với những kẻ quen nhìn mặt
mà bắt hình dong thì sao có thể coi trọng cho được. Bàn tay đặt trên đùi người
ấy hơi siết, nét môi mím lại nhưng cả thân người tuyệt nhiên không hề chấn
động.
“Cô… cô Oanh… rượu đó… rượu đó…”
Con bé hầu ngây ra khi thấy khay gỗ trong tay nhẹ hẫng đi. Nó ấp úng sợ sệt
nhưng không dám làm liều, chỉ biết giương mắt nhìn.
Bóng áo lụa hồng hồng xanh xanh
lướt tới cùng tiếng động vui tai của sợi xà tích bằng bạc nhẹ rung theo bước
chân. Gió đưa hương tới. Thơm thật! Thơm mùi rượu, thơm cả mùi hoa trong chiếc
túi hương nơi cổ yếm đào. Miệng chén gốm men ngọc chạm vào nậm rượu kêu “canh”
một tiếng thật trong. Chàng trai đến lúc ấy mới như sực tỉnh, nhìn lên rồi lại
nhìn xuống, có ý như né tránh. Đôi đồng tử đen láy của người con gái hơi ngước
khi rượu đã đầy, thu lấy sự lúng túng của chàng vào đáy mắt. Dường như điệu bộ
ấy khiến khóe miệng Kim Oanh nhích cao hơn chút nữa.
Khách rộ lên cười, có kẻ còn vỗ
đùi đen đét. Đứng nín lặng sau cây cột gỗ, con bé hầu trợn mắt hoảng hồn nhìn
cái bình nâu xấu xí được Kim Oanh ngang nhiên đặt “cạch” lên bàn. Nó không biết
cô đào đã trút rượu từ cái nậm men ngọc xinh đẹp sang cái bình thô kệch ấy lúc
nào mà nhanh thế, càng không hiểu cậu công tử kia trót làm gì khiến cô Oanh nổi
giận mà làm cho bẽ bàng đến vậy. Chàng ngồi im, lạnh nhạt từ từ ngẩng lên nhìn
cho rõ gương mặt phấn son xinh đẹp nọ. Tiếng cười rồi cũng vãn, người ta dằn nó
xuống thành những tiếng khúc khích trêu ngươi. Họ ngầm đánh cược xem liệu cậu
trai kia có dám uống hay không, có dám mượn cớ tìm nơi xả giận hay không.
Đôi môi đỏ màu son mấp máy. Thanh
âm thoát ra trong vắt, ngân nga mềm như dải lụa:
“Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may[2]”.
[2] Ca dao.
Đám đàn ông ngây người.
Cả chàng trai cũng ngây người, chằm chằm nhìn nét
miệng đẹp đẽ, nhìn đuôi mắt cong cong ấy. Ánh nhìn chiếu tới như thể muốn lật
tung lên kiếm tìm dưới lớp phấn hương liệu có giấu giếm toan tính hay chăng.
“Rượu nhạt uống lắm cũng say. Người khôn nói lắm… dẫu hay
cũng nhàm.” Từng chữ nhả ra thong dong, bâng quơ như thể chỉ muốn nói cho trọn
một đoạn ca dao. Mợ Bạch Vân đưa tay chỉnh lại mái tóc vấn trong chiếc khăn lượt,
liếc nhìn rồi cao giọng: “Rượu này đào nương đã rót, công tử nên nể mặt em ấy
mà uống lấy một ngụm.”
Chiếc chén nằm giữa ba ngón tay mềm mại thoang thoảng
mùi thuốc bắc, mùi hoa cúc. Rượu loang loáng sắc nến, loang loáng ánh nhìn. Nắm
tay đặt trên đùi dần duỗi ra, cứng nhắc đón lấy vật mỏng manh ấy.
“Quả xứng là: Tay tiên nâng chén rượu đào. Đổ đi thời
tiếc, uống vào thời say. Thịnh tình này ta không thể không nhận. Xin cảm tạ!”
Khi tay áo rộng nâng lên che trước trước mặt, dường
như chàng thấy thấp thoáng một nụ cười.
4.
“Lúc trước ta từng nhìn thấy cô… trong lễ mở xiêm áo…
tại giáo phường Khán Xuân. Lúc đó người đánh trống chầu cho cô là…”
“Thực ra cô không cần phải làm vậy. Đám người đó gây
ra mấy chuyện như thế không phải là lần đầu. Có trách thì trách ta vô dụng.
Nghèo thì hèn, các cụ nói cấm có sai. Ức Trai tiên sinh qua đời, người như ông
ấy còn chết tức tưởi thì những kẻ như cha ta, như ta sống thế nào? Lễ nhạc gì?
Phẩm phục gì? Triều nghi gì? Ngay ngắn cho ai, hay cho ai, đẹp cho ai? Cứ để lũ
hoạn quan cung cấm tự tung tự hứng lấy với nhau!”
“À… mấy chuyện này cô nghe cũng không hiểu nhỉ? Xin
lỗi”.
Đặt cây đàn nhị xuống cái chiếu hoa, chàng trai
nghiêng đầu, cười vang từng tiếng rời rạc. Cánh tay quờ quạng mấy nậm rượu lăn
lóc xung quanh rồi cương quyết cậy từng ngón tay của Kim Oanh ra, giằng cho
được bình rượu mới.
“Cô sợ ta không có tiền trả sao?”
“Công tử theo nghiệp đèn sách ắt biết chuyện Tái Ông
thất mã. Họa hay phúc không nói trong một lời!” Cánh tay thu lại, nắm chặt bình
rượu không buông. Lúc ấy, lòng thiếu nữ không khỏi rung lên khi nhớ về ngày xưa
tháng cũ. Dưới mái hiên nhà vào một đêm mưa giăng, trà sen trong chiếc ấm đất
con con… Đại nhân cũng từng nói ra những lời như thế để rồi len giữa tiếng giọt
ranh nhỏ xuống từng hạt nước tinh tang, tinh tang là thanh âm của sợi dây đàn.
Chàng ngẩng đầu nhìn cô đào, chớp mắt rồi lại bật cười.
“Em lại múa rìu qua mắt thợ rồi. Có gì thất thố mong
công tử thứ cho!” Nàng thoáng giật mình, vội cúi đầu như thể vừa làm gì sai
trái nhưng khi nói tiếp lại không hề có ý thoái lui. “Nhưng… rượu này người
không được uống nữa. Uống vậy… hoài rượu của chúng em!”.
“Không uống thì không uống. Kim Oanh, ta về đây!”
“Em không đáng để công tử cho biết tên sao?” Nàng chợt
ngẩng đầu, vui miệng cất lời.
“Ta họ Phan.” Chàng ngập ngừng. “Tự Tuấn Ngọc”.
5.
Khách quan hào phóng vung tiền thuê trọn cả một dãy
nhà bên bờ hồ Dâm Đàm vào dịp chớm thu. Trăng tròn vành vạnh, cúc vàng nở rộ
dát vàng trải khắp lối đi. Những tấm rèm sa mỏng buông chùng chốc chốc lay mình
trong gió làm cảnh sắc tứ bề như chìm trong màn sương mỏng.
“Thế này ổn không hả mợ?” Cô đào trẻ chốc chốc lại
đánh mắt sang bên, bàn tay ẩn dưới tay áo rủ xuống không ngừng run bắn.
“Sao lại không ổn? Giờ em là đệ nhất đào nương của
giáo phường rồi còn gì?”
Đốm lửa như búp lá vươn lên, bừng sáng màu vàng cam ấm
áp rung khẽ khi đĩa đèn dầu lạc được đặt lên hai bàn tay, lên đỉnh đầu cô gái.
Ánh nến dịu lại làm không gian mờ mờ sáng tối, chòng chành trong gió lướt trên
mặt hồ. Nhạc tấu lên cũng là lúc thân hình yểu điệu ấy nhẹ nhàng chuyển động,
khi nhanh, khi chậm, lúc tựa lá liễu, lúc lại tựa dải lụa đào. Nửa bàn chân bám
trên chiếc chiếu hoa mà như thể đang lướt đi trên mặt tấm lụa trơn láng. Đèn
không tắt dù chỉ một ngọn, dầu cũng tuyệt không sánh ra ngoài.
Đôi mắt lá đào đen láy long lanh, rạng rỡ mà xa thẳm.
Nét môi cắn chỉ hơi nhích lên thành nụ cười nửa thực, nửa hư. Điệu nhạc càng
nhanh, những tà áo đủ màu tung bay càng đẹp bởi mỗi lượt vải sa mỏng mỗi màu
chồng lên nhau lại tạo ra sắc khác. Đốm lửa làm đôi má thêm hồng, làm đôi môi
thêm đỏ, làm người con gái đẹp lại đẹp muôn phần.
Giá trị của những năm tháng thanh xuân…
Mợ Bạch Vân từng bảo chỉ đến khi nào trở thành con hát
già, ngồi bên chiếu hoa nhìn những ả đào trẻ trung hát lại những khúc nhạc năm
xưa mình từng hát, múa lại những tổ khúc năm xưa mình từng múa mới thấy hoài,
thấy phí những ngày nước chảy qua tay. Giả như có thể sống lại với sự khôn
ngoan của tuổi sang thu trong xác thân của thiếu nữ mười tám đôi mươi có khi đã
tránh được vài chuyện ngu xuẩn mà sau này nghĩ lại chỉ còn hối tiếc muộn màng.
Đêm xa xôi ấy, bóng hình trong chiếc gương đồng hình
như đang khóc. Nàng lờ mờ nhìn thấy dòng nước nhỏ vạch một đường sẫm màu trên
má phấn phớt hồng. Vệt nước ấy khô nhanh đến nỗi chẳng cần đưa tay lên gạt đi.
Bạch Vân nhếch môi cười, phủ thêm lớp phấn mỏng để trả lại dáng vẻ đẹp đẽ như
làm ra bằng sứ mỏng, bảo:
“Lúc này ta thực sự rất đố kị với em, Kim Oanh!”
Cây vĩ miết đi trên sợi dây tơ tựa tiếng thở dài chẳng
hề đột ngột nhưng vẫn khiến người ta sững người mà tỉnh mộng. Thanh âm của cây
đàn nhị có thể rất vui, có thể rất buồn, buồn đến ai oán, thê lương. Trong khúc
nhạc ấy, ngay trong cái biến ảo thần tiên đã luôn ẩn tiếng thở dài thấp thỏm
của kẻ thưởng ngoạn sợ mình vội vàng tỉnh giấc xuân. Đĩa đèn thu lại vào lòng
cô đào. Khi đôi môi hơi khum thổi tắt ngọn lửa mong manh, vũ khúc đã đến hồi
kết thúc.