Dặm đường vàng - Chương 16 - Phần 1

Chương 16

Buổi điểm danh sáng hôm sau, Anna đứng giữa trời mưa như trút, ôm bé Janna trong tay và trong lòng cảm thấy một nỗi bồn chồn quái lạ khiến cô đâm hoảng.

Trước khi trời sáng khoảng nửa giờ, một tên cai tù đến tìm Janet và thúc cô lên văn phòng chỉ huy trại ngay. Janet vội vã đến mức không kịp chia tay với bạn. Nghĩ lại, Anna đoán thấy đó là một cái bẫy. Bởi lúc Janet đi ra, Anna cảm thấy bạn mình mất đi cả sự tự tin mà cô thường thấy ở Janet.

Và quả là thế. Suốt từ lúc Janet ra đi cho đến giờ điểm danh, Anna không thấy không có hiện tượng gì mới và khi loa gọi tù nhân ra sân, Anna vội bế bé Janna chạy ra. Nàng bỗng cảm thấy lẻ loi lạ bởi đây là lần đầu tiên nàng ra điểm danh không có bạn.

Lúc ra đến gần “Quảng trường đại nguyên soái Franco”, bất giác Anna đứng lại ngoái đầu về phía sau định giục Janet, như mọi lần nàng vẫn làm, kể từ ngày đầu tiên ở trong trại. Nhưng lần này nàng không thấy ai hết! Lúc đó nàng mới chợt nhận ra rằng tình bạn giữa nàng và Janet đã thân thiết và gắn bó biết bao. Vắng Janet, Anna cảm thấy cô đơn kinh khủng.

Thêm nữa, nàng hoảng hốt nhận thấy từ nay toàn bộ việc chăm sóc bé Janna trút cả lên đầu nàng. Không ai sẵn có bản năng làm mẹ mà phải lo tập dần mới có được những kinh nghiệm cần thiết. Tuy nhiên Anna thấy Janet dường như có được bản năng quý giá ấy và từ trước tới nay bao giờ nàng cũng dựa vào bạn. Mỗi lần bé Janna làm sao, nàng đều nhờ Janet quyết định cách xử trí và Anna chỉ việc làm theo.

Trong lúc lá cờ Tây Ban Nha từ từ kéo lên và đoàn tù nhân hát lộn xộn bài quốc ca Tây Ban Nha, một chiếc xe hơi cắm cờ hiệu nhỏ từ cửa ngôi nhà chỉ huy trại lao đi. Lúc xe dừng lại để ở cổng chính nhà tù để chờ lính mở khóa, Anna thoáng thấy Janet ngồi ghế sau, quay lại ngó qua cửa sổ xe. Bốn con mắt gặp nhau trong một chớp mắt rồi xe lao đi, khuất trong làn mưa rào đổ xuống như trút nước.

Những ngày sau khi Janet đi, nỗi lo lắng của Anna chuyển thành thứ tâm trạng suy sụp và nàng cảm thấy toàn thân rã rời không còn thiết làm thứ gì nữa. Nỗi suy sụp không chỉ là thân thể mà cả tinh thần. Chân tay nàng không còn sinh khí nữa và buổi sáng mới thức dậy, nàng đã thấy khắp người bải hoải. Nhưng đáng sợ nhất là tâm trạng của một kẻ thất bại. Nàng cảm thấy mọi cố gắng đều chỉ vô ích và tương lai của nàng sẽ khôn hứa hẹn một điều gì dễ chịu.

Tâm trạng tuyệt vọng, mất hết mọi hy vọng ở tương lai khiến Anna ngại đi ra ngoài. Nàng ru rú trong phòng với bé Janna và chỉ bất đắc dĩ lắm mới bước ra khỏi lán. Chẳng hạn những chuyện trại yêu cầu ở tù nhân, hoặc những yêu cầu tự nhiên của bản thân nàng. Ngày ngày nàng càng xa lánh các bạn tù khác.

Genevieve nhìn thấy tâm trạng đó của bạn. Hàng ngày đem sữa cho Janna và thức ăn cho Anna, cô đều tìm cách động viên bạn và nâng đỡ tinh thần cho bạn.

Cô gái Pháp bây giờ mỗi ngày đi dạo hai lần, sáng và chiều trong “khu phố Ăng lê” để kiếm khách. Những lần bán dâm của cô tiến hành trong lán tù của mụ công tước và khách cũng chi bằng tiền mặt ngay tại đó cho mụ. Một số khách đã trở thành thường xuyên. Trong số này có những người giấu được đài thu thanh, họ thường xuyên nghe tin tức ngoài mặt trận. Và đến khi làm tình với Genevieve họ kể lại cho cô nghe.

Genevieve mừng rỡ báo tin lại cho Anna:

-Tình hình tiến triển tốt lắm. Người ta đang kháo nhau rằng chiến tranh sắp kết thúc, chỉ trong một tháng nữa thôi.

Nghe bạn kể, Anna thường không trả lời. Tâm trạng suy sụp của nàng dường như càng thấy bạn phấn khởi bao nhiêu thì càng nặng nề bấy nhiêu. Đêm đêm, sắp đến giờ Genevieve tới thăm, nàng thường nằm giả vờ ngủ, không còn muốn nghe bạn nói chuyện để khỏi nghĩ ngợi và lo lắng hơn.

Sang giữa tháng Hai thì tinh thần của Anna suy sụp đến mức báo động. Việc trông bé Janna đã trở thành quá sức với nàng. Mỗi lần Genevieve mang thức ăn đến, cô luôn thấy bạn hình như phó mặc tất, chẳng làm gì hết. Genevieve lại phải dọn dẹp, thay tã và cho bé Janna ăn.

- Không thể tiếp tục thế này được đâu. - Mụ công tước bảo khi thấy Genevieve khi thấy cô từ chối một cuộc tiếp khách rất hời. Người tù này trả số tiền quá cao để được ngủ với cô gái Pháp. - Muốn gì thì gì chứ tình bạn không thể cản trở được công việc kinh doanh! Tôi không cho phép cô lơ là việc tiếp khách.

Genevieve đáp:

- Bà tha lỗi, nhưng đối với tôi, sức khỏe của bé Janna là trên hết.

Mụ công tước nhăn mặt:

- Xin nhắc để cô nhớ, tôi đầu tư vào công cuộc kinh doanh này nhiều tiền lắm đấy.

Cô gái Pháp cãi lại:

- Tôi sẽ hoàn trả bà đầy đủ, cả vốn lẫn lãi, nhưng là sau này. Còn trước mắt tôi phải tạm ngưng chuyện tiếp khách để chăm sóc cho bé Janna cho đến khi nào Anna bình phục, có thể trông bé được.

Mụ công tước nhún vai:

- Tùy cô thôi. Nhưng cô ta chỉ có thể chấm dứt tình trạng suy sụp này bằng nỗ lực của bản thân cô ấy.

Tuần lễ sau đó, Genevieve sang ở hẳn với Anna để chăm sóc cho hai người. Tuy nhiên cô cũng chẳng làm gì được nhiều, ngoài việc mua thức ăn ngoài chợ đen, chăm soc giấc ngủ cho cả Anna và Janna/ Anna mỗi ngày nằm trên giường hai chục tiếng đồng hồ, mặt quay vào tường và nghĩ ngợi điều gì đó. Hầu như nàng không ra khỏi lán trừ lúc điểm danh và chào cờ buổi sáng.

Các tù nhân thấy Anna như vậy, đều gật gù vẻ hiểu biết. Họ chứng kiến nhiều trường hợp tù nhân tinh thần suy sụp đến mức mà họ gọi là “Sống lay lắt” và thông thường tình trạng này dẫn đến người bệnh tự sát.

Genevieve biết như vậy và cố làm mọi cách để ngăn chặn trước tình trạng đáng sợ kia, nhưng không biết nên làm thế nào. Cô càng thấy giá như Janet ở đây hỗ trợ thêm một tay thì tốt biết bao, Janet luôn có những lời khuyên khôn ngoan trong bất kỳ trường hợp khó khăn nào.

Bước ngoặt cuối cùng đã xảy ra khi lão chỉ huy trại cử hai tên cai tù đưa Anna lên văn phòng của lão. Thoạt đầu nàng không hiểu tên cai tù nói gì… Mãi đến khi y dí nòng khẩu súng máy vào sườn, Anna mới chịu đứng lên và để Genevieve mặc quần áo cho.

Bế bé Janna trên tay, cô gái Pháp đi theo bạn đến chỗ của tên chỉ huy trại, dìu bạn bước lên những bậc thang nhưng tên cai tù không cho Genevieve vào mà ra lệnh cho Anna tự đẩy cửa lấy mà vào.

Lão chỉ huy trại ngồi sau bàn giấy. Cạnh hắn là một người đàn ông mà Anna chưa hề gặp bao giờ.

- Tôi là Mark Hunter.

Người đàn ông đứng dậy tự giới thiệu rồi chìa bàn tay ra:

- Phó lãnh sự của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Madrid.

Câu anh ta nói tưởng như vẳng đến tai Anna từ dưới đáy giếng sâu.

- Phó lãnh sự?

Lần đầu tiên Anna mở miệng nói ra lời sau bao nhiêu ngày câm lặng và nghe như thể của một người đang say rượu.

- Tại Madrid. - Viên quan chức Hoa Kỳ nhẹ nhàng nhắc lại, vẫn khôn buông bàn tay nàng.

Anna thấy lão chỉ huy chăm chú nhìn và nàng cố trấn tĩnh nhưng không làm sao ngăn được cơn run rẩy.

Mark Hunter nhìn thấy tình trạng thảm hại của cô tù nhân, bèn nắm bàn tay nàng dẫn nàng đến chỗ ngồi đi văng. Anh ta nói:

- Cô thấy dễ chịu chưa?

Lão chỉ huy trại tuyên bố:

- Tôi xin bảo đảm với ông rằng nữ tù nhân này không hề bị hành hạ và đánh đập.

Mark đáp:

- Rất có thể, nhưng cô này cần được chạy chữa cẩn thận.

Anna chậm rãi nói:

- Không cần, sức khỏe tôi tốt… chỉ do là…

Giọng nàng mệt mỏi. Nàng không sao tìm được từ để diễn tả tình trạng của mình. Sự cố gắng như vượt quá khả năng của nàng.

- Ông có chút rượu mạnh không? - Viên lãnh sự quán nhìn lão chỉ huy trại. - Tôi nghĩ rằng cho cô ta nhấp một chút thì tốt.

Lão chỉ huy trại đứng dậy, đến tủ rượu lấy chai Pedro Domecq, rót vào một cốc nhỏ, đưa cho viên lãnh sự quán. Mark Hunter đưa cốc rượu lên môi Anna.

Anh ta giục:

- Cô uống một chút đi!

Anna làm theo và nàng bị sặc.

Viên quan chức Hoa Kỳ khuyến khích:

- Cô uống thêm một chút nữa đi.

Rượu vào đến dạ dày là bốc lên đầu, làm nàng càng không thể suy nghĩ được gì hết. Mọi khi nàng thích rượu Brandy, nhưng lúc này dạ dày nàng đang rỗng, nàng ăn đã được nhiều tiếng đồng hồ rồi nên rượu làm nàng choáng váng.

Mark Hunter hỏi:

- Cô thấy dễ chịu hơn không?

Anna gật đầu. Lúc này nàng đã đủ tỉnh táo để nhận thấy vị khách này trạc tuổi bốn mươi. Tóc anh ta hơi hoa râm ở thái dương và anh ta mặc tấm áo jacket rất đẹp bằng vải tweed, sơ mi bên trong màu xanh nước biển, cà vạt kẻ sọc, quần flanel màu tro và giày da nâu. Mark khoan khoái hút tẩu thuốc và Anna nhìn vào bông hoa trà mi gài lên túi ngực của anh ta.

Nàng nói:

- Tôi hơi khó chịu vì thời tiết.

Lão chỉ huy trại tuyên bố:

- Tình trạng này của tù nhân không do chế độ của trại.

Viên lãnh sự thờ ơ đáp:

- Tôi công nhận ông nói đúng. Tuy nhiên công việc trao đổi với ông đã xong, thưa đại tá. Tôi muốn được gặp riêng nữ tù nhân này.

Lão chỉ huy trại miễn cưỡng đồng ý:

- Tôi nghĩ có thể được.

Mark Hunter nói:

- Tôi xin đảm bảo với đại tá rằng ngài Đại sứ Hoa Kỳ sẽ được thông báo về sự giúp đỡ nhiệt tình của ông.

Lão chỉ huy gật đầu, bước ra ngoài. Khi cánh cửa đóng lại, viên lãnh sự Hoa Kỳ rót rượu ra cốc rồi uống một hơi cạn.

Anna nói:

- Xem chừng ông còn cần rượu hơn tôi.

Viên lãnh sự đáp:

- Ngồi cạnh một con người như ông ta tôi thấy cổ họng mình như khô khốc.

Anh ta nói bằng giọng hơi nghi lễ và cặp mắt màu hạt dẻ chứng tỏ anh ta buộc phải giữ tư thế ngoại giao, không đúng với bản chất chân thật và thoải mái vốn có.

Anna nói:

- Tôi đã tưởng đại sứ quán Hoa Kỳ không quan tâm đến trường hợp của tôi.

Mark Hunter nói:

- Chúng tôi quan tâm chứ. Nhưng có sự trục trặc ở Washington. Nghe đâu người ta thẩm tra lời khai của cô và đi tìm khai sinh của cha cô nhưng chưa thấy.

- Rất có thể cha tôi không sinh ở Mỹ.

- Nhưng cô sinh ra ở Mỹ chứ?

- Tại Manhattan, 14 tháng Bảy năm 1920.

- Ngày phá ngục Bastile.

- Đúng thế.

- Nhưng xin lỗi…

- Đó là ngày người ta thường hay ân xá tù nhân. - Anna nói. - Chúng ta hy vọng đây sẽ là một ngày trao đổi tù nhân.

Mark Hunter nói:

- Tôi tin là như vậy. Nhưng tôi xin báo trước để cô biết rằng những yêu cầu có tính chất dân sự sẽ có thể bị kéo dài. Bởi Washington lúc này quan tâm nhiều đến việc kết thúc chiến tranh. Tất cả những công việc mang tính chất dân sự đều bị gác lại vì không có người lo. Chưa kể còn phải đợi một thời gian để người ta tìm thấy giấy khai sinh của cô.

- Ông nói thế có nghĩa là tôi còn phải ở lại đây thêm một thời gian nữa?

- Tôi e như thế. Trong khi chưa tìm ra đủ bằng chứng cô là công dân Hoa Kỳ thì chúng tôi vẫn còn bị bó tay.

Anna cố nén nỗi thất vọng cay đắng nhưng chắc không giấu nổi nên nàng thấy Mark Hunter nói thêm:

- Tôi sẽ làm mọi cách để đẩy nhanh tiến trình này, chỉ xin cô cung cấp thêm cho vài thông tin.

Anh ta lấy một cuốn sổ bọc da, rồi đeo kính lão. Trông anh ta lúc này già hẳn đi và tựa như một vị giáo sự Anna thiết nghĩ, lúc nãy khéo mình đã nhầm, khi đoán anh ta ngoài bốn mươi tuổi.

Viên lãnh sự nhìn bên trên đôi kính mắt:

- Cô bảo cô sinh ra ở Manhattan? Cô có nhớ chính xác chỗ nào không?

Anna cố nhớ lại nhưng óc nàng đã mụ đi:

- Tôi còn rất nhỏ nhưng cha mẹ tôi đã rời khỏi chỗ đấy…

Viên lãnh sự ghi lại rất cẩn thận rồi hỏi:

- Cô có nhớ học trường nào không?

- Viện Hàn lâm nghệ thuật tạo hình Manhattan.

- Cô có giữ bằng tốt nghiệp hay giấy tờ gì chứng tỏ cô là sinh viên ở đó không?

- Tất cả đều bị thiêu hủy trong khu tập trung nhưng tên họ và ảnh của tôi hồi đó đã được dán trong sổ theo dõi sinh viên của khóa.

- Cô đã tốt nghiệp chưa?

- Từ lâu lắm rồi.

Khi ông ta ngạc nhiên ngẩng đầu lên nhìn, nàng nói thêm:

- Tháng sáu năm 1935.

- Tốt lắm. - Anh ta nói. - Ít nhất là cũng có thể báo để họ đi tìm và xác minh, bây giờ xin cô cho biết vài chi tiết về đứa nhỏ.

Anna hiểu rằng đây là dịp may mắn để thoát ra khỏi tấm lưới dối trá nàng bị buộc từ hôm Janet khai với viên mõ tòa ở Pamplona, nhưng lại ngập ngừng vì chưa biết cái ông Mark Hunter này có đáng tin cậy không.

Anh ta có vẻ phúc hậu nhưng dù sao cũng là một quan chức và bị luật lệ hành chính bó tay. Nói thật ra với anh ta, bé Janna rất có thể sẽ bị ghi là “trẻ vô thừa nhận” và không được họ cho hưởng quyền công dân. Anna đã biết rất nhiều trường hợp tương tự và những người vô thừa nhận rất khó được bênh vực và che chở.

- Cháu tên là Janna. - Nàng nói.

Viên lãnh sự nhận xét:

- Đó là một cái tên hơi lạ. Tên đó do cô chọn hay chồng cô?

- Tôi là chính.

- Cha đứa bé hiện nay ở đâu?

- Chết rồi.

- Xin chia buồn cùng cô.

- Anh ấy bị giết trong trại tập trung

- Theo tôi được biết thì nơi đó là một thứ địa ngục trên trần gian.

Anna không đáp. Giọng nói của viên lãnh sự này rất hiền hậu và Anna cảm thấy nàng có tội khi không nói thật với anh tạ.

Mark Hunter nói tiếp:

- Tôi xin lỗi đã phải hỏi cô những điều không vui. Cháu Janna sinh ở đâu?

- Điều ấy có quan trọng lắm không?

- Quan hệ đến quốc tịch của cháu. Tùy thuộc vào quốc tịch của bố hoặc mẹ còn sống của cháu.

- Có nghĩa nếu tôi được chứng minh là công dân Hoa Kỳ thì cháu cũng được nhận quốc tịch đó chứ?

Hunter gật đầu. Thấy vậy Anna bật cười. Đã lâu lắm rồi nàng mới cảm thấy vui vui như thế này. Nàng nói:

- Cháu sinh ở làng Irati, một làng nhỏ trên núi Pyrenees.

- Bên cạnh địa phận Tây Ban Nha?

- Đúng thế. Có phiền phức gì không?

Viên lãnh sự gật đầu:

- Kể ra cũng hơi…

Mark chưa kịp nói hết câu thì cánh cửa bật mở, tên chỉ huy trại bước nhanh vào. Lão hỏi viên phó lãnh sự:

- Ngài xong rồi chứ?

Mark Hunter đáp:

- Vâng, cũng vừa xong.

Lão chỉ huy trại bèn gọi một cai tù ra lệnh cho hắn dẫn tù nhân về lán.

Mark Hunter cầm tay Anna nói:

- Tôi sẽ gặp cô ngay khi có tin gì mới.

Nàng đáp:

- Cảm ơn ông.

Anna cảm thấy viên lãnh sự nhìn theo nàng trong lúc tên cai tù dẫn nàng ra ngoài. Cặp mắt anh ta khiến nàng nhớ đến cha nàng. Hình dạng thì không giống nhưng vẻ đôn hậu thì hệt. Trạng thái thờ ơ mệt mỏi biến đâu mất, thay vào đó là một niềm hào hứng tràn trề. Đêm đó, nàng chỉ muốn trò chuyện không thiết ngủ.

Nàng kể Genevieve nghe về hình dáng của viên lãnh sự với đầy đủ chi tiết, luôn nhắn lại rằng bây giờ chỉ còn là vấn đề thời gian, chắc chắn nàng sẽ được xác minh quốc tịch và thoát khỏi nhà tù này.

Anna nói với cô bạn người Pháp:

- Nếu gặp ông ta chị cũng sẽ mến ông ta cho mà xem. Ông Mark Hunter này phúc hậu và nhẫn nại lắm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3