Dặm đường vàng - Chương 02 + 03

Chương 2

Vacsava, Ba Lan, 18 tháng tư năm 1943.

Tia nắng rọi qua ô cửa
sổ bị gãy vào tầng hầm của một ngôi nhà nằm tại góc phố giữa khu Do Thái của
thành phố Vacsava. Trước kia, đây là hiệu bánh nhưng bây giờ chỉ còn vài vết
tích xưa. Sau khi quân Đức chiếm thành phố này, chúng đã tập trung toàn dân Do
Thái ở đây vào một khu phía Bắc thành phố. Xung quanh chúng xây tường cao 10 bộ
và đặt mười bốn trạm gác để kiểm soát người ra vào.

- Hôm nay thế là đủ,
các em về nhà nhưng phải đi một mạch không được la cà.

- Thưa cô, vâng.

Anna nhìn đám trẻ, lòng
thắt lại. Khi chưa xảy ra chiến tranh, tan học bao giờ cũng là lúc náo nhiệt
nhất, nhưng hôm nay đám học sinh đi lầm lũi, cặp mắt trống rỗng, đôi vai trễ
xuống. Sống trong khu tập trung Do Thái này, bọn trẻ già nhanh trước tuổi.

Sau khi trường học Do
Thái bị đóng cửa, người ta đề nghị Anna tổ chức cho trẻ nhỏ được học theo cách
bí mật, nàng đã nhận lời nhưng hôm nay nàng cảm thấy làm việc này chính nàng có
lợi nhiều hơn lũ trẻ. Mới cách đây tám năm nàng còn là sinh viên Viện Mỹ thuật
Manhattan bên Mỹ và sống với cha nàng, một bác sỹ lành nghề tại New York. Vậy
mà, nghĩ lại thời đó sao như đã mấy trăm năm.

Năm đó, nàng mười lăm
tuổi. Với làn tóc nâu thẫm, khuôn mặt tinh tế, nàng được các thầy giáo khen là
“có vẻ thanh thoát”. Nhưng năm sau, khi nàng mười sáu tuổi, cha nàng được mời
đến Ba Lan làm bác sỹ viện trưởng một bệnh viện lớn và ông đã nhận lời. Cha
nàng vốn là người áo gốc Do Thái. Mẹ nàng gốc Ba Lan. Và khi sống ở Mỹ, ông đã
không chuyển quốc tịch cho nên khi chiến tranh nổ ra, ông không được hưởng
quyền lợi của kiều dân Mỹ mà phải chịu số phận của những người dân gốc Do Thái.
Ông cũng bị tập trung vào khu Do Thái và chịu sự đối xử vô cùng tàn bạo. Mẹ
nàng là y tá, giúp việc cho chồng. Cả hai tiếp tục làm nghề y và trông nom khu
bệnh xá nhỏ trong khu tập trung.

Năm nay, Anna hai mươi
ba tuổi và sau bốn năm sống giam hãm trong khu tập trung Do Thái, nàng vẫn giữ
được vẻ đẹp “thanh thoát” nhưng già đi khá nhiều so với tuổi. Nàng bí mật tham
gia tổ chức Do Thái kháng chiến (ZOB) làm chân liên lạc. Nàng giấu cả cha mẹ vì
nếu biết, hai ông bà sẽ cấm nàng tham gia, bởi nếu bon Quốc Xã biết, nàng không
thể thoát khỏi bị treo cổ.

Người đưa nàng vào tổ
chức ZOB tháng 8 năm 1942 là Kandalman, phân đội trưởng dưới quyền chỉ huy của
Anielewicz, một thanh niên mới hai mươi bốn tuổi nhưng là tổng chỉ huy của Tổ
chức bao gồm ngàn rưỡi thành viên.

Kandalman trạc ba mươi
tuổi, vóc người vạm vỡ. Trước kia anh là chủ một hộp đêm làm ăn phát đạt. Sau
khi quân Đức chiếm đóng Ba Lan, anh không muốn bán rẻ cho những tên đầu cơ Ba
Lan chuyên lợi dụng tình hình ăn chặn của người Do Thái, nên đã nhường quyền sở
hữu hộp đêm đó cho Genevieve, một cô gái Pháp xinh đẹp và tháo vát, vốn là nhân
viên tiếp tân của một hộp đêm và đã làm việc dưới quyền anh nhiều năm.

Tuy bị tập trung trong
“Khu Do Thái”, Kandalman vẫn tiếp tục làm giàu được bằng cách lén lút buôn bán
bên ngoài. Hàng hóa, tiền bạc được chuyển qua hệ thống cống ngầm. Anh điều
khiển một bọn gồm vài chục tên, đa số là trẻ con, luồn lách qua các đường cống
và những khe hở của bức tường rào cao 10 bộ. Kandalman thu mua đồ trang sức
bằng vàng bạc, đá quý của dân Do Thái trong trại tập trung, chuyển ra ngoài đổi
lấy thực phẩm, thuốc men rồi đem vào bán lại cho họ. Genevieve vừa kinh doanh
hộp đêm bên ngoài vừa giúp người chủ cũ làm công việc đổi chác hàng hóa và cung
cấp cho dân Do Thái trong khu tập trung.

Anna đã gặp Genevieve
nhiều lần và có ấn tượng rất mạnh về người phụ nữ này. Tuy vóc người nhỏ bé
nhưng Genevieve có một thân hình tuyệt mỹ và vô cùng gợi cảm. Lần đầu mới gặp,
Anna thoáng có một chút ghen tỵ với Genevieve, cảm thấy cô khôn ngoan và thành
thạo hơn mình nhiều quá, đặc biệt trong quan hệ với đàn ông về mặt tình dục,
mặc dù Genevieve mới tròn hai mươi tuổi. Nhung dần dần nỗi ghen tỵ chuyển thành
cảm phục khi nàng thấy cô gái Pháp hết sức thông minh và đối xử khéo léo với
bọn chợ đen.

Giúp việc cho Genevieve
còn có một phụ nữ trẻ khác tên là Keja. Mặc dù đã gần ba mươi tuổi, trông cô
vẫn rất trẻ với làn tóc vàng óng và cặp mắt to đầy vẻ thơ ngây. Keja là con gái
một người Digan, bị bắt vào trại tập trung phát xít từ năm 1937. Cô đã bí mật
thoát ra được, tìm đến Vacsava cùng với hơn một chục người Digan khác. Họ đã
tìm được kế sinh nhai tại đây bằng cách giúp vui cho hộp đêm của Kandalman và
anh đã giúp cô xoay được hộ chiếu là công dân Thụy điển. Nhờ làn tóc vàng óng
ả, cô không bị ai nghi ngờ gì hết và đàng hoàng làm vũ nữ cho hộp đêm của anh.

Anna không sao biết được
mối quan hệ thật giữa Kandalman với hai người phụ nữ trung thành và đắc lực kia
của anh. Thỉnh thoảng, cần nơi an toàn, cả hai người phụ nữ đó đã lẻn vào khu
Do Thái, ở với anh vài ngày liền. Họ có phải là nhân tình của Kandalman không?
Một hay cả hai? Hay không người nào cả? Anna không sao hiểu được. Nàng cũng
không dám đi sâu vào tìm hiểu, bởi nàng biết tính Kandalman, khi bị ai ngáng
trở có thể trở thành rất tàn bạo. Còn bản thân anh thì kín như bưng, không bao
giờ tâm sự điều gì cho ai hết.

Trừ với một người, đó
là Halevi, một thanh niên có thân hình hộ pháp, trước đây làm trân bảo vệ cho
hộp đêm của Kandalman và sau khi bị bắt vào trại tập trung Do Thái vẫn tiếp tục
sống cùng anh. Tất cả những ai tiếp xúc với Halevi đều phải công nhận y hết sức
trung thành với chủ. Halevi thi hành mọi mệnh lệnh của Kandalman và dư luận nói
y còn thi hành quá mức. Y đã giết số người nhiều hơn số kẻ cản chân Kandalman.

Đến cuối năm 1942 công
việc buôn bán lén lút của Kandalman phát đạt đến mức anh trở thành giàu có, xây
được ngôi nhà riêng sang trọng ngay trong khu tập trung.

Anh bóc lột tàn nhẫn
những người Do Thái nghèo. Một số người rất ghét anh, tuy nhiên vẫn phải thừa
nhận anh khôn ngoan. Không ai thuộc đường đi lối lại trong khu tập trung Do
Thái bằng anh, kể cả những ngóc ngách và những đường cống ngầm.

Chính do thấy anh có
tài đặc biệt ấy mà Anielewicz, thủ lĩnh ZOB đã mời anh tham gia tổ chức kháng
chiến. Họ rất cần vũ khí và chỉ có Kandalman mới biết cách kiếm được. Họ không
thiếu tiền vì Anielewicz giỏi huy động tiền bạc của những người Do Thái giàu
có. Khi bị đưa vào trại tập trung, họ đã bí mật mang theo rất nhiều vàng, kim
cương và các thứ đá quý giá trị hàng trưm triệu Zloti.

Khi Anielewicz đưa ra
quyết định kết nạp anh, rất nhiều thành viên đã can, bởi họ cho rằng Kandalman
hết sức ích kỷ và vụ lợi. Anh ta sẽ chỉ làm những việc gì có lợi cho anh ta.
Nhưng Anielewicz không nghe và sự thực đã chứng minh, những thành viên kia lo
ngại không đúng. Trong những giờ phút hiểm nguy nhất, Kandalman đã có cách xử sự
buộc mọi người phải cảm phục.

Tiếng súng nổ gần đó
cắt đứt dòng suy nghĩ của Anna. Nàng vội vã bước lên bậc thang, rời khỏi hiệu
bánh cũ bước ra đường phố. Mặc dù không khí ảm đạm thê lương của khu tập trung
Do Thái, nắng chiều hôm nay vẫn rất đẹp và hoa vẫn nở các chân tường.

Nàng bước vào sân bệnh
xá nơi cha nàng làm việc. Dừng lại ngoài cửa một phòng bệnh nàng ngắm bác sĩ
Maxell đang khám cho một bệnh nhân. Nàng trào nước mắt khi thấy gương mặt cha
hốc hác trên đôi vai xương xẩu, trong tấm áo choàng nhàu nát. Nàng biết cha
nàng đang vô cùng đau khổ vì bệnh xá không có thuốc men dụng cụ gì để chữa bệnh
và ông đành bó tay trước nhiều căn bệnh hết sức đơn giản.

Cho đến ngày hôm nay,
đã chứng kiến bao hành vi tàn bạo của bọn đức quốc xã, ông Maxell vẫn không bỏ
lòng tin vào bản chất tốt của con người. Ông ngây thơ tin rằng bọn chúng không
dại gì tiêu diệt hết người Do Thái trong khu tập trung này, bởi chúng cần nhân
lực làm việc trong các khu hầm mỏ và nhà máy sản xuất vũ khí của chúng. Nghe
cha nói thế, Anna không cãi lại, biết rằng ông là tín đồ chân chính của đạo Do
Thái, không đời nào chấp nhận những gì trái với giáo lý của đấng Jehova.

Vô tình ngẩng đầu nhìn
ra cửa sổ, ông Maxell nhìn thấy con gái. Tuy hết sức mỏi mệt, ông vẫn cố mở một
nụ cười với con rồi lai quay sang với bệnh nhân. Đứng đằng sau ông là cô y tá
Janet, một cô gái Anh, đã giúp việc cho ông từ năm 1939 và vì quý ông nên đã tự
nguyện theo ông bác sỹ vào khu tập trung Do Thái tiếp tục giúp ông. Phải chăng
cũng một phần vì cô không muốn rời khỏi đất nước này, nơi cô cùng với người yêu
đã hưởng bao nhiêu ngày hạnh phúc. Anh là người Ba Lan và đã bị bọn Đức quốc xã
giết trong một trận chiến đấu với chúng. Anh là Đảng viên Đảng cộng sản Ba Lan
và đã thuyết phục được Janet đi theo khuynh hướng cộng sản.

Anna chưa hiểu mấy về
chủ nghĩa cộng sản, nhưng rất quý Janet. Cô chỉ hơn nàng một tuổi và hai người
đều tích cực hoạt động trong tổ chức kháng chiến Do Thái. Tuy nhiên nàng vẫn
chưa biết gì nhiều về Janet. Vốn nhút nhát nên Janet không hề thổ lộ gì về gia
đình cô bên Anh và tại sao cô lại lưu lạc sang đất Ba Lan này.

Anna tiếp tục đi theo
hành lang, tới một gian nhỏ. Đây là “nhà” của nàng. Mẹ nàng đang nấu nồi súp
loãng. Nhìn thấy con gái bà cau mặt:

- Tại sao con không cho
mẹ biết con đi đâu?

- Mẹ đã biết là con
đang dạy lũ trẻ nhỏ.

- Cha đã nói như thế mà
con không chịu nghe à?

Anna không trả lời mẹ.
Nàng bước vào trong nhà, đi ngang qua chiếc giường thảm hại nơi mẹ nàng ngủ
chung với Janet, đến chỗ có tấm nệm rơm, giường của nàng. Đột nhiên nàng nghe
thấy:

- Anna!

Nàng ngẩng đầu lên,
nhìn thấy Janet. Khuôn mặt cô lúc này bình thản và tự tin, dù gặp chuyện gì
nguy hiểm đến mấy, cho nên Anna chưa thể đoán chuyện gì. Janet hơi mỉm cười,
bước đến, nói nhỏ:

- Kandalman cần gặp hai
chúng mình.

- Mẹ ơi, con phải đi
một chút. - Nàng nói.

- Tôi nhờ Anna cùng đến
thăm một bệnh nhân sốt ác tính. - Janet đỡ lời.

Ra đến ngoài, Anna hỏi
ngay:

- Có chuyện gì?

- Tôi chưa biết. Nhưng
có tin bọn Quốc xã tập trung quân bên ngoài bức tường rào, có thể chúng sắp tàn
sát chúng ta chăng?

Họ tới nhà Kandalman,
hiện là trụ sở bí mật của ZOB. Thái độ của anh hôm nay nghiêm nghị đặc biệt.
Anh nói:

- Hai cô bị buộc tội là
đã mua vũ khí giả.

- Nhưng chúng tôi chỉ
liên lạc, chúng tôi không mua, chúng tôi chỉ chuyển về. Người mua là Genevieve.

- Các cô có nhìn thấy
người giao hàng cho Genevieve không?

- Có. - Anna đáp.

- Hình dạng hắn. -
Kandalman hỏi

- Để râu và chòm râu có
sợi bạc.

- Vậy cả hai cô đi với
tôi.

Kandalman vớ khẩu súng
ngắn Mauser nhét vào bao nhét thêm hai quả lựu đạn vào hai túi áo. Rồi không
nói gì thêm, anh ra hiệu cho hai cô gái trẻ đi theo. Vừa lúc ấy Halevi bước
vào, Kandalman trao một cái túi nặng bằng vải bạt cho y. Halevi vác lên vai. Họ
ra khỏi nhà.

Bên ngoài trời đã tối
đen, bốn người chui vào một đường cống ngầm. Họ đi một lúc lâu. Cống chạy ngang
bên dưới lòng phố. Anna nghe thấy tiếng xe xích của lính quốc xã chạy trên đầu
và biết họ đã ra khỏi khu tập trung Do Thái.

Họ ra khỏi cống, bước
lên một căn hầm. Halevi bấm đèn pin soi những bậc đá. Khi vào đến gian phòng
tần rất thấp, y tắt đèn và xung quanh tối đen như mực. Bỗng nhiên Anna kinh sợ.
Nàng không biết đây là đâu, nhưng biết một điều rất rõ là Kandalman không bao
giờ nhẹ tay với kẻ nào phản bội anh.

Janet vừa mở miệng nói
gì đó. Kandalman đã chặn ngay.

- Im. - giọng anh đầy
giận dữ.

Tiếng chân người lúc
đầu nghe rất xa, dần dần đến gần và ở ngay phí dưới chân họ. Rồi tiếng mở chốt
và một cửa bí mật mở ra ngay dưới sàn ở góc phòng. Ánh sáng mờ mờ tỏa lên, rồi
một cánh tay cầm nến từ từ thò lên theo. Anna nhận ra khuôn mặt của người mới
đến có chòm râu có sợi bạc, chính là tên buôn lậu đã giao vũ khí cho Genevieve
hôm qua. Đi theo hắn là một đứa bé chừng mười ba, mười bốn tuổi vác một bao tải
nặng. Hắn đỡ bao tải trên vai đứa, quăng xuống sàn rồi định bỏ đi.

- Đứng yên đấy. -
Kandalman nói.

Tiếng anh vang lên
trong bóng tối và tên buôn lậu để râu cằm vội đặt tay vào báng súng ngắn đeo
bên sườn định rút ra. Nhưng Halevi đã bật đèn pin rọi vào mặt hắn, quát khẽ:

- Mi coi như đã chết.

- Thế này là sao? - Tên
buôn lậu hốt hoảng. - Các ông mua súng của tôi và tôi đã giao súng…

Kandalman hỏi:

- Súng thế này ư?

- Vẫn còn bọc trong mỡ
bảo vệ.

Kandalman giăng ngọn
đèn pin trong tay Halevi rồi ra hiệu cho y đến chỗ bao tải. Halevi rút con dao
găm to bản trong ống quần, bước đến rạch lớp vải bạt. Y quỳ một chân xuống, lôi
ra một bọc dài, rồi mở ra. Trong là một khẩu súng, mỡ bôi kín bên ngoài.

- Súng vẫn lấy thẳng từ
nhà máy ra. - Tên để râu cằm nói.

Kandalman không đáp,
bước đến cạnh Halevi, giằng lấy khẩu súng trong bàn tay hộ pháp của y, rồi bằng
động tác thành thạo, nhét bằng đạn vào hộp súng, rồi nhanh như chớp, bóp hàm
dưới cua tên buôn lậu, cho miệng mở ra và nhét nòng súng vào họng hắn. Một
tiếng “cách”, anh đã bóp cò. Đúng lúc đó tên buôn lậu hoảng hốt ngửa đầu ra
phía sau. Súng không nổ nhưng Kandalman thọc sâu thêm nòng súng vào họng hắn.
Định bóp cò lần nữa, nhưng lại nghĩ thế nào, anh lại buông bàn tay nắm hàm hắn
rồi từ từ rút khẩu súng ra khỏi miệng tên buôn lậu.

- Hãy vì chúa. - Tên
buôn lậu quỳ xuống lạy.

- Trói hắn lại. -
Kandalman nói.

Halevi quặt hai tay
thằng cha ra sau lưng và ấn nó quỳ xuống sàn. Kandalman nhìn, rồi lấy trong xắc
ra một cái chai, mở lắp kim loại rồi tưới lên đầu tên buôn lậu. Mùi xăng bốc
lên khiến Anna như bị sặc. Nhưng nàng chưa kịp ho thì Kandalman đã bật que diêm
quăng ra.

Ngọc lửa bùng cháy, phủ
kín cả nửa người trên của tên bịp bợm. Hắn gào thét, tiếng gào đập vào bốn bức
tường, dội lại. Hắn đập đầu liên tục lên sàn nhà, cố gắng dập tắt ngọn lửa vẫn
bùng bùng cháy. Mười giây đồng hồ sau, Kandalman ra hiệu và Halevi lấy áo gi lê
dập tắt ngọn lửa.

- Giá bắn thì đỡ đau
cho hắn hơn. - Janet thều thào giọng thương tâm.

- Nhưng hiệu quả thì sẽ
bị giảm sút.

Kandalman nói, rồi bước
tới chỗ tên buôn lậu đang nằm quằn quại trong cơn hấp hối. Vừa cắt dây trói sau
lưng hắn, Kandalman vừa quay mặt nhìn đứa trẻ mười ba, mười bốn tuổi.

- Mày hãy kể cho những
người Ba Lan cùng bọn nghe là chúng tao trừng trị hắn như thế nào và vì sao
chúng tao trừng trị. Chúng tao cần mua vũ khí và trả giá hời nhưng phải là hàng
thật.

Anna nhìn đứa trẻ kéo
tên buôn lậu vẫn còn thoi thóp lê ra lỗ hổng ở góc nhà để chui xuống góc hầm.
Nàng nghe thấy tiếng chân chúng xa dần và cả tiếng rên rỉ của kẻ bị thương.
Chúng đã đi rồi nhưng mùi thịt khét vẫn còn nồng nặc trong căn phòng khiến nàng
thấy buồn nôn.

Kandalman nói:

- Các cô phải quen dần
với những chuyện này thôi… Chúng ta sẽ ở lại đây một lúc nữa.

Nàng không hỏi tại sao.
Nàng cũng không định giải thích nàng buồn nôn không chỉ do mùi thịt cháy. Thái
độ tàn bạo và lạnh như băng của Kandalman đáng lên án. Nó làm nhơ bẩn những mục
tiêu cao cả mà các chiến sĩ của tổ chức kháng chiến Do Thái hiến dâng tính
mệnh.

Họ nằm xuống sàn nhà
nghỉ ngơi. Khoảng trước khi trời sáng một tiếng đồng hồ, Kandalman ra lệnh rời
khỏi đây và dẫn mọi người ra phố. Trời còn tối. Những ánh đèn pha tuần tra từ
những tháp canh quyết xuống đường phố đã tắt. Họ có thể di chuyển an toàn qua
thanh chắn vào khu tập trung Do Thái.

Về đến nhà, Kandalman
và Halevi đi khuất vào hầm cố thủ, bỏ mặc hai chị em bên ngoài. Hai cô gái tiếp
tục bước chân lặng lẽ dọc theo đường phố vắng tanh. Đến một ngôi nhà, Janet
nói:

- Vị trí của mình đây
rồi.

Không buồn nhìn bạn đi
khuất. Anna đi tiếp. Vị trí của nàng được phân công là phố bên kia.

Đột nhiên, Janet quay
mặt lại.

- Sao lại đi lối ấy?

- Tôi về bệnh xá. -
Anna rầu rĩ nói. - Sau chuyện đêm qua tôi không còn hào hứng công tác nữa.

- Anna giống hệt bác
sỹ. - Janet nói.

- Nghĩ như ba tôi cũng
chưa phải là xấu. - Anna đáp.

Nàng hôn nhẹ vào má cô
bạn rồi bước nhanh đi, trong lúc trời bắt đầu hửng sáng.

Chương 3

Janet nhìn theo cho đến
khi bạn khuất sau góc phố mới bước vào ngôi nhà, nơi đã có sáu chiến sỹ của ZOB
vừa đang lắp đạn vào súng vừa đang nói chuyện khe khẽ.

Họ chào nhau và một
người trong số họ bảo Janet:

- Chị theo dõi góc phố
kia nhé.

Janet cầm súng, ra đứng
bên cửa sổ trông xuống đường phố. Trời đã sáng hẳn và nắng đẹp đã bắt đầu hiện
ra trên các nóc nhà cao. Quang cảnh thanh bình trái ngược với đường phố vắng vẻ
một cách đáng lo ngại. Janet đột nhiên nghĩ, không biết Anna có yên ổn đi tới
bệnh xá không. Cô hơi tiếc giá lúc nãy có thời giờ trò chuyện thêm được với bạn
một chút nữa.

Câu cô nói ban nãy có
thể khiến Anna đánh giá là cô nhẫn tâm vì bênh thái độ tàn bạo của Kandalman.
Bản thân làm nghề y tá, Janet rất thương người nhưng cô vẫn hiểu được thái độ
cứng rắn và cương quyết của Kandalman.

Janet lắp đạn vào súng
một cách khá thành thạo. Thật ra từ nhỏ, Janet đã được tiếp cận với vũ khí.
Chính cha cô đã từng dạy con gái cách áp báng súng vai, cách ngắm và bóp cò
ngay từ khi Jante mới lên sáu. Tuy cô chưa bắn súng bao giờ nhưng cảm giác báng
súng ép chặt vào vai và vẻ lành lạnh của nòng súng đã quen thuộc với cô từ thủa
ấu thơ.

Janet sinh trưởng trong
một làng nhỏ trên bờ biển phía đông của nước Anh. Năm lên mười cô đã chứng kiến
không khí điêu tàn của cuộc khủng hoảng kinh tế và cha cô đã tham gia vào tổ
chức công nhân. Do đó, sau này Janet có cảm tình với những người cộng sản. Năm
cô theo học trường đại học Oxford, cô đã quen một sinh viên Ba Lan tên là Leon
Rojek. Tình bạn biến thành tình yêu. Nhưng cha mẹ cô không thể chấp nhận một
anh chàng ngoại quốc gầy gò và cao lêu khêu. Khốn nỗi Janet đã thực sự yêu anh,
và họ tự động làm lễ hứa hôn. Tháng sáu năm 1939, Leon quyết định về nước, định
thuyết phục bố mẹ anh, đều là người Do Thái, rời Ba Lan sang Anh. Leon bảo
Janet ở lại London rồi anh sẽ lại sang. Nhưng cô không chịu. Và họ đến Vacsava
thì cha mẹ Leon đã bị bắt. Anh tham gia nhóm kháng chiến rồi cũng bị bắt và bị
treo cổ.

Janet bơ vơ, bèn xin
vào làm y tá dưới quyền bác sỹ Maxell. Gần đây, Kandalman nhận thấy Janet có
khuôn mặt của người Tây Âu, ít bị bọn Đức quốc xã nghi ngờ, anh bèn mời cô và
Janet bằng lòng tham gia làm chân liên lạc cho tổ chức ZOB. Cô lại là đảng viên
của Đảng công nhân Ba Lan nên càng thuận lợi. Đảng này quan hệ chặt chẽ với ZOB
và cung cấp vũ khí cho họ. Thật ra Janet hướng theo chủ nghĩa cộng sản vì lý
tưởng cao cả của nó hơn là vì những giáo lý cụ thể.

Tiếng hàng loạt đại bác
nổ ầm làm cắt đứt dòng suy nghĩ của Janet. Cô nhìn ra và thấy lính quốc xã đang
bám sau những chiếc xe tăng đã kéo vào khu tập trung Do Thái. Đến góc phố trước
mặt cô, chúng tản ra thành nhiều tốp nhỏ bắt đầu cuộc tàn sát.

Báo cáo nội dung xấu