Độc Huyền Cầm (Phần I) - Chương 20 - Phần 1

Chương 20:
Bình an

“Lạy trời cho cả gió sương

Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may.” [1]

[1] Ca dao.

Xoa xoa những khớp ngón tay lạnh ngắt, cứng đờ vừa
phải nhúng vào nước lạnh, dọn dẹp mâm bát sau bữa tối, Hải Triều xuýt xoa khe
khẽ khi ngồi xuống cái đệm đặt sau tấm bình phong thêu hoa thủy tiên. Khơi mấy
viên than hoa trong hỏa lò cho lửa cháy đượm, nàng lặng thinh dõi mắt ra ngoài
ô cửa sổ. Trăng non đầu đông mới nhú một vành cong cong mờ nhạt, trông tựa lông
mày thiếu nữ trên nền trời ảm đạm. Trăng lạnh. Đêm thênh thang. Vọng lên từ
dưới nhà là tiếng chổi tre khô khốc quét lá rơi của con Lê, con Mận.

Giáo phường Khán Xuân nói thế nào cũng là nơi làm ăn
nên việc không bị ông trùm Tuân đuổi đi làm cô gái thực sự vô cùng cảm kích.
Thực tế mà nói, vì nhan sắc này hãy còn, vì ngón đàn kia chưa tìm người hơn
được nên dù chẳng thể hát nữa, giáo phường vẫn giữ nàng lại. Một khi còn giá trị
sử dụng, đương nhiên chẳng ai vứt bỏ bao giờ. Nhưng ở một góc khác trong tim,
thiếu nữ vẫn thích nghĩ ông bà trùm tuy khó tính, ngặt nghèo nhưng đều là những
người ăn ở có tình có nghĩa.

Nụ cười điểm nhẹ lên môi khi Hải Triều ngẩng lên, khẽ
đẩy chiếc cốc sứ trắng bốc khói về phía Kim Oanh. Là trà hoa cúc thêm một chút
mật ong, nước trong màu nâu cánh gián, bập bềnh một đóa hoa sao vàng hơi cháy,
nở bung tựa như hãy còn tươi nguyên. Cô gái nhìn xuống dịu dàng, gật đầu tỏ ý
cảm ơn rồi rút ra từ trong áo một xấp giấy nhàu nhĩ, có tờ còn gần như nát
bươm. Nàng nói khẽ:

- Khách quen của chị tìm giúp đấy. Là di
cảo của đại nhân và tam phu nhân.

Vẻ hồi hộp, bồn chồn hiện lên
trong đôi mắt đen lấp lánh của cô đào khi Hải Triều chớp chớp hàng mi cong,
vươn mấy đầu ngón tay ra kéo tập giấy ấy về phía mình. Nhẹ nhàng lật giở bằng
ngón tay run run, lớp bụi mờ ẩn giữa từng tờ giấy mỏng khẽ bốc lên rồi tản ra
trong làn hơi nước mỏng. Lặng thinh như bao năm nay vẫn thế. Cái Kim Oanh nhìn
ra chỉ là sự tĩnh lặng tịnh mịch đến mức thâm u dâng lên trong đôi mắt đen thẳm
như con đường hầm không thấy lối ra. Chẳng vui, chẳng buồn, chẳng hề lay động,
Hải Triều chăm chú đọc những con chữ vuông vắn, thanh tao hiện lên trên trang
giấy đã ố vàng. Rồi thật đột ngột, nàng vội dùng cả hai tay gập những mép giấy
lại, ánh mắt thoáng xôn xao.

- Chuyện gì vậy em? Không phải di
cảo của đại nhân sao?

Kim Oanh không biết nhiều chữ nên
có lẽ không hiểu hết nội dung trong tập giấy ấy. Hải Triều nghe chị hỏi, khẽ
mỉm cười, lắc đầu trấn an. Giữa vài bài thơ là bức thư cha nàng khi ấy ở Côn
Sơn gửi cho tam phu nhân tại kinh thành, hầu cận đèn sách bên cạnh Thái Tông
hoàng đế. Thậm chí, vị khách kia của Kim Oanh còn tìm được cả lá thư phúc đáp
của bà ba nữa. Yêu thương nhiều như thế, ý tứ đẹp đẽ như thế phong kín trong
từng vần thơ vừa như giận, vừa như thương, vừa như âu lo, vừa như ngóng đợi.
Thứ riêng tư này, nàng không muốn đọc. Mẹ nàng mà biết, chắc chắn bà sẽ không
vui, sẽ mắng nàng cho xem.

- Em định thế nào? – Kim Oanh e
dè cất lời rồi thấy Hải Triều cúi đầu, hí hoáy viết lên giấy trắng mấy chữ.

- Thơ của tam phu nhân đương
nhiên phải cất cùng thơ của phụ thân rồi! – Nàng đáp, đặt tay lên ruột tượng
định rút tiền trả cho người trước mặt thì bị chị ngăn lại, gay gắt nói:

- Em cất ngay đi. Không có tiền
nong gì hết. Những việc nhị phu nhân nếu còn sống muốn làm thì giờ chị giúp em
thực hiện, hiểu không? Coi như chị trả nghĩa cho bà.

Ngẩn ra nhìn vẻ mặt nghiêm khắc
của Kim Oanh, khóe miệng thiếu nữ mất hồi lâu mới có thể nhích thành một nụ
cười đượm buồn. Nàng nghiêng đầu, xõa mái tóc dài qua bờ vai thon, tì chiếc cằm
nhỏ nhắn xuống đầu gối. Trên nền khô lạnh của mùa đông đất Bắc, hơi nước nóng,
mùi trà thơm tản ra là là ấm áp, vỗ về những giác quan. Ấp những ngón tay mình
quanh sợi xà tích đính cái hộp bằng bạc hình lá trầu, nền đen thẳm của đôi mắt
nhung hiện lên những hoa văn chạm trổ tinh vi, cầu kì. Cánh hoa e ấp muốn mỏng
là mỏng, nụ hoa muốn tròn căng là tròn căng, sinh động muôn phần.

Hóa ra con người thực dụng như
thế, hẹp hòi như thế, chỉ cần được đối đãi tốt một chút đã có thể mang ơn mà
sinh lòng quý mến. Nàng với đích phu nhân chính là như vậy. Qua lời kể của Mai
Loan từ những ngày thơ bé, cho đến ngày mẹ trao thứ đồ tinh xảo này vào đôi bàn
tay non nớt của nàng, Hải Triều dần dần dành cho người phụ nữ ấy một sự hàm ơn
không thể nói bằng lời. Không phải vì Mai Loan đến lúc chết cũng không để lại
cho nàng thứ gì, trong khi đích phu nhân thì có. Đơn giản vì: người phụ nữ ấy
đối xử rất tốt với mẹ nàng. Hải Triều chỉ biết thế, cũng chỉ cần nhớ thế.

Còn với Nguyễn Thị Lộ?

Nàng hiểu vì ai mà Mai Loan muốn
nàng học chữ. Nàng cũng hiểu những điều học được suốt những năm tháng qua mang
lại cho mình những gì. Nhưng ngoài phục tài người đàn bà ấy, chút xúc cảm dù là
mỏng manh nhất như cơn gió heo may cuốn nắng thu hanh hao cũng chưa từng lướt
qua lòng Hải Triều. Phụ thân nàng không sai. Nguyễn Thị Lộ không sai. Mẹ nàng
cũng không sai. Chẳng có người đàn bà nào trong cái nhà đó sai cả. Ai lại bảo
đem cả trái tim của mình ra chân thành yêu một người là sai trái bao giờ.

Chỉ có điều, hạnh phúc của người
đàn bà này cũng chính là bi kịch của những người đàn bà khác.

Thấy sự im lặng của bản thân có
thể khiến Kim Oanh thấy lo, Hải Triều cầm cây bút lông lên, viết mấy chữ đơn
giản: “Sao chị không đồng ý lấy ngài Lê Đắc Ninh?”.

- Vì ngài ấy không phải đóa hoa
trong lòng chị! – Kim Oanh bình thản trả lời. – Cũng như cậu Thuận đối xử với
em rất tốt nhưng em đâu đáp lại. Lý lẽ như nhau cả thôi.

Chuyện này nàng có thể hiểu được.
Anh Thuận dù biết Hải Triều bị câm nhưng vẫn kiên trì ở cạnh. Sự tử tế, chân
thành nàng không thể báo đáp lại dù chỉ là một phần nhỏ thực sự là gánh nặng,
là khó xử trùng trùng. Thiếu nữ không hiểu tại sao cả anh ấy, cả đại nhân Đắc
Ninh kia phải nồng nhiệt, khổ sở theo đuổi một người đến thế dù biết vô vọng là
nhiều. Kim Oanh cười nhẹ, gương mặt thoảng qua những nét thư thái như thể nhớ
lại những kí ức dịu ngọt của thời thơ ngây nào đấy. Dùng ngón tay dìm bông hoa
cúc chìm xuống làn nước, chị tiếp lời:

- Đào nương có thể tự kiếm sống
bằng sức mình, tuy không phải lúc nào cũng dư dả, nhẹ nhàng. Chị đi hát ngần ấy
năm, chưa từng có quan viên nào ưu ái, chiều chuộng chị như đại nhân Đắc Ninh.
Có điều… ngài ấy không thể cho chị cảm giác… đồng điệu.

Đôi mắt đen của Hải Triều hướng
về cây đàn treo trên bức vách như có ý hỏi. Không phải ai cũng được nghe cô đào
Oanh kéo đàn nhị, cũng không phải ai cũng được chị ấy khen ngợi thật lòng rằng
chơi đàn thật hay. Nhìn vẻ mặt của thiếu nữ, nàng thở dài:

- Là gợi lại kí ức thôi. Có thể
người khác cho rằng chị ngu ngốc khi từ chối một cuộc sống đủ đầy không cần lo
nghĩ nhưng… Trên đời, có lẽ chỉ có một người cho chị sự đồng thanh tương ứng
đó. Không phải người ấy thì không ai cả. Chị không thích đẩy mình vào đau khổ
chán chường, càng không muốn đem người khác ra làm trò đùa cơm áo… Em đừng nhìn
chị như thế. Là năm xưa mẹ của em dạy chị như vậy. Dạy những điều đó trước cả
dạy đàn hát cơ!

Xoay chén nước trong tay, đôi môi
thiếu nữ mỉm cười vu vơ. Đào nương đem lòng yêu quan viên, kết cục chỉ có một.
Là bi kịch. Vậy nên các cô đào không mong ái tình mãi mãi, chỉ dám xin đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Ở đời hóa ra còn có kẻ đi tìm những thứ
mông lung như vậy, biết rõ điều đợi chờ phía cuối con đường nhưng vẫn cam tâm
đánh đổi sự êm đềm để lấy một khoảng trời thanh xuân rực rỡ mà đau đáu khôn
nguôi. Giá trên đời chân tình thực sự đổi được chân tình. Giá trên đời dốc lòng
yêu một người sẽ được người ta dốc lòng yêu lại thì đã chẳng có nhiều trái
đắng. Sự đồng điệu của con người chắc cũng như đồng điệu trong âm luật, trầm –
bổng, thanh – đục… nâng đỡ lẫn nhau. Hải Triều muốn chơi những khúc nhạc chứa
cả vạn cung bậc, cả nghìn thanh âm. Nhưng trong đời thực, nàng lại sợ những bản
đàn như thế, sợ sẽ lặp lại cuộc đời giống Mai Loan, giống chị Đào, giống chị
Phượng, giống cả Kim Oanh nữa. Cứ bình lặng, nhạt nhòa, lờ lững chảy trôi đã là
đủ rồi.

Vui không quá vui. Buồn cũng
không quá buồn. Sống đến lúc chết là được.

Ấy là câu chuyện vào đêm ngày
mùng ba, tháng mười năm Diên Ninh thứ sáu (1459)

***

Mây phủ qua vành trăng mờ. Đêm
mùa đông không có nét thanh trong như những ngày hè dài, ngược lại, càng về
khuya, trời càng lạnh. Tự tay khêu bấc đèn cho ngọn lửa cháy sáng, Bang Cơ ngáp
khẽ nhưng vẫn đều đặn lật giở từng xấp tấu chương. Bình Nguyên vương có ý từ
trước, giờ lại thêm các văn thần tài cao, túc học như Trình Thuấn Du, Nguyễn
Mộng Tuân dâng sớ nói về việc chỉnh đốn phép thi, mở khoa thi chọn người tài để
củng cố bộ máy quan lại. Những ý kiến đó rất hợp ý chàng. Việc thảo luận để đưa
đến quyết định cuối cùng chẳng còn mấy nữa. Xem chừng sang năm lại bận rộn rồi.
Chạm vào bình trà đã nguội lạnh, Hoàng đế không gọi người vào mà tự mình thay
nước, tự mình bỏ một nhúm tâm sen vào bình sứ trắng.

Vẻ tươi tắn, hớn hở của Tô Mộc
khi Bang Cơ nhăn mặt vì nếm thử tâm sen tươi hiện ra trước mắt, làm chàng phì
cười. Nhìn nhúm trà khô trong tay, màu xanh đã mất nhưng hương hoa hãy còn. Có
điều, sen thơm không át được mùi thuốc bắc trong kho nhà ngự y Dương Đán, càng
không át được hương trên người cô gái ấy

“Sao, thuốc tôi bốc tốt đúng
không?” – Tô Mộc đã dương dương tự đắc nói như vậy khi ngang nhiên kéo tay
chàng về phía mình để bắt mạch – “Tâm sen rất đắng nhưng thuốc đắng dã tật, sự
thật mất lòng. Biết làm sao được. Để thưởng cho sự ngoan ngoãn hợp tác của anh,
cầm lấy này!”

Đương nhiên thứ nàng dúi vào tay
Bang Cơ là một bọc giấy chứa nào mứt táo đỏ, mứt sen đường ngọt lịm, hạt đỗ
xanh rang bùi bùi. Chống tay lên bàn đỡ lấy hai bên má, Tô Mộc cười, bảo:

“Tôi thấy chị Huyên đọc trong
kinh Phật… ờ, chắc là trong kinh Phật đó… có một câu rất hay, là: Qua cơn bĩ
cực đến hồi thái lai. Hết cay đắng rồi sẽ ngọt bùi thôi!”.

Xoay chiếc chén sứ trong tay,
Bang Cơ trầm ngâm. Nếu nàng biết người đối diện mình là Hoàng đế, liệu còn có
thể cười như thế hay không? Nếu nàng trở thành Dung hoa[2], bước chân vào hậu
cung này, liệu nàng có bị ép thành người như mẫu hậu, để đến mức không còn nhận
ra được Dương Tô Mộc của nhiều năm trước từng giận dữ với Bang Cơ? Miên man
nghĩ ngợi, viên mứt sen còn lại chưa kịp bỏ vào miệng, cánh cửa điện Trường Xuân
đột ngột bật mở không theo một phép tắc, quy củ nào. Bên ngoài, đèn đuốc cháy
sáng, điểm vào màn đêm không biết bao nhiêu chấm màu vàng cam rừng rực. Vội
vàng khép cửa lại, Đào Biểu quýnh quáng chạy vào, không nói không rằng đưa tay
cởi long bào trên người chàng xuống.

[2] Một
trong sáu chức nữ quan (lục chức), ở dưới Hoàng hậu, tam phi, cửu tần.

- Chuyện gì đây? – Bang Cơ trừng
mắt nhìn không phải vì giận dữ mà vì sửng sốt.

- Quan gia, việc gấp lắm rồi. Lạng Sơn vương làm phản,
dẫn quân vào Cung thành giết không biết bao nhiêu quân ngự tiền rồi! – Bờ vai
viên hoạn quan run lên, giọng nói thoát ra vừa nghèn nghẹn, vừa bàng hoàng. –
Hắn muốn tìm người. Hắn muốn…

Không cần viên hoạn quan nói tiếp, chàng hiểu Lê Nghi
Dân muốn gì. Tựa vào chiếc bàn sau lưng để giữ thăng bằng, ngực Bang Cơ đau
nhói vì hơi thở không thể thoát ra. Những ngón tay ban nãy còn lạnh cứng đột
ngột cử động, giằng lấy chiếc áo hoàng bào trên tay Đào Biểu, chàng lạnh lùng
nói:

- Buông ra, ông định…

- Quan gia, giờ là lúc nào rồi? – Bàn tay nhăn nheo
của Đào Biểu nhất quyết không rời tấm áo dệt chỉ kim tuyến. Nơi đuôi mắt xô lại
những nếp nhăn, cố ngăn nước mắt đừng chảy ra – Người phải đi ngay, không an
nguy xã tắc biết trông cậy vào vai? Đào Biểu chỉ là một lão hoạn quan già,
chúng biết bị lừa sẽ không làm gì thần cả. Quan gian, xin người di giá ngay
cho.

Ánh mắt chàng dừng lại trên những giọt nước mặn chát,
nóng hổi lăn dài trên nước da đồi môi. Người đàn ông hoảng hốt, vội kéo tay áo
lau đi rồi lớn tiếng quát cậu hoạn quan đứng gần đấy:

- Còn giương mắt lên nhìn à? Mau hầu hạ quan gia rời
khỏi đây ngay!

Ngoài cửa cung, tiếng người la hét, tiếng lửa cháy
ngày một gần. Áp bàn tay mình lên bàn tay Hoàng đế, Đào Biểu cười:

- Thần sẽ không sao đâu. Thần còn phải hầu hạ thánh
thượng nữa mà. Thế nên người nhất định phải bình an. Thần không khóc, không
khóc nữa. Sẽ tốt đẹp cả thôi. Thiếu úy Lê Lăng, Điện tiền ty đô Nguyễn Đức
Trung sẽ sớm dẫn quân nhập cung hộ giá! Xin quan gia hãy an tâm.

Choàng tấm áo hoàng bào của mình lên vai Đào Biểu,
lòng Bang Cơ trùng xuống khi nhận ra người thân cận mình chỉ qua chưa đầy một
đêm đã già đi nhiều như vậy. Chàng trầm giọng nói:

- Việc ở điện Trường Xuân giao cả cho ông. Trẫm là
người trọng lời hứa, nhớ lấy!

Rút thanh kiếm treo trên bức vách gỗ xoan đào xuống, Bang
Cơ rời đi theo hướng cửa sau được cậu hoạn quan trẻ dẫn đường. Bóng áo trắng
băng qua khoảng sân gạch, bỏ lại sau lưng một bầu trời rực cháy với cột khói
đen bốc cao che mờ chút ánh sáng nhạt nhòa của vành trăng non. Hình như Đào
Biểu đã mỉm cười nhìn theo, nụ cười trấn an, vỗ về chẳng khác năm xưa mỗi lần
Hoàng đế làm mình làm mẩy với mẫu hậu, buộc ông phải dỗ dành.

Mấy đầu ngón tay run rẩy chỉnh lại lớp áo hoàng bào
nhàn nhạt mùi thuốc, viên hoạn quan sụt sịt khe khẽ, kín đáo lấy tay thấm đi
những giọt nước mắt lặng lẽ nối tiếp rơi xuống từ lúc nào. Người đã già, sức
kiềm chế cũng kém đi hẳn. Đóng chặt cánh cửa sau khi thấy bóng hình cao cao của
Bang Cơ đi khuất, theo sát có những cấm binh trung thành, Đào Biểu thở dài,
buông tấm rèm lụa rồi chầm chậm nằm xuống long sàng, xoay mặt về phía bức tường
trống không. Mi mắt khép lại an nhiên, hơi thở đều đều tựa như say giấc. Hiện
ra trước mắt là hình ảnh cậu bé con năm nào mình mặc hoàng bào lấp lánh, đầu
đội mũ xung thiên ngước đôi mắt to tròn, long lanh lên bảo:

“Ông làm ngựa cho trẫm cưỡi nhong nhong đi!”

Và, cũng vẫn đứa bé ấy lao vào vòng tay Đào Biểu khóc
òa, oan ức kể: “Mẫu hậu đánh con, lần đầu tiên mẫu hậu đánh con!”.

Có những ý nghĩ người ta không thể nói ra mồm, cả đời
cả kiếp chỉ dám nghĩ trong lòng rồi vội vàng chôn sâu đến nơi tận cùng trái
tim. Đôi môi nhợt nhạt của người đàn ông khẽ nhích lên thành nụ cười âu yếm,
trìu mến.

“Quan gia, người là Hoàng đế, sao lại đi xưng ‘con’
với một nội quan nhỏ nhoi bao giờ?”

Giữa tầng không vọng tới tiếng hét thất thanh của một
người đàn bà làm mấy người đang sải bước liền dừng lại. Trên sân gạch dẫn thẳng
đến cửa cung Đan Phượng in những bóng người cao lớn đổ dài. Người thanh niên ấy
mái tóc búi cao, vận trường bào đen thẫm phủ ngoài áo giáp lấp lánh màu kim
loại dưới ánh đuốc bập bùng. Từ đầu mũi kiếm, những giọt máu tươi nhỏ xuống làm
oằn lá cỏ, đọng thành từng chấm tròn lớn nhỏ nối tiếp nhau.

- Khởi bẩm điện hạ, người của ta đã theo ba đường tiến
thẳng vào Cung thành không gặp chút khó khăn nào. – Phan Bang nhếch môi cười,
chắp tay bẩm báo.

- Đại sự thuận lợi như vậy công đầu phải kể đến Đô chỉ
huy Lê Đắc Ninh đây! – Nghi Dân cất tiếng cười sảng khoái, đưa mắt nhìn người
đàn ông khôi giáp tề chỉnh bước cạnh mình, kiếm chưa xuất khỏi bao. Khoát tay
vỗ lên vai người ấy thân tình, chàng nói – Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Ngươi
trung thành với ta, sau này ta quyết không bạc đãi ngươi!

- Điện hạ, việc tiếp theo chúng thần phải làm là… –
Phạm Đồn bước tới, hướng mũi đao nhuốm đầy máu tanh xuống đất.

Trong đôi mắt đen thẫm lạnh giá, bàng quan chiêm
ngưỡng kia là hình ảnh Cung thành lầu gác lừng lững, mái ngói cung điện nối
tiếp nhau hiện lên trong ánh lửa hỗn loạn. Đưa tay chỉnh lại giáp trụ bọc quanh
cổ tay mình, Nghi Dân mỉm cười, bình thản nhìn về phía trước:

- Các ngươi cùng người của Đô chỉ huy Lê Đắc Ninh giữ
vững tất cả các cổng Cung thành, Hoàng thành. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Các
tướng lĩnh bên ngoài muốn điều động quân đội cũng không thể dễ như trở bàn tay.
Chúng ta chỉ phải làm một việc thôi: đánh rắn phải đánh dập đầu. Truyền lệnh
của ta xuống dưới, ai giết được Diên Ninh[3], ta sẽ thưởng vạn lượng bạc, phẩm
trật tăng bốn bậc.

[3] Ám chỉ Lê Bang Cơ. Ở
đây, Lê Nghi Dân gọi Bang Cơ bằng niên hiệu, không gọi là quan gia hay Hoàng đế
với ý không thừa nhận đế vị của Bang Cơ.

- Còn kẻ ở cung Diên Khánh? – Phan Bang nóng ruột, đặt
tay lên chuôi kiếm của mình, sấn tới một bước.

- Riêng ả đàn bà đó là việc riêng của ta! – Chàng
nhếch môi cười, trong đáy mắt lóe lên tia sáng sắc lẻm như một đường đao dứt
khoát.

- Khởi bẩm… khởi bẩm điện hạ!

Trong dòng người nhốn nháo, lẫn lộn giữa đám cung nữ,
nội thị và quân cấm vệ là một hoạn quan quần áo xộc xệch, bước thấp bước cao xô
đẩy những người ngược chiều để tiến về phía trước. Chưa cần đến nơi, hai đầu
gối đã nhũn ra mà sụp xuống. Hắn vén tay áo lụng thụng, bò bằng cả hai tay hai
chân đến níu lấy vạt áo choàng của Lạng Sơn vương.

- Điện hạ… con… con biết quan… à…
à không… Diên Ninh đang ở đâu! – Hắn há miệng hớp hơi để thở, lời lẽ líu ríu
lại với nhau.

Giằng cây đuốc từ tay quân lính,
Nghi Dân cúi xuống, dí ngọn lửa bập bùng vào sát gương mặt mồ hôi mồ kê nhễ
nhại, cắt không còn hột máu kia, khích lệ:

- Sao? Nói cho ta tên nhãi đó giờ
đang trốn chui trốn nhủi ở đâu. Công tội phân minh, người biết đường theo phò
tá minh chủ, ta nhất định sẽ trọng thưởng.

Dưới ánh lửa hỗn loạn, kẻ vừa bò
lóp ngóp níu xin lòng thương của Lạng Sơn vương nào phải ai xa lạ. Hắn chính là
tên nội thị được Đào Biểu giao phó hầu hạ Bang Cơ. Ép hai bàn tay run bần bật
xuống đất, tên hoạn quan thưa:

- Ở… ở điện… Cần Chính ạ!

Những lời ấy làm cả Phạm Đồn,
Phan Bang, Lê Đắc Ninh lẫn Nghi Dân không hẹn mà cũng đưa mắt nhìn nhau. Thấy
chủ nhân điềm nhiên bước tới trước, Đắc Ninh vội cản lại:

- Điện hạ, chuyện này xin người
để hạ thần xử lý.

- Không! – Nghi Dân lạnh lùng cất
lời nhưng vừa thấy vẻ mặt sững sờ của người đàn ông đứng cạnh liền ôn tồn nói
thêm – Không phải ta không tin ngươi. Tên nhãi con đó dám mò đến đấy tức là
muốn mặt đối mặt với ta. Ta cũng đâu có việc gì phải ngại.

Phạm Đồn chắp tay, lớn giọng
thưa:

- Điện hạ, chó cùng dứt dậu, nhỡ
may hắn làm ra những việc ảnh hưởng đến điện hạ thì… Lệnh bà đã giao phó, xin
để chúng thần…

Lời nói đến đấy đã tắc nghẹn ngay
khi chạm phải tia nhìn uy quyền của người thanh niên trẻ. Không thêm lời nào,
Nghi Dân điềm nhiên hất tấm trường bào, sải bước thẳng hướng điện Cần Chính.

- Ta nhất định sẽ trọng thưởng
cho nhà ngươi!

Tiếng nói vọng lại làm tên hoạn
quan chắp tay lạy lấy lạy để. Người đã đi xa mà hắn vẫn phủ phục trên nền đất,
muôn phần thành kính, biết ơn không khác gì được nhìn thấy Phật sống. Bóng
người đan xen vào nhau như mắc cửi, chẳng ai hơi đâu quan tâm đến một nội thị
đang quỳ bên vệ đường. Giấu gương mặt sau hai bờ vai, nước lăn xuống má hắn,
chảy theo chóp mũi nhỏ xuống nền gạch nung thành từng giọt tròn nối nhau tí
tách.

“Quan gia! Quan gia!”

Hắn muốn gào lên như thế nhưng
lại không nói nổi thành lời. Tưởng như hai chữ kia có muôn ngàn vuốt sắc lăm le
cào rách cuống họng hắn ra. Cái cổ tên nội thị chầm chậm cử động, dộng đầu hắn
xuống nền đất đều đều như người ta gõ mõ.

“Quan nội thị phó chưởng, con
phải làm sao đây? Con phải làm sao đây?”

Chỉ cần nhắm mắt lại, hắn có thể
thấy vệt máu cầu vồng cong cong in trên bức tường, in trên rèm lụa đung đưa tại
điện Trường Xuân. Lênh láng là máu. Máu trào ra theo vết chém sâu hoắm, sắc
ngọt trên lưng, thấm ướt tấm áo long bào trên người Đào Biểu. Vẳng đưa lại
trong gió đông là giọng nói trầm trầm của Hoàng đế:

“Ngươi đến báo cho Lạng Sơn vương
biết, trẫm đợi hoàng huynh ở đây. Ngươi có dính dáng đến Đào Biểu, sau này chắc
chắn khó sống trong cung. Đây là ý chỉ cuối cùng của trẫm, mong có thể giúp
ngươi toàn mạng!”.

Gió lay tà áo trên người kẻ đã
như hóa đá. Hạt máu đọng trên ngọn cỏ xanh bàng bạc, dưới ánh sáng thẫm lại như
màn đêm đen đặc.

***

Không có mùi máu.

Thậm chí trong không khí còn
phảng phất hương hoa nhàn nhạt tan trong trầm hương thường đốt mỗi khi đọc
sách. Điện Cần Chính sáng ánh đèn, lặng yên, tĩnh mịch không khác gì mọi ngày,
khi Hoàng đế ngự tại đây phê duyệt tấu chương, luận bàn quốc sự với các đại
thần trong triều. Vẻ an nhiên ấy làm máu trong người Nghi Dân sôi sục. Bàn tay
đặt trên chuôi thanh kiếm chính Bang Cơ gửi tặng run lên không biết vì tức giận
hay vì phấn khích. Mỗi bước trên bậc cấp là mỗi bước ngai vàng một gần, là mỗi
bước mà nỗi uất ức, phẫn nộ của Dương Thị Bí sẽ được hóa giải.

Nghi Dân đã mơ một ngày dẫn đại
quân tiến vào Đông Kinh, mở toang bốn cửa Hoàng thành, mở toang tất cả các cửa
Cung thành, lôi mẹ con Nguyễn Thị Anh ra thị chúng trong tiếng quần thần hô
vang vạn tuế. Nhưng cuối cùng… Lũ đại thần trong triều đều mũ ni che tai, chăn
ấm nệm êm rồi thì bất cần đến đúng sai, phải trái. Những lá thư tâm huyết của
chàng gửi đến rồi bị trả về kèm theo những lời sợ sệt vừa làm chàng tức giận,
vừa làm chàng thấy buồn nôn. Một con đàn bà, một đứa trẻ ranh có gì mà khiến
càn khôn đảo điên đến vậy.

“Bằng cách nào không quan trọng,
miễn sự thật được vạch trần, miễn ngôi cửu ngũ chí tôn về đúng tay chân mệnh
thiên tử. Là con, nhất định là con!” – Dương Thị Bí len lén lau đi những giọt
nước mắt, nghẹn ngào áp bàn tay thưở nào mềm mại giờ chai sạn, khô ráp lên
gương mặt Nghi Dân trước khi chàng rời khỏi Lạng Sơn – “Ả đàn bà đó bất nhân
sao trách được chúng ta bất nghĩa! Là ả tự làm tự chịu. Gieo nhân nào gặt quả
ấy. Ông trời không có mắt thì chúng ta tự đòi lại những gì xứng đáng thuộc về
mình”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3