Bức Xúc Không Làm Ta Vô Can - Chương 06

NHỮNG “HIỂM HỌA” BẤT NGỜ KHI GỬI CON ĐI DU HỌC :

Có thể nói là với tất cả phụ huynh thì khoảnh khắc lên ô tô ra sân bay tiễn con đi du học nước ngoài là một khoảnh khắc đặc biệt vô cùng, mừng vui lẫn với lo âu. Vừa sung sướng và tự hào về thành quả của mình sau 12 năm chạy đua vào trường chuyên lớp chọn, học thêm học nếm, nhưng cũng vừa lo lắng về chặng đường sắp tới. Liệu con mình có ăn uống điều độ, mặc ấm khi trời lạnh, không thức khuya quá, rồi lúc ốm đau cảm cúm thì ai trông nom, vân vân. Những lo lắng của các bậc cha mẹ là dễ hiểu, tuy nhiên các phụ huynh cần lo cái đáng lo, bởi đi Tây du học tiềm ẩn nhiều hiểm họa lớn, chứ không phải mấy chuyện ăn uống, quần áo lẻ tẻ.

Sau đây là năm rủi ro cơ bản mà tôi đúc kết được qua các kinh nghiệm của bạn bè, họ hàng, đồng nghiệp cũng như trải nghiệm của bản thân khi ở nước ngoài.

1. SAO NHÃNG HỌC HÀNH :

Nguy cơ này thường hay phát sinh vào năm thứ hai hay thứ ba, nhưng không phải là vì các cô các cậu sau mười mấy năm được bao bọc, nay được xổ lồng thì bỗng nhiên đổ đốn ra rượu chè hay cờ bạc. Mà là vì khác với ở Việt Nam, trong môi trường đại học Tây, con cái chúng ta rất dễ quan tâm tới những chuyện bên ngoài xã hội không đáng quan tâm hoặc thậm chí có hại cho sự nghiệp sau này. Con một đồng nghiệp của tôi, lúc ở Việt Nam thì chỉ biết toán với lý, sau hai năm ở châu Âu bỗng quay ra tìm hiểu về nạn phá rừng ở Amazon, rồi trăn trở về cuộc sống của công nhân dệt may ở Bangladesh, nghĩa là mấy thứ vô bổ vô cùng. Một đứa bạn của nó thậm chí còn theo sinh viên bản xứ xuống đường ủng hộ cho quyền của động vật. Sếp tôi kể là khi con về phép thì phát hiện ra nó có hai tập thơ của một nhà văn da đen nào đó ở trong cặp, quá lo nó sa vào đọc thơ với tiểu thuyết thì lấy đâu ra thời gian mà học, tới lúc nó bảo đấy là sách nhà trường yêu cầu đọc thì mới hơi yên tâm, tuy vẫn bán tin bán nghi. Một người bạn tôi thì hè vừa rồi được cô con gái báo tin đã tới một khu ổ chuột ở châu Phi làm từ thiện, thế là phải tức tốc gọi điện bắt nó về ngay, “nếu như không muốn nhiễm HIV”.

2. LỆCH LẠC TRONG SUY NGHĨ :

Một vấn đề khác thường không được các phụ huynh để tâm đúng mức là môi trường phương Tây hay làm tụi trẻ trằn trọc về đường đi và ý nghĩa của cuộc sống. Một anh bạn tôi tình cờ đọc được thằng con trai viết trong nhật ký “Tôi là ai? Mục đích của tôi là gì?” Hôm sau, anh đổi cho nó cái iPhone đời mới rồi rủ rỉ: “Con là con của bố. Con đừng làm gì để bố phải xấu hổ.” Rồi anh nói thêm, “Mục đích của con là làm thế nào để trở nên giàu có và thành đạt, có thế mới mở mày mở mặt được con ạ.” Một người họ hàng của tôi rất lo vì đứa con gái đã sắp tốt nghiệp rồi mà còn tâm sự là nó muốn “đấu tranh với những bất công trong xã hội”. Thế là chị phải giải thích ngay cho nó là nó không làm được gì đâu, đừng có dại, nhiều người giỏi bằng chán vạn nó đã thử rồi, “cho nên chỉ cố vun vén cho gia đình mình thôi, đừng có va chạm gì mà chuốc thiệt vào thân.” Nói chung, khá nhiều phụ huynh lo lắng là tụi trẻ đi Tây về gà tồ quá, gặp gì chướng tai gai mắt là phản ứng liền, không biết cách nịnh trên, nạt dưới, lấy lòng kẻ mạnh và trấn áp kẻ yếu. Nhiều đứa mãi vẫn cứ ngố mà tâm niệm với những điều như “Phải đi bằng đôi chân của mình” , mà không hiểu là có khi đi bằng đầu gối mới đi xa được. Cứ máy móc như bên Tây thì nguy to.

3. HỌC MỘT NGÀNH VÔ DỤNG :

Theo quan sát của tôi, nguy cơ này đã tăng đột biến trong dăm bảy năm trở lại đây. Trước kia phần lớn du học sinh đều học những ngành danh giá và có tương lai như kinh tế, y, tin học, marketing hay ngoại thương, thì gần đây, do những yếu tố nhiễu mà tôi vừa nêu bên trên, cộng với việc phụ huynh thiếu thông tin để giám sát, nhiều cô cậu xoay ra học những ngành rất oái ăm như triết học, lịch sử văn học, hay phê bình nghệ thuật. Có ngành nghề còn chưa có tên tiếng Việt, con cái giải thích mãi bố mẹ không hiểu. Thế thì làm sao mà khoe với họ hàng và bạn bè được? Một chị bạn tôi phàn nàn là đứa con gái ở Mỹ về để làm luận án thạc sĩ “Những dịch chuyển tâm sinh lý của tầng lớp người giúp việc” và xấu hổ vô cùng vì bị hàng xóm mách là nó đi phỏng vấn mấy ô sin cùng phố xem một tuần làm tình mấy lần và với ai. Một đồng nghiệp khác của tôi cương quyết bắt con phải đổi ngành học, tên cụ thể là gì thì không rõ, chỉ thấy loáng thoáng có chữ “hậu hiện đại” , vì theo anh ấy thì “hiện đại” còn chả ăn ai huống hồ là “hậu hiện đại”. Theo tôi, khi con cái đã nằng nặc đòi đi học mấy thứ viển vông như ngôn ngữ học hay nhân chủng học thì họa đã rồi - nên phải định hướng thật sớm để chúng hiểu là cái gì đáng giá cho tương lai của chúng.

4. KHÔNG CHỊU LẬP GIA ĐÌNH :

Thật sự đáng lo ngại là ngày càng nhiều các cô các cậu không chịu lập gia đình mặc dù học hành đã xong và tuổi thì đã 24,25, nghĩa là cũng không còn trẻ trung gì nữa. Đây là một mối kinh hoàng của nhiều gia đình. Con nhà tử tế bằng cấp đàng hoàng mà độc thân vò võ thì thật là bất thường, chỉ tổ cho người ta dị nghị là có chuyện gì hay là bị bệnh đồng tính. Mà kể cả có chồng rồi nhưng không có con thì cũng thật là vô phúc, làm cho gia đình Tết nhất không dám gặp họ hàng nữa, lúc đó thì Har-vớt, Har-viếc gì cũng vô nghĩa mà thôi. Rõ ràng đây là một sự tai hại của phương Tây mà các phụ huynh cần bắt con em mình tránh xa, bởi tôi biết bên Tây tỉ lệ sống độc thân lên tới tận 50%, và số còn lại thì tới tận ngoài 30 mới lập gia đình. Nhà chị bạn có cô con gái học về ô sin mà tôi kể lúc trước, từ mấy năm nay như ngồi trên than hồng, vì cô này đã 26 mà chưa dẫn ai về nhà, không những thế lại còn cứ đòi học tiếp lên. Nhân đây cũng phải nhắc tới một điểm mà các phụ huynh nhiều khi không để ý tới: con gái thì không nên học cao quá - có bằng tiến sĩ thì đứa nào nó rước đi cho? Đấy là chưa kể có cô còn rửng mỡ lên xăm thêm cái hình vào gáy hay vào vai, thì có mà bằng bêu riếu bố mẹ trước bàn dân thiên hạ.

5. KHÔNG NGHE LỜI BỐ MẸ :

Tất cả những hiểm họa nói trên thực ra chỉ là những hiện tượng bệnh lý của một nguyên nhân sâu xa hơn, đấy là sự ương bướng.

Sau khi con em học xong xách va li về nước, nhiều phụ huynh mới ngã ngửa ra là các cô cậu trước kia vốn ngoan ngoãn, nghe lời, thì nay bỗng trở thành cứng đầu cứng cổ. Vì sao lại vậy? Chúng ta cần hiểu rằng mục tiêu của nền giáo dục phương Tây là tạo ra những con người cứng đầu cứng cổ. Tôi được sáng mắt tỉnh ngộ về điều này sau khi tham dự một buổi lễ trao bằng tốt nghiệp của con trai hai anh chị bạn ở châu Âu vào mùa hè năm nay. Hôm đó, mọi người tề tựu trong hội trường 300 năm tuổi nghiêm trang và lộng lẫy của trường, âm nhạc du dương nổi lên, rồi ông hiệu trưởng đọc lời chúc mừng. Lúc đầu không để ý vì mải chụp ảnh, nhưng tôi giỏng tai lên khi ông ấy nói “Các em hãy hứa là không bao giờ ngừng đặt câu hỏi.” Hừm, tôi gãi cằm. “Và các em hãy hứa là không bao giờ hài lòng với các câu trả lời kể cả khi chúng là của bố mẹ các em.” Tôi tá hỏa, dịch vội sang tiếng Việt cho hai anh chị bạn vẫn đang mơ màng vì không hiểu tiếng. Ngay sau buổi lễ, anh bạn tôi nói với con: “Trứng thì không thể khôn hơn vịt được.” “Cả đời bố mẹ làm mọi thứ là vì con,” chị bạn tôi đế thêm, “bố mẹ biết rõ nhất cái gì thì tốt cho con.”

Tổng kết lại, có thể nói, mặc dù phương Tây vẫn là lựa chọn số một cho đường học hành của con em chúng ta, không những để chúng có một tấm bằng danh giá, mà còn để chúng thành người văn minh, ăn nói lịch sự, xả rác đúng chỗ, không chen lấn khi xếp hàng, dừng xe trước đèn đỏ kể cả ban đêm, vân vân - nhưng văn minh không thể quá trớn. Các phụ huynh cần nắm rõ những hiểm họa để sát sao khi con cái đi du học; không phải vì chúng đi Tây về mà muốn làm gì cũng được. Đặc biệt là đừng để chúng tưởng sau này chúng có thể trái ý bố mẹ mà nuôi dạy con cái theo ý bản thân mình.

Tháng Tám 2014 .

BÀN VỀ TRIỂN LÃM BOM TẤN: MONA LISA ĐẸP HAY VÁY CHỊ ĐẸP?

Sách hướng dẫn du lịch Paris của tôi gọi bảo tàng Louvre là bữa tiệc chín mươi chín món, trông thì ngon nhưng khó tiêu, mà bất cứ du khách nào tới Paris sớm hay muộn cũng phải nuốt. Thật vậy, sau mấy lần có dịp qua Paris mà đều ngán ngẩm dòng người rồng rắn vô tận xếp hàng ở cổng, mùa hè năm nay tôi quyết định phải thâm nhập được vào ruột gan con vật khổng lồ này bằng mọi giá.

Khổng lồ, vì nó trưng bày 35.000 hiện vật mà nước Pháp được tặng, mua, “sưu tầm” hay nói giản dị hơn là cướp về từ các quốc gia khác nhau qua các cuộc chinh chiến của mình.

Mỗi ngày bảo tàng có hơn 15.000 khách tham quan, bằng một phần ba sức chứa của sân vận động Mỹ Đình, mà lại không được thiết kế như một sân vận động. Đêm hôm trước, tôi lên mạng.

Trên cơ man các diễn đàn, người ta tranh cãi nhau về cách tốt nhất để lọt vào bên trong Louvre. Bảo tàng có một cổng chính (kim tự tháp kính của Pei) và ba lối phụ. Người thì nói cổng phụ ở phố Rue du Rivoli rất vắng, chưa bao giờ phải đợi quá 20 phút (bí mật đấy, đừng có nói rộng ra nhé! ) ; người thì bảo lối này chỉ dành cho khách khuyết tật đi xe lăn và các tour đã mua vé trước qua mạng. Người thì bảo là hãy đi xuyên qua khu thương mại Arc du Carrousel (khu này được nối với lòng kim tự tháp bằng một hệ thống đường hầm) , người khác thì bảo đã có lần bị lạc trong khu này nửa ngày mới tìm được lối ra. Cuối cùng tôi chọn cách có mặt một tiếng trước giờ mở cửa.

Người ta vào Louvre để xem gì? Hóa ra là chín mươi phần trăm du khách không tới đây để chiêm ngưỡng phù điêu Ai Cập, tượng đá Hy Lạp, đồ đồng của văn minh Inka, nghệ thuật thảm Ba Tư, gốm châu Phi, đồ sứ Trung Hoa hay tranh tôn giáo Trung cổ. Họ tới để xem duy nhất một cái: Mona Lisa. Do vậy, trong khi người ta có thể thong thả tản bộ trong các phòng trưng bày những gì tinh túy nhất của tranh Babylon hay tượng La Mã, và thậm chí còn có cảm giác như mình đang ở trong một bảo tàng thực thụ, thì ở ngoài kia, dọc những hành lang dài vô tận và những cầu thang đá khổng lồ dẫn tới Mona Lisa là một cảnh tượng chen lấn xô đẩy kinh hoàng như ở một nhà ga thời chạy loạn. Khách của các đoàn du lịch bấu vào nhau để biến thành một khối đặc lừ lừ di chuyển, đánh tan những đoàn ngược chiều nhỏ hơn hay tổ chức lỏng lẻo hơn, và gí khách lẻ vào sát tường. Khắp nơi người ta cho dán lên tường những photocopy đen trắng của Mona Lisa với mũi tên chỉ hướng, trông như những lệnh truy nã của cảnh sát. Thỉnh thoảng, các đoàn khách cũng dừng lại trước một bức tranh hay tượng nào đó nếu nó tiện nằm ngay trên đường đi. Thời gian dừng mỗi lần trung bình là mười giây. Thời gian dừng trung bình của các đoàn Trung Quốc là năm giây. Rất may là công nghệ hiện đại cho phép hướng dẫn viên không phải gào lên khi thuyết trình nữa - họ nói vào một micro gắn ở mép áo, như đang nói chuyện một mình, và mọi người trong đoàn nghe qua tai nghe không dây, trong khi vẫn ngoắc chặt tay vào nhau để khỏi bị đốn ngã.

Mona Lisa một mình ngự trên cả một bức tường trong một căn phòng kích thước khoảng 20x30 mét. Các bức tường khác có Titian, Tintoretto, Raphael và Veronese, nhưng không ai để ý cả.

Các paparazzi chen chúc nhau để tiến lại gần nhất, đèn máy ảnh chớp liên tục. Tôi cần hơn một tiếng đồng hồ để lọt được vào hàng trong cùng, xung quanh tôi mọi người giơ máy ảnh và điện thoại lên quá đầu, có người hai tay hai cái, để chụp hộ những thành viên già yếu trong đoàn không chen được vào. Khi tới vòng trong cùng, họ chụp bản thân đứng trước bức tranh, hai ngón tay giơ hình chữ V chiến thắng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Mona Lisa là cụ tổ của Lady Gaga, năm trăm năm trước Lady Gaga.

Vì sao những người này, những người mà chắc chẳng bao giờ bước chân vào một phòng tranh hay bảo tàng ở quê hương mình, hay bước chân vào một bảo tàng khác ở Paris, lại dành ra nửa ngày quý báu trong chuyến du lịch ngắn ngủi của mình để cố gắng tiếp cận một bức tranh mà họ phải đứng cách xa bốn mét, bị xô đẩy, và ngắm nó qua một lớp kính chống đạn dày, để tóm lại là không nhìn thấy gì cả? Xét cho cùng thì đây không phải là một cái váy của Marilyn Monroe hay cái áo số 10 của Diego Maradona để người ta phải phát sốt lên đến như thế.

Tôi tìm thấy câu trả lời ở khái niệm triển lãm bom tấn.

Chữ triển lãm bom tấn được dùng để chỉ các triển lãm mà những người vốn không bao giờ tới bảo tàng cũng sẵn sàng xếp hàng hàng giờ liền để vào cửa. Đây là một hiện tượng tương đối mới.

Một trong những bom tấn sớm nhất là triển lãm Những kho báu Ai Cập do Bảo tàng Anh tổ chức năm 1972, thu hút 1.7 triệu người xem trong vòng 9 tháng. Nó thuộc vào thể loại bom tấn về những nền văn minh xa lạ, đánh vào sự tò mò của người xem về châu báu, quyền lực, sự phiêu lưu, bí hiểm. Về sau, thể loại này bị lu mờ, và các họa sĩ nổi tiếng lên ngôi: Picasso, Van Gogh, Cézannes, v. v...

Các bậc thầy cổ điển, các họa sĩ kinh điển của thời kỳ hiện đại, cụ thể là từ Ấn tượng tới Siêu thực, và một số cái tên đương đại, là những bảo đảm chắc ăn nhất để câu khách. Triển lãm Matisse (Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại New York, 1992-93) và Monet (Viện Nghệ thuật Chicago, 1995) , đều thu hút được gần một triệu người xem. Và Mona Lisa rõ ràng là một tác phẩm bom tấn cỡ khủng nhất, một mình cũng có thể thu hút được hàng triệu người xem mỗi năm.

Thoạt đầu, người ta ca ngợi những triển lãm bom tấn. Chẳng tốt hay sao khi đám đông được kích thích để tìm đến với nghệ thuật.

Người ta cho rằng bom tấn giúp “dân chủ hóa” nghệ thuật, làm người dân bớt e dè trong việc tiếp xúc với thứ vốn được coi là “thượng lưu”. (Hãy hình dung ra cảnh một người thợ điện ở ngoại ô London, sau bữa tối, cùng người vợ làm thu ngân ở siêu thị hồi tưởng về bức Những cô gái vùng Avignon treo trong triển lãm của Picasso mà họ quyết định đi xem vào tuần trước, sau khi nghe ti vi đưa tin là đã có hơn một phần tư cư dân thành phố kiên nhẫn xếp hàng ba tiếng đồng hồ để vào cửa. ) Các bảo tàng thì hoan hỉ vì vừa nổi tiếng hơn trên báo chí, qua đó thu hút được nhiều tài trợ hơn, vừa hoàn thành nhiệm vụ “giáo dục công chúng” của mình, vừa tăng thu nhập đáng kể thông qua bán vé vào cửa và các đồ lưu niệm (poster in tranh Picasso, đồng hồ treo tường in tranh Picasso, áo phông, cốc, miếng lót nồi in tranh Picasso... )

Tuy nhiên, như Emma Barker phân tích trong cuốn Trưng bày văn hóa đương đại (Contemporary cultures on display) của bà, bom tấn có một loạt các vấn đề.

Nhiều người tới các bom tấn vì hiếu kỳ, và vì áp lực xã hội, do họ không muốn bị coi là lạc hậu về văn hóa. Nhưng sự đông đúc “như ở sở thú” của các triển lãm kiểu này, cùng với các khuếch trương hời hợt trên báo chí dạng “đây là một cơ hội không được phép bỏ qua” , không giúp người xem thực sự đối thoại, tìm hiểu và thưởng thức các tác phẩm. Và sau đó, phần lớn lại không bao giờ bước chân vào bảo tàng nữa. Mặt khác, trong cuộc chạy đua của các bảo tàng để thu hút khách và tài trợ từ các công ty, các nghệ sĩ ít nổi tiếng hơn bị gạt ra ngoài - chủ đề của các bom tấn trở nên bó hẹp trong vài cái tên hay lĩnh vực vốn được coi là ít rủi ro. Và ngay cả với những ngôi sao tên tuổi, các bom tấn cũng thường chỉ nhấn mạnh những khía cạnh dễ “tiêu hóa” với công chúng, chứ không giới thiệu những phát hiện và nghiên cứu mới nhất về họ. Một ví dụ của cách tiếp cận giật gân này là khi các bức chân dung những người đàn bà của Picasso không được đề cập tới như những tác phẩm nghệ thuật phức tạp, mà chỉ như những chi tiết mang tính tiểu sử để minh họa Picasso là người “sát gái” , một câu chuyện hấp dẫn hơn là những phân tích nghệ thuật khô khan.

Theo Emma Barker, “các triển lãm bom tấn có thể được coi là một hiện tượng thương mại hóa nghệ thuật, biến nghệ thuật thành những show hoành tráng, biến người xem thành những kẻ mù quáng thờ phụng trước bàn thờ của nghệ thuật.” Không có những khái niệm và kiến thức cơ bản về nghệ thuật, người xem sẽ chỉ nhìn mà không hiểu, mà hiểu biết là một yêu cầu cơ bản để có thể thưởng thức nghệ thuật. Các bom tấn nghệ thuật không có tác động trong việc nâng cao hiểu biết của công chúng, do đó chức năng “dân chủ hóa” của chúng là hạn chế. Thật vậy, bộ máy quảng cáo đã biến Mona Lisa thành tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới, nhưng có bao nhiêu người trong số những người chen nhau chụp ảnh trên kia bỏ một chút thời gian để đi sâu hơn về nó, về tác giả, về thời kỳ Phục hưng?

Ở Việt Nam chưa có những ví dụ của triển lãm hay sự kiện văn hóa bom tấn. Không rõ nếu có tổ chức nào đó mượn được một số phác thảo của Michelangelo, thì liệu sinh viên trường Yết Kiêu có xếp hàng vào xem hay không. Nhưng nếu danh ca opera Pavarotti tới biểu diễn thì có lẽ sân vận động Mỹ Đình cũng sẽ kín đấy, càng kín nếu như giá vé càng cao, và người ta sẽ bay từ Thành phố Hồ Chí Minh ra để “thưởng thức”. Có lẽ sự kiện có thể được coi là bom tấn mini gần đây nhất là đợt lưu diễn của Dàn nhạc giao hưởng New York năm 2009 tại Hà Nội, khi hơn 1000 chiếc vé được bán hết sạch, mặc dù với giá tới 200 đô la một vé. Trong số khán giả hôm đó, chắc chắn có nhiều người hầu như không bao giờ nghe nhạc cổ điển, và về mặt chất lượng mà nói thì với họ dàn nhạc giao hưởng New York hay Bangkok hay Manila chắc cũng không khác gì nhau.

Cúng bái trước Mona Lisa hay trước ban thờ Bà Chúa Kho thì đều có một tác dụng: làm người ta hài lòng với bản thân hơn, yên tâm hơn về giá trị của mình. Tôi hình dung ra khách du lịch bốn phương trở về nhà sau chuyến du lịch Paris, và khoe bức ảnh chụp họ đứng trước Mona Lisa với bạn bè. Liệu họ sẽ chờ đợi một câu bình luận gì? Câu gì cho khoảnh khắc mình tiếp cận được với đỉnh cao của nghệ thuật?

Chắc là câu này:

“Ôi, chị mặc cái váy đỏ này xinh quá!”

Tháng Mười một 2011 .

TÌM LẠI CƠ THỂ :

Người Việt chúng ta vốn không có quan hệ gần gũi với cơ thể của mình. Chúng ta không giống người Brazil, uyển chuyển, sexy, có nhịp điệu trong máu, phơi bày, vuốt ve, tôn thờ cơ thể. Chúng ta không giống người châu Phi, mạnh mẽ, dẻo dai, có sức bật, thể hiện mỗi tâm trạng qua một điệu nhảy. Chúng ta cũng không giống người châu Âu, trang trí, chiều chuộng, lắng nghe cơ thể; chỉ người châu Âu mới có thể phát minh ra khái niệm wellness - sự cân bằng giữa tinh thần, cơ thể và tâm hồn.

Còn người Việt thì sao? Với nông dân và người lao động thành thị thì cơ thể là một dụng cụ lao động. Tất nhiên, họ lưu tâm tới nó như tới con trâu hay cái xe của mình. Cơ thể phải hoạt động trơn tru, phải bền, chi phí vận hành thấp, hỏng thì dễ sửa. Chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của tuổi trẻ, nó là nguồn đem lại khoái cảm, nhưng rất nhanh chóng sau đó, những khoái cảm này chỉ được coi như tác dụng phụ của chức năng sinh đẻ.

Với tầng lớp elite, tình hình còn tệ hơn nữa.

Một trong những hy sinh đầu tiên mà người quân tử hay bị đòi hỏi là hy sinh về tình dục: Người muốn làm việc lớn thì phải hy sinh quan hệ hôn nhân. Và nói chung, quân tử hay không quân tử, cơ thể là một thứ phải được giấu đi, tốt nhất là dưới nhiều lớp vải.

(Cái táo bạo nhất mà truyền thống có thể đưa ra được là cái áo dài ôm eo. Người ta, mà thực ra phần lớn là đàn ông ái quốc, vẫn hết lời ca ngợi nó là đỉnh cao của nghệ thuật, bởi vì nó tôn vinh cơ thể mà không làm lộ cơ thể. ) Trong sự nghiệp học hành của giới nho sĩ không có mục rèn luyện thân thể. Kể cả trong tiêu chí cho người toàn tài, văn hay, võ giỏi, cái ưu việt của cơ thể chỉ được đo bởi công dụng chiến đấu của nó. Cho tới tận gần đây, yếu tố chơi không được quan tâm, thể thao không phải một phẩm chất được coi trọng. Trí thức và văn nghệ sĩ phải là những người gầy gò; họ trông thư sinh, không khống chế được cả một con gà. Trong các trường đại học, khác hẳn với các college ở Mỹ, các cậu sinh viên giỏi thể thao thường chỉ được chị em coi là cơ bắp to và chắc chắn không được nhiều fan hâm mộ như những anh văn hay chữ tốt hoặc đàn sáo giỏi.

Nhưng chúng ta đang chứng kiến một sự dịch chuyển. Kinh tế phát triển và quá trình hiện đại hóa đem lại nhiều tự do cá nhân hơn, và một điều đặc biệt xảy ra: người Việt không chỉ bắt đầu có hứng thú đi du lịch tới những miền xa xôi; họ cũng quay lại với bản thân, và khám phá ra cơ thể mình.

Trước hết, họ bắt đầu phô nó ra. Qua mỗi năm, người ta lại nhìn thấy da và thịt được trưng ra nhiều hơn. Quan điểm đạo đức của xã hội được nới lỏng. Bộ Văn hóa, chỉ cách đây vài năm vẫn khét tiếng khắt khe kiểm tra để tóc nam không được quá dài và váy nữ không được quá ngắn, nay dường như đã bỏ cuộc hoàn toàn. Các ngôi sao giải trí dẫn đầu phong trào, và họ có nhiều môn đệ. Vào bất cứ tối thứ Bảy nào, các cô gái trên đoàn xe máy diễu hành quanh Hồ Gươm trông như vừa mới đến từ bãi biển Rio de Janeiro. Và đấy là ở một đất nước mà mười năm trước còn cạnh tranh với Bắc Triều Tiên trong chuyện ăn mặc đoan trang.

Người ta cũng bận bịu trang trí cơ thể của mình hơn. Xỏ khuyên vẫn bị coi là cực đoan (chúng ta đang ở một đất nước mà phần lớn những kẻ mũi xỏ đi ngoài đường là trâu và bò) , nhưng xăm trổ đang ngày càng phổ biến. Vốn thuộc về lãnh địa của nam tính Việt Nam, đặc biệt của những kẻ ngoài rìa xã hội như lính xa quê hay những kẻ lưu manh xoàng, ngày nay xăm mình đang được nhiều phụ nữ ưa thích, như một động tác thể hiện cá tính tinh vi và dễ che đậy. Bạn có thể gặp một cô gái mà bề ngoài trông như viên chức cạo giấy ở Bộ Nông nghiệp, nhưng lại mang một cái xăm ở lưng dưới. Báo chí chính thống thậm chí bắt đầu nói về các “nghệ sĩ tattoo” , và dường như để cho nghề này có vẻ nghiêm túc hơn, nói về tham vọng của họ mang “các motiv xăm trổ của Việt Nam ra thế giới”. Mặc dù cơ hội được tô mực lên gáy David Beckham một họa tiết trống đồng chắc không cao, nhưng tham vọng ấy có thể giúp mảng văn hóa ngoài luồng này dễ được các nhà chức trách chấp nhận hơn. Hiện nay các tiệm tattoo đều hoạt động dưới dạng salon thẩm mỹ, hoặc không có giấy phép gì cả.

Có lẽ không bằng chứng nào thể hiện tốt hơn cho sự thay đổi trong quan hệ của người Việt với cơ thể như thái độ của họ với thể thao. Những hoạt động chân tay không còn được coi là gắn liền với cuộc sống của tầng lớp thấp nữa. Trái lại, trong khi những người ở tầng lớp dưới đang bị xích vào những dây chuyền sản xuất, hoặc bị gắn với những công cụ có động cơ của mình như là xe ôm, và do đó ít có cơ may vận động thân thể, thì những người khá giả dành thời gian nghiên cứu về những chiếc xe đạp tối hiện đại chỉ nặng vài cân, và theo đuổi những cuộc tranh luận vô tận trên mạng xem túi da đựng đồ không thấm nước nào là tốt nhất.

Người ta bắt đầu rời phòng máy lạnh để dầm mưa dãi nắng (tuy nhiên, mọi thứ đều được lưu ý để bảo đảm họ không bị lẫn vào nhóm người kia, những người dầm mưa dãi nắng vì không có điều kiện vào phòng máy lạnh).

Tuy nhiên, ở đây có một khác biệt giới tính: trong trào lưu mới của ý thức cơ thể thì đàn ông bị tụt hậu, họ vẫn tới sân tennis để có cớ mà nhậu nhiều hơn. Hoặc là họ chuyển sang sân golf, nơi họ còn đổ mồ hôi ít hơn và uống nhiều hơn nữa. Trong khi đó phụ nữ thử đủ thứ với cơ thể mình để biết hơn về nó. Họ nhảy salsa, múa bụng, múa cột, tập aerobics và yoga. Và họ kéo nhau tới gym.

Ngày nay xã hội mới gặp nhau ở gym. Gym mọc lên ở mọi nơi, máy tập sáng loáng, gương từ sàn tới trần, sauna khô, tắm hơi và những màn ảnh dẹt khổng lồ bơm nhạc techno. Nghỉ trong resort khác với ở bãi biển công cộng như thế nào thì tập ở gym khác với chạy ở công viên như vậy. Bạn tới gym có nghĩa là bạn hiện đại và năng động, bạn có đủ số tiền lẻ để trả phí thành viên, và bạn đi tìm hiệu quả. Calories, nhịp tim, vòng bụng, tất cả phải được ghi chép và theo dõi một cách nghiêm túc. Các gym có một không khí giống các nhà máy của thời đại công nghiệp ngày xưa, cả hai đều là những nơi chốn của lao động cơ thể nặng nhọc. Máy móc, sắt thép xếp thành hàng, những con người bóng nhẫy mồ hôi vật lộn với những cỗ máy hình thù kỳ dị. Tiếng sắt thép va chạm nhau, tiếng băng chạy rì rì, tiếng thở dốc của người lao động. Vật liệu lao động duy nhất ở đây là cơ thể, mục tiêu duy nhất ở đây là nhào nặn nó.

Lao động thân thể không phải là phương tiện nữa, bản thân nó là mục tiêu. Theo nhà khoa học người Áo Alfred Schirlbauer, những người tập ở gym coi cơ thể của mình như nhà triết gia Humbold coi trí tuệ con người: cả hai đều là những đối tượng được hoàn thiện qua những nỗ lực không ngừng, và những cố gắng này chỉ phục vụ chính nó chứ không phục vụ một mục đích nào khác.

Quần thể người tới gym là một lát cắt xã hội đầy đủ. Một nhóm là dân văn phòng, cố nhét một lớp thể hình vào giữa việc công ty và việc nhà. Đông hơn và có nhiều thời gian hơn là các bà các cô kinh doanh tự do. Nhiều người coi gym như là phòng khách mở rộng của mình, họ kéo tới vào buổi chiều với nửa tá túi shopping, trẻ con lẽo đẽo theo sau. Những tay đam mê thể hình tranh luận về nước uống hỗ trợ cơ bắp và tự chiêm ngưỡng bản thân trước bức tường gương. Tiếp đó là nhóm những người mới giàu. Với những người này, cơ thể là chuyện nghiêm túc, giống như cái ô tô họ đi vậy. Họ bước xuống chiếc BMW trắng, biến vào phòng thay đồ rồi xuất hiện trong bộ bikini hoàn hảo, mũ lưỡi trai, iPod dính bắp tay, và chạy liền một tiếng đồng hồ, tập luyện cho một thế giới đầy cạnh tranh. Duy chỉ có vết sẹo nhạt hình oval ở bắp chân phải, tàn dư của vết bỏng ống bô xe máy, là nhắc tới thời kỳ tiền-ô tô của họ. Và cũng giống như ở xã hội bên ngoài, ở đây phân cách giai cấp cũng được thể hiện rõ ràng. Nhân viên phục vụ thường là những thanh niên nông thôn mảnh khảnh, lương tháng của họ còn thấp hơn lệ phí thành viên. Thường sau một thời gian làm việc ở đây họ cũng bắt đầu tập tành; cản trở duy nhất của họ trong giấc mơ có một cơ thể nở nang là đôi lúc họ bỏ bữa.

Trào lưu hướng về cơ thể rõ ràng phản ánh quá trình cá nhân hóa đang diễn ra trong xã hội, khi các cá nhân tìm cách tách mình ra khỏi tập thể và dùng các công cụ khác nhau để định nghĩa bản thân: cách ăn mặc của tôi, hình xăm của tôi, cơ thể của tôi. Quá trình cá nhân hóa này cũng được thể hiện trong một dịch chuyển của thái độ sống. Khác với sự cạnh tranh và giành giật ở ngoài kia, trên đường phố, nơi người ta chiến đấu với nhau để giành từng xăng ti mét đường nhựa, cuộc chiến trong phòng tập là cuộc chiến để thắng bản thân: nhanh hơn một chút, lâu hơn một chút, nặng hơn một chút. Người chiến thắng không phải người khỏe hơn, trẻ hơn, mà là người vượt qua được chính mình nhiều hơn.

Trào lưu này cũng là tín hiệu cho một loạt thay đổi về tư duy trong xã hội. Có lẽ chỉ trong một tương lai gần thôi, những người béo trắng sẽ không còn được coi là biểu tượng của một cuộc sống an nhàn sung sướng nữa, mà sẽ là của kỷ luật kém và quyết tâm cá nhân thấp, và họ sẽ gặp khó khăn hơn để cạnh tranh trong thị trường lao động cấp cao. Rèn luyện cơ thể, bắt nguồn từ lý do sức khỏe và khám phá lại bản thân, đang trên đường trở thành một phong cách sống của Việt Nam hiện đại.

Tháng Mười 2011 .

TÔN THỜ SÁCH LÀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN :

Vào ngày 8 tháng Bảy năm 2014, Israel bắt đầu chiến dịch quân sự mang tên Vành đai Bảo vệ bằng những đợt không kích dữ dội vào dải Gaza. Số lượng dân thường Palestine bị thiệt mạng bởi làn mưa rocket, trong đó có nhiều trẻ em, leo thang từng giờ. Ngay lập tức, cuộc chiến trở thành tâm điểm đưa tin của toàn bộ báo chí thế giới. Trong những ngày tiếp theo, các nguyên thủ quốc gia lên tiếng, các chuyên gia tranh cãi trên ti vi, người dân ở các thành phố lớn xuống đường biểu tình. 50 ngày sau, khi chiến dịch đẫm máu này kết thúc, hơn 2.000 người Palestine bị giết chết, và nhà cửa của hơn nửa triệu người, hay 30% dân số của dải Gaza, bị phá hủy, đánh dấu một sự kiện toàn cầu u ám và quan trọng bậc nhất của năm.

Duy ở Việt Nam vào những ngày đầu tháng Bảy đó, người ta không quan tâm tới những gì đang xảy ra ở dải Gaza. Tâm trí người Việt còn đang bị ám ảnh bởi một sự kiện khác, họ còn đang ở trong một cơn bão, không, một cơn cuồng nộ truyền thông, mà nhìn vào cường độ của nó thì một người quan sát tất phải đi tới kết luận là sự kiện này vừa là một tai nạn tầm cỡ quốc gia, vừa là một bi kịch xã hội, vừa là một tội ác. Đó là sự kiện đạo diễn Lê Hoàng và người mẫu Triệu Thị Hà ngồi lên sách.

Trong một bức ảnh tai hại bị rò rỉ vào ngày 4 tháng Bảy, người ta thấy hai nhân vật showbiz nói trên ngồi trên ghế chuyện trò với nhau trong một chương trình đang được sản xuất, và hai cái ghế này được kê lên mấy cuốn sách. Ngay lập tức, “cư dân mạng bức xúc”. Ngày hôm sau, công ty sản xuất phân bua là vì những cản trở về thời tiết nên ê kíp làm việc “đành” sử dụng sách để kê chân ghế và “thành khẩn xin lỗi công chúng” , dù đây chỉ là một bức ảnh hậu trường, chụp lúc không có khán giả. Nhưng công chúng không dễ tha thứ như vậy. “Vô văn hóa” , “phản cảm” , “ngồi lên tri thức nhân loại” là đại đa số các bình luận trên mạng, và khi cả Lê Hoàng lẫn Triệu Thị Hà vẫn chống chế là “không biết” và “vội nên không để ý” thì các báo vẫn chạy tít Đặt mông lên sách mà vẫn kêu oan.

Đã tưởng sau ba ngày thì như thường lệ tâm bão sẽ di chuyển tới chỗ khác, nhưng lần này thì không. Tới một tuần sau tới lượt các nhà văn và nhà văn hóa vào cuộc. Một nhà văn giảng giải:

“Ngay cả khi ở một mình, anh đặt mông anh lên cuốn sách thì đã phải coi lại văn hóa của mình rồi...” Một giảng viên đại học văn khẳng định: “Bất luận thế nào cũng không bao giờ được phép xử sự với sách như vậy, dù nhân danh bất cứ thứ gì.” Một nhà phê bình văn học khác nghiêm khắc: “Ngồi lên sách cũng như hành động ngồi lên đầu rùa ở Văn Miếu.” (Ảnh đi kèm trên trang báo chụp ông nghiêm trang đứng trong hiệu sách với những kệ sách dài dằng dặc đằng sau). Hiếm thấy khi nào dư luận Việt Nam thống nhất như vậy.

Sự kiện này cho chúng ta một cửa sổ thú vị để nhìn vào tâm lý người Việt. Sẽ không đủ khi nói người Việt yêu quý sách và qua đó thể hiện sự tôn trọng văn hóa và tri thức của mình. Chính xác hơn, sách đã trở thành một biểu tượng tín ngưỡng. Nó đã được chuyển hóa từ cái phàm tục (profane) để trở thành cái thiêng liêng (sacred). Giống như một ngọn núi hay một loài chim ở các tín ngưỡng khác, ở đây sách, không phải cụ thể một cuốn sách quý hiếm hay có nội dung quan trọng nào, mà là sách nói chung, trong hình hài phổ quát hình chữ nhật của nó, được nạp vào một giá trị phi thường, vượt xa giá trị vật lý mấy chục nghìn đồng. Sách trở thành những vật thể được ngưỡng mộ, người ta đến với chúng một cách thành kính và tôn nghiêm, vừa gần gũi cá nhân, vừa nâng niu, long trọng. Không còn vô hồn, tầm thường và trần tục như mấy cuốn vở viết tay hay dăm trang giấy lẻ tẻ, khi giấy được đóng lại, có chữ in, có bìa, có tên tác giả, và có giấy phép xuất bản, tức là được quyền uy thông qua, thì cái tập hợp mấy trăm tờ giấy kia đạt được một uy tín mới. Sách thiêng liêng đối với người Việt cũng giống như con bò đối với người Ấn Độ. Giống như cái răng cọp đeo cổ được coi là có tác dụng trừ tà ma, người Việt chúng ta tin rằng ở gần sách sẽ có tác dụng tương tự như vậy.

Trào lưu tâm linh này không phải tự nhiên mới xuất hiện, nó đã âm ỉ khá lâu. Cách đây mấy năm Hội nhà văn đã yêu cầu Quốc hội ban hành Luật Nhà văn để rộng đường phát triển nền văn học nước nhà. Cứ đà này, tôi cho rằng không xa nữa các tác giả sách sẽ có vai trò đặc biệt trong xã hội. Có thể họ sẽ được ngồi ở hàng ghế đầu trên xe buýt, giống như các nhà sư ở một số nước theo đạo Phật. (Hàng ghế sau, kém trang trọng hơn, có thể dành cho các quan chức và doanh nhân bỏ tiền túi ra tự in thơ. ) Rồi biết đâu người ta sẽ đề nghị ban hành Bộ quy tắc ứng xử với sách, và phạt hành chính thật nặng những trường hợp như Lê Hoàng và Triệu Thị Hà trên đây, dù là vô tình hay cố ý.

Dù bản thân là người thích đọc sách, tôi lấy làm tiếc phải cho rằng ở đây chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mê tín dị đoan.

Trước hết cần chỉ ra sự vô lý trong vai trò đặc biệt của sách khi so với các vật thể có cùng chức năng truyền tải văn hóa và nghệ thuật khác nhưng không được đưa vào điện thờ tinh thần của chúng ta. Tôi đoán là Lê Hoàng có thể ngồi lên một cái sáo trúc cả ngày mà sẽ không có ai phẫn nộ cho rằng đó là phỉ báng âm nhạc.

Hay Triệu Thị Hà có thể mặc váy đầm thướt tha, nằm lên trên một cái piano lớn mà không bị coi là “đặt mông” lên Mozart. Người ta vẫn lấy những cái DVD cũ, chứa trong mình các tác phẩm điện ảnh bất hủ của các thời đại, và xâu lại một chuỗi thành cái rèm cửa, mà không có cư dân mạng nào trên Internet bao la càu nhàu lấy một câu. Và có vô lý không khi tôi có thể lau giày bằng một cái tranh vải in hình Mona Lisa, nhưng lại không thể kê một nồi canh nóng lên sách, “ngay cả khi đang một mình” ?

“Vạn ban giai hạ phẩm / Duy hữu độc thư cao” (“Mọi nghề đều hèn hạ / Chỉ có đọc sách là cao siêu” ) - ở những thế kỷ trước, người ta vẫn dạy trẻ nhỏ như vậy. Tư duy ở đằng sau là: Đàn sáo thì “phường chèo” nào cũng làm được, còn vẽ vời đục khắc thì dành cho các nghệ nhân làng, nhưng chỉ có vua quan và các bậc học giả mới có thể làm ra con chữ. Nhưng, như ông Trần Trọng Kim đã từng phàn nàn, người Việt dễ đánh mất cái nội dung để bám vào cái nghi thức, vào cái vỏ bên ngoài, nên tới giờ câu đó đã trở thành “Mọi thứ đều hèn hạ, chỉ có sách là cao siêu.” Tôi kính trọng sách, cho nên tôi có giá trị, còn tôi có đọc chúng hay không thì không còn quan trọng nữa.

Khi tôn sùng vô điều kiện hình hài của các cuốn sách, thờ phụng cái tập hợp bìa cứng, keo dán và giấy, bạn đã gạt nội dung của chúng sang một bên, cũng giống như bạn chắp tay khấn vái trước bất cứ một ngôi đền nào mà không biết nó được dựng lên để thờ ai. Thái độ này cũng giống như sự kính cẩn với các loại học vị, bằng cấp giáo sư, tiến sĩ, mà không cần biết là từ trường nào, ai cấp, thật giả lẫn lộn ra sao. Con chữ có thể tới từ thánh hiền, mà cũng có thể tới từ ma quỷ. Hẳn mỗi người đều còn nhớ hình ảnh bạt ngàn người Trung Quốc tay giơ cao sách đỏ của Mao Trạch Đông trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Trong lịch sử loài người, đã vô số lần quyền lực cho đốt sách, nhưng có lẽ chưa bao giờ các nhà độc tài không thống trị thông qua sách.

Với tôi, mọi việc khá đơn giản. Nếu một cuốn sách có giá trị với tôi, vì nội dung của nó, hay vì nó là một kỷ niệm, tôi sẽ giữ nó. Nếu không, tôi sẽ nghĩ xem liệu nó có giúp ích hay đem lại niềm vui cho ai đó khác không. Nếu không nữa, thì cuốn đó được bán giấy vụn, để lót nồi, hoặc được xé ra nhóm lửa trại.

Theo một thống kê ở Anh, trong khoảng 86.000 đầu sách được xuất bản hằng năm, có tới 60.000 đầu sách chỉ bán được trung bình 18 cuốn. Mỗi năm các cửa hàng sách xé trang bìa rồi gửi trả lại các nhà xuất bản 77 triệu cuốn vì chúng không có người mua.

Những cuốn này được biến thành bột giấy để sản xuất các cuốn sách mới. Ở Việt Nam, không rõ con số thống kê như thế nào, nhưng rõ ràng từ nhiều năm nay, nhiều cuốn cũng tìm được cách giúp ích cho đời bằng cách hiến gan ruột cho các bà bán xôi mà không thấy có ai bức xúc gì. Đánh từ khóa “recycle book” (“tái sử dụng sách” ) vào Google, bạn sẽ nhận được vô số ý tưởng làm gì với những cuốn sách mà bạn không cần nữa: khoét hình vuông bên trong để biến chúng thành cái chậu trồng hoa con con, hay cái hộp để nhẫn và chìa khóa. Dính hàng trăm cuốn lại với nhau thành một cái ghế tựa, một cái thành giường, hay một quầy tiếp tân. Xòe chúng ra thành những cái chao đèn hay những cái ghế đẩu chắc chắn. Rút ruột để biến chúng thành những cái túi xách tay nhỏ.

Trong bảo tàng Meermanno ở Hague, Hà Lan, người ta dùng hàng ngàn cuốn dính vào nhau, tạo ra một cái thác bằng sách đổ từ cửa sổ tầng hai của tòa nhà xuống vỉa hè. Theo tôi, kê sách cho ghế cao lên không phải là một sáng kiến tồi.

“Bất cứ ai đọc quá nhiều và sử dụng bộ óc của mình quá ít sẽ có thói quen lười nhác trong suy nghĩ.” Câu này là của Einstein, và nó đặc biệt đúng khi người ta đọc những thứ linh tinh. Ở Việt Nam, bán chạy nhất từ nhiều năm nay vẫn luôn luôn là sách bói toán, tử vi và truyện ngôn tình rẻ tiền. Chúng là những liều thuốc ru ngủ làm người ta lười động não y như những xê ri phim Hàn Quốc sướt mướt và các game show nhảm nhí trên ti vi. Chưa kể, sách nhảm, từ điển rác tràn lan thực sự không xứng đáng với giá trị của các tờ giấy dùng để in chúng.

Chứng kiến làn sóng bức xúc cuồn cuộn trên truyền thông và trên mạng xã hội, tôi thầm nghĩ giá một phần của năng lượng này được hướng tới để giải quyết những vấn đề thật sự liên quan tới sách. Giá mà người ta cũng căm phẫn tương tự như vậy với nạn sách giả, sách lậu đang hoành hành trên thị trường sách và cương quyết khước từ chúng. Giá mà người ta bàn nhau xem làm thế nào để vạch mặt và tẩy chay các sách nhảm và sách rác. Giá mà xã hội sẵn sàng bỏ tiền ra mua sách với giá cao hơn để các dịch giả được đãi ngộ xứng đáng với công sức và đóng góp của họ vào đời sống tinh thần của xã hội. 20 triệu tiền nhuận bút cho 10 tháng lao động nghiêm túc để dịch một cuốn sách khó, thấp hơn cát xê một đêm của một hoa hậu bậc trung - nếu muốn truyền tải tương quan này qua một biểu tượng thị giác, có gì hợp hơn là hình ảnh người mẫu ngồi lên sách?

Mục đích cuối cùng của giáo dục và văn hóa là tạo ra sự bao dung. Chúng ta có thể âu yếm lướt tay vuốt các trang sách, nhắm mắt hít vào mùi thơm và lắng nghe tiếng sột soạt quen thuộc của chúng, nhưng việc đó không chứng tỏ chúng ta ưu tú, hay đẳng cấp, hay có văn hóa hơn những người không làm vậy. Chúng ta có thể học tập vị thiền sư nọ vào thời nhà Đường, người đã quẳng cái tượng Phật vào lửa để lấy hơi ấm, vì nó chỉ là gỗ, “tinh thần của Phật không nằm ở đó”. Sách cũng thế, để gối đầu giường hay kê ở dưới chân bàn không quan trọng, chúng chỉ là bột gỗ.

Tháng Hai 2015 .

KHI LOUIS XIV VỀ LÀNG :

Thành phố Ninh Bình sắp có một thắng cảnh mới: đại gia Hải Biên đang cho xây một tòa nhà nhái kiến trúc của Quốc hội Mỹ. Cũng đầy đủ mái vòm, cột tròn, cũng phù điêu trên tường và lan can chạm trổ. “Lâu đài” này có một tỉ lệ khá khôi hài, nên trông nó giống công trình gốc như cái nguệch ngoạc của trẻ con giống tranh của Picasso. Nhưng có vẻ chủ nhân không phiền lòng về điều này, quan trọng là người ta nhận ra được ý đồ của tác giả. Và ai cũng đồng ý là nó nhiều tiền.

Cuối cùng thì Ninh Bình cũng gia nhập cuộc đua đại gia xây lâu đài, đã nóng lên từ chừng hai năm nay. Phong trào đã gặt hái được khá nhiều kết quả: lâu đài cặp đôi 100 tỉ ở Quảng Ninh, lâu đài 6

con gà dát vàng ở Cầu Giấy, lâu đài ngựa vàng ở Hải Phòng. Điểm chung của chúng là tất cả đều đi theo phong cách phương Tây, cụ thể hơn là phong cách tân cổ điển của châu Âu thế kỷ 18. Thi thoảng mới có người lạc tông, như lâu đài Tamasago theo kiểu Ả

Rập của chủ tịch tập đoàn Khải Silk, hay lâu đài của đại gia Trầm Bê ở Trà Vinh (được đánh giá là “nửa Tây, nửa ta, nửa Ả Rập” ).

Dinh thự của nữ đại gia 36 tuổi Mã Đào Ngọc Bích (riêng cái tên đã đặc biệt) ở Sóc Trăng thì theo hẳn phong cách của 4 nước: Pháp, Ý, Hy Lạp và một nước Ả Rập, với một đội chiến binh Ý áo giáp mạ đồng đứng vòng quanh nhà, khắp nơi chạm khắc vương miện vua chúa châu Âu, cùng những chú gà trống Gô loa, biểu tượng của nước Pháp.

Kiến trúc tân cổ điển của châu Âu không chỉ hấp dẫn các đại gia nhiều tiền. Từ cách đây 10 năm, những con ngựa gầy gò trên cổng khải hoàn môn và những tượng Hy Lạp khỏa thân ở khu đô thị Ciputra, Hà Nội, đã từng làm cho một số trí thức phẫn nộ về cái “xa lạ” và “kệch cỡm” của nó. Nhưng trên thị trường, Ciputra thành công rực rỡ với dân trung lưu. The Manor ở Mỹ Đình nối tiếp, bắt đúng mạch thời đại với khẩu hiệu “một góc châu Âu trong lòng Hà Nội”.

Đến bây giờ thì không chỉ ở Nghĩa Đô, Mê Linh, Mỗ Lao, Châu Quỳ và khoảng hai tá dự án khác ở Hà Nội, đâu đâu cũng “mang đậm phong cách châu Âu” , từ Galleria Nam Sài Gòn tới Euro Village ở Đà Nẵng, từ EcoLakes ở Bình Dương tới Picenza Plaza ở Thái Nguyên. Dự án Hill State ở Hà Đông thì mở đầu quảng cáo bằng “tỏa sáng tự tin, phong cách Hàn Quốc” , nhưng đến đoạn sau lại không tự tin lắm nên phải chua thêm vào “phong cách châu Âu, đẳng cấp quốc tế” cho yên tâm. Nhiều dự án chọn phương án lẩu thập cẩm. Khu đô thị Việt Âu ở Hòa Bình thì vừa mang nét “phố cổ Toledorio, thủ đô cũ của Tây Ban Nha” , vừa có cái “lãng mạn, sang trọng của làng Bibury, một trong những làng đẹp nhất Anh quốc” , cộng với “sự tinh xảo và hoa văn của cung điện Versailles”.

Các tòa nhà hành chính cũng nằm trong cuộc chạy đua này. Trụ sở của Bộ Tài chính ở Hà Nội có nửa quả cầu tròn úp lên giống như Điện Panthéon ở Paris. Riêng hàng rào sắt uốn cầu kỳ của trụ sở UBND tỉnh Hà Tĩnh hẳn sẽ khiến nhiều dân thượng lưu châu Âu cách đây ba thế kỷ phải hài lòng. Khu hành chính của Lai Châu là một phiên bản của The Manor, Hà Nội. Ở nông thôn, nhiều khi giữa đồng không mông quạnh người ta thấy đứng sừng sững một trụ sở huyện được xây như một phiên bản méo mó của Nhà hát Lớn Hà Nội, xung quanh trâu bò tha thẩn gặm cỏ. Đặc biệt các tòa án có vẻ chuộng hình thức kiến trúc này. Theo ông chánh án Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp, kiến trúc châu Âu cổ điển là để “đảm bảo sự uy nghiêm cần thiết” của cơ quan đặc thù này.

Chưa bao giờ người Việt có thể lựa chọn giữa nhiều phong cách kiến trúc trên thế giới như bây giờ. Chưa bao giờ người Việt có thể tìm hiểu những công nghệ xây dựng hiện đại, tiết kiệm năng lượng, sinh thái, dễ dàng như bây giờ. Trong thời đại của smartphone, của các chuyến bay xuyên lục địa, của công nghệ chỉnh hình cơ thể như phù thủy, vì sao người ta lại xây nhà mình như là chúng ta vẫn đang sống ở cuối thế kỷ 19? Nếu như căn nhà thể hiện giấc mơ của chủ nhà, thì người Việt đang mơ gì?

Của cải mới kiếm được thì thường đi kèm với nhu cầu khẳng định và phô trương mình qua sự rườm rà, hoa văn và kích thước khủng. Người Việt không nằm ngoài quy luật này, họ đi tìm những cơ hội để trưng bày sự sung túc mới có của mình. Ngoài ra, dường như họ đang bơ vơ trong cuộc sống hiện đại, và có nhu cầu tìm đến quá khứ để có một điểm tựa, để có thể gắn vào một cái gốc.

Mặc dù ai cũng hết đỗi tự hào về họ tộc cụ thể của gia đình mình, người ta lại chối từ quá khứ của tập thể lớn hơn, của cả phương Đông, coi nó là lạc hậu, man di, không văn minh, không có đẳng cấp. Sự giàu có vật chất đi kèm với khủng hoảng về bản sắc và lòng tự tin bị tổn thương đang nuôi dưỡng một tâm thế thuộc địa, tự đặt mình xuống dưới một nền văn hóa khác. (Thật kỳ dị biết bao nếu bỗng nhiên người Pháp đua nhau xây nhà cửa theo phong cách “cung đình nhà Thanh” ). Hơn 100 năm sau khi người Pháp đặt tượng Bà đầm xòe lên trên nóc Tháp Rùa khiến người Việt bức xúc, trớ trêu thay, kiến trúc Pháp cổ điển quay lại để đáp ứng tất cả các nhu cầu tình cảm của người Việt. Với dân trung lưu, nó tượng trưng cho văn hóa, đẳng cấp, văn minh. Với quan chức, nó hiện thân cho sự uy nghi, tôn nghiêm. Với giới trẻ, nó là biểu tượng của lãng mạn, tình yêu, lịch sự. Trong khi phương Tây nhìn giai đoạn tân cổ điển này như là một trong bao giai đoạn khác của họ, và họ luôn luôn tiếp tục tìm tòi ngôn ngữ sáng tạo đương đại của mình, thì người Việt lại coi tân cổ điển là đỉnh cao muôn trượng. “Nó thực sự là đỉnh cao kiến trúc, rất tuyệt vời.” Một kiến trúc sư được giới thiệu là chuyên thiết kế lâu đài cho các đại gia cho biết. “Đã hàng trăm năm nhưng kiến trúc (cổ điển) kiểu Pháp không những không lạc hậu mà có thể khẳng định không có công trình đương đại nào có thể vượt qua về giá trị thẩm mỹ. Tôi đã đi khá nhiều và tôi thấy nó là kiệt tác, tinh hoa, nên vô cùng ngưỡng mộ, khâm phục.”

Với những kiến trúc sư này, không lấy làm bất ngờ khi ngành kiến trúc Việt ở tình trạng mà nó đang ở.

Sẽ ít người có nhu cầu tiếp cận và hấp thụ văn hóa phương Tây, dù là nhạc cổ điển, ba lê, hay văn học, nhưng giống như một người nông dân khoác lên mình một cái áo vest để chứng tỏ mình thành thị, người ta dùng kiến trúc nhái Pháp để phát ra tín hiệu là tôi có văn hóa và đẳng cấp, tầm hiểu biết của tôi có bề dày quốc tế. Tôi bằng vai phải lứa với người phương Tây, bởi nhìn đây, cầu thang của tôi còn to và uốn lượn hơn cầu thang của các cụ của họ, và tôi đang giẫm lên đá hoa cương tới từ xứ sở họ.

Một mâu thuẫn nữa là trong khi các đại gia đều coi lâu đài của mình là một tác phẩm cá nhân, độc đáo, “được ấp ủ nhiều năm nay” , và phải bảo đảm là không giống ai, thì trên thực tế, họ xây không phải để thể hiện sự sáng tạo của mình, mà để người khác tán đồng. Thái độ này được thể hiện rõ nhất qua phát ngôn của Đàm Vĩnh Hưng khi anh xây biệt thự trăm tỉ: “Ai không thích chỗ nào tôi đập liền chỗ đó.” Với anh Hưng, cái đẹp là cái mà người khác nói là đẹp. Anh đã xây một lâu đài kiểu châu Âu với tâm lý nô lệ vào tập thể của phương Đông ở mức đậm đặc nhất.

Cũng vì thế mà các công trình “riêng biệt độc đáo” kia kết quả lại giống nhau, và đều giống một cái bánh ngọt đám cưới nhiều tầng khổng lồ, loang lổ trắng, hồng, vàng thuộc địa. Bên trong, chúng đều ngột ngạt, nhức mắt như nhau, không có mảng tường nào to quá một mét vuông mà không có một cái phù điêu, không có đường thẳng nào chạy được quá một mét mà không bị xoắn lấy một cái. Tổng thể giống như trong một cửa hàng đèn bình dân ngồn ngộn hàng trăm cái, cái nào cũng bật sáng trưng, kêu gào đòi sự chú ý.

Trong khi vươn tới cái ảo ảnh phương Tây, chủ nhân của những ngôi nhà này vẫn phương Đông đến tận xương tủy. Chính vì thế mà chúng ta nhìn thấy những cảnh Đông - Tây đề huề: hai con sư tử đá Trung Hoa đứng canh cái cổng sắt mạ đồng có phù điêu hoàng gia Anh nặng hàng tấn, hàng cây bonsai nhiều chục tỉ chen chúc nhau che lấp tượng thần Vệ nữ ở ngoài vườn, tượng cóc ngậm tiền vàng cao bằng đầu người đặt dưới gà trống Gô loa mạ vàng. Cái không gian nhái châu Âu kia là để chứng tỏ họ đã chinh phục được kẻ khác, nền văn minh phương Tây xa lạ, nhưng mặt khác họ không cảm thấy “ở nhà” khi bên trong nó. Họ bị giằng xé.

Chính vì thế mà ngay bên cạnh làng Pháp mới xây trên đỉnh núi Bà Nà, đầy đủ với một nhà thờ đá gô tích nhỏ, một quảng trường, đài phun nước và cổng vòm, “như là ở ngoại ô Paris” , là một thực đơn phong phú các cơ hội để du khách có những “phút giây thư giãn với văn hóa tâm linh Á Đông” , với chùa, tháp, lầu chuông, đền, miếu, nhà bia.

Cái “giả” đang thắng thế trong mọi lĩnh vực. Người ta tháo chạy khỏi hiện thực và chính bản thân mình để bám vào một tưởng tượng xa lạ. Trong thế giới nhân tạo này, người ta ngồi trong một phòng khách ngồn ngộn các ghế bành bọc nỉ chân cong mạ vàng, trên đầu là đèn chùm pha lê giả đồ sộ với hàng nghìn giọt thủy tinh long lanh, trên tường là bức Mona Lisa sơn dầu được vẽ bởi một họa sĩ ở phố Nguyễn Thái Học, và nữ chủ nhân có một bộ ngực mãi mãi chiến thắng sức hút của trái đất, tậu ở Thái Lan.

Trào lưu chạy theo “phong cách châu Âu” này sẽ kéo dài bao lâu?

Nhiều người cho rằng đây chỉ là một cái mốt nhất thời - tôi không nghĩ vậy. Vào mùa cưới, ngày ngày, hàng hàng lớp lớp các đôi nam nữ vẫn đứng trên vỉa hè trước khách sạn Metropole hay Tràng Tiền Plaza để chụp ảnh cưới. Đằng sau họ là những người mẫu châu Âu của Hermes và Prada, đặt trong những khung cửa châu Âu cổ kính. Sự hấp dẫn của phương Tây là vô tận, một phương Tây của quý tộc (cái từ nghe mới tuyệt vời làm sao) , điểm xuyết bởi những biểu tượng tiêu dùng đương đại xa xỉ. Trong sự đảo điên của giá trị và bấp bênh của thế giới xung quanh, bộ bài trùng Louis XIV và Louis Vuitton vừa là cái neo giữ họ lại, cho họ niềm tin, vừa là ánh sáng dẫn đường cho một tương lai lãng mạn đáng thèm muốn.

Louis XIV chắc không bao giờ nghĩ rằng ông lại ruột thịt như thế với người Việt. Cách đây hai năm, Bộ Xây dựng, trong một cố gắng lẻ loi, ban hành một quy định yêu cầu các địa phương không xây dựng các công trình nhại kiến trúc cổ điển Pháp, với mục tiêu phát triển kiến trúc phù hợp với điều kiện và văn hóa địa phương, tạo ra bản sắc vùng miền. Ngay lập tức, báo chí và người dân phản ứng gay gắt. Ba tháng sau, Bộ Xây dựng tuyên bố quy định này là một “lỗi đánh máy”.

Người Việt có thể chịu mất mát nhiều thứ, nhưng không ai có thể lấy được Louis XIV ra khỏi cuộc sống của họ.

Tháng Tư 2015 .

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3