Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 7) - Chương 17 - 18
Chương 17
HỌP MẶT THÂN HỮU
Một buổi chiều Thứ Bảy, Mary Power ào tới
như gió cuốn tìm Laura. Má cô đỏ bừng vì kích động. Hội Phụ Nữ Cứu Trợ sẽ tổ
chức một cuộc họp mặt thân hữu vào đêm Thứ Sáu tới tại nhà bà Tinkham. Mary
Power nói:
- Mình sẽ đi dự, nếu có bồ cùng đi, Laura.
Ô, xin bà cho phép, bà Ingalls?
Laura không thích hỏi họp mặt thân hữu là
thế nào. Chơi thân với Mary Power, cô cảm thấy hơi lạc hậu so với bạn. Quần áo
của Mary Power luôn hợp thời trang vì do chính tay cha cô may cắt và tóc cô rất
đúng mốt mới với những cụm cắt tém. Mẹ nói Laura có thể tới dự họp mặt. Cho tới
lúc này, cô chưa hề nghe biết đã thành lập Hội Phụ Nữ Cứu Trợ.
Trên thực tế, Bố Mẹ rất buồn do thất vọng
về việc Cha Alden ở vùng Suối Plum không là mục sư ở đây. Cha đã bày tỏ ước
nguyện đó và được giáo hội cử tới. Nhưng khi tới nơi, Cha mới hay Cha Brown đã
có mặt. Thế là Cha Alden nhận sứ mạng đi tiếp về miền Tây. Dĩ nhiên Bố Mẹ vẫn
quan tâm tới nhà thờ và Mẹ đã tham gia Hội Phụ Nữ Cứu Trợ. Tuy nhiên, Bố Mẹ vẫn
không thể có cảm giác giống như khi có Cha Alden.
Suốt tuần lễ tiếp theo, Laura và Mary Power
luôn hướng về buổi họp mặt. Muốn tham dự phải mất một dime nên Minnie và Ida
không tin là tới nổi còn Nellie nói rằng chuyện đó không khiến cô lưu tâm.
Ngày Thứ Sáu có vẻ thật dài đối với Laura
và Mary Power đến nỗi các cô nôn nóng mong đêm tới. Đêm đó, Laura không thay
quần áo đi học mà choàng lên người một chiếc tạp dề dài và cài chặt vạt trước
lên tới cằm. Bữa ăn tối xong sớm và ngay sau khi chén đĩa được rửa sạch, Laura
lập tức bắt đầu chuẩn bị cho buổi họp mặt.
Mẹ giúp cô chải áo thật kỹ. Đó là chiếc áo
len màu nâu may theo mẫu công nương. Cổ áo cao, đường viền khít, sát tới cằm và
váy thả xuống tới cổ đôi giầy cài nút cao. Chiếc áo rất đẹp với những dải viền
màu đỏ quanh khắp cổ áo, cườm tay và trọn hàng nút áo phía trước đều bằng sừng
màu nâu với hình một lâu đài nhỏ xíu khắc ở chính giữa.
Trong ánh đèn, trước tấm gương ở phòng
trước, Laura cẩn thận chải tóc và bện lại, kéo lên rồi buông xuống. Cô không
thể sắp xếp nổi cho vừa ý. Cô gần như nài nỉ:
- Ôi, Mẹ, cho phép con cắt tóc tém đi. Mary
Power để tóc tém và hợp thời trang hết sức.
Mẹ nói:
- Tóc con như vậy dễ coi lắm. Mary Power là
một cô gái dễ thương nhưng Mẹ vẫn thấy cần gọi mốt tóc mới là “tóc tém quái
dị”.
Carrie an ủi cô:
- Tóc chị đẹp lắm, Laura. Màu nâu rất dễ
thương lại dày, dài và mượt bóng thế kia.
Laura vẫn không vui với cách suy nghĩ của
mình. Cô nhớ tới những sợi tóc ngắn thường buông xuống quanh trán. Những sợi
tóc này không lộ ra khi chải ngược về phía sau nhưng lúc này cô kéo tất cả
xuống trước trán và làm thành một cụm tóc tém nhỏ. Cô cố thuyết phục:
- Mẹ ơi, con không cắt tóc tém giống như
Mary Power nhưng con xin Mẹ cho con cắt chỉ một ít thôi, con sẽ cắt và uốn lại
riêng cụm tóc trước trán.
Mẹ chiều theo ý cô:
- Như vậy thì được.
Laura nhấc chiếc kéo trong hộp đồ khâu của
Mẹ, đứng trước gương cắt thành một cụm tóc dài ngang nhau khoảng hai inch trước
trán. Cô đặt cây bút viết bảng lên lò sưởi và khi cạy bút được hơ nóng, cô cầm
lấy đầu nguội cuốn những lọn tóc ngắn vào đầu kia. Mỗi lọn tóc được cuốn chặt
vào cây bút và cô uốn cho cong đều lại.
Cô chải mái tóc thật mượt về phía sau và
kết thành bím. Cô kết thành một bím tóc dài ở phía sau và ghim chặt. Mẹ nói:
- Quay lại cho Mẹ ngắm thử coi.
Laura quay lại:
- Có được không, Mẹ?
Mẹ nhìn nhận:
- Xinh lắm. Tuy nhiên, Mẹ vẫn thích mái tóc
trước của con hơn.
Bố lên tiếng:
- Quay về phía này cho Bố coi.
Bố ngắm một hồi lâu bằng ánh mắt vừa ý:
- Được, nếu con phải đeo “mái tóc tém quái
dị” này thì Bố thấy cũng là một công việc tốt. Rồi Bố lại quay lại với tờ báo. Carrie
nói nhỏ:
- Em nghĩ là rất đẹp. Trông chị xinh lắm.
Laura choàng thêm chiếc áo khoác màu nâu và
cẩn thận đặt lên đầu chiếc mũ trùm bằng len nâu với những đường nẹp xanh da
trời. Những đường viền nâu, xanh nổi bật lên và chiếc mũ trùm với những dải dài
quấn quanh cổ cô như một chiếc khăn choàng. Cô nhìn vào gương thêm một lần nữa.
Má cô ửng hồng vì kích động và những lọn tóc uốn cong rất mới dưới màu xanh của
chiếc mũ trùm khiến mắt cô như xanh thêm. Mẹ đưa cho cô đồng một dime và nói:
- Chúc con vui vẻ, Laura. Mẹ tin là con
luôn nhớ cách ứng xử ra sao.
Bố hỏi:
- Anh có nên đi cùng với con một đoạn đường
không, Caroline?
Mẹ đáp:
- Còn sớm mà chỉ cần đi qua phố thôi. Con
nó đi cùng với Mary Power mà.
Laura bước ra ngoài trời đêm đầy sao. Tim
cô đập nhanh. Hơi thở của cô đọng thành một làn trắng trong không khí giá lạnh.
Ánh đèn hắt ra thành những mảng sáng trên mặt hè trước cửa hàng bán đồ sắt và
cửa hàng tạp phẩm. Phía trên cửa hàng đồ gỗ tối om, hai khuôn cửa sổ sáng trưng.
Mary Power bước ra từ tiệm may và cả hai cùng leo lên chiếc cầu thang giữa tiệm
may và cửa hàng đồ gỗ.
Mary Power gõ cửa và bà Tinkham bước ra. Bà
ta nhỏ nhắn trong chiếc áo màu đen với những chùm ren trắng trước cổ và các
cườm tay. Bà ta chào các cô, nhận đồng một dime từ tay Mary Power và Laura. Sau
đó, bà ta nói:
- Theo lối này đi cất áo ngoài.
Suốt tuần lễ Laura nôn nao chờ được thấy
họp mặt thân hữu ra sao và lúc này cô đã ở đây. Một số người đang ngồi trong
gian phòng chan hòa ánh sáng. Cô cảm thấy bối rối lúc vội vã bước theo bà
Tinkham đi ngang trước họ để vào trong gian phòng nhỏ. Cô và Mary Power đặt áo
khoác và mũ trùm lên giường. Rồi hết sức lặng lẽ, các cô ngồi vào những chiếc
ghế trong gian phòng lớn.
Ông bà Johnson đang ngồi bên cửa sổ. Cửa sổ
có màn treo bằng vải ThụySĩ và phía trước là chiếc bàn bóng lộn có cây đèn thủy
tinh lớn ở chính giữa với chiếc chụp đèn bằng sứ trắng có in hình những đóa
hồng màu đỏ. Cạnh cây đèn là một cuốn album bìa nhung xanh lá cây. Một tấm thảm
hoa rực rỡ phủ kín khắp gian phòng. Một chiếc lò sưởi cao với những khuôn cửa
sổ bằng mica ở chính giữa. Dựa quanh các bức vách là những chiếc ghế gỗ sáng
bóng. Ông bà Woodsworth đang ngồi trên chiếc ghế sô-pha với lưng tựa cao bằng
gỗ láng và chỗ ngồi bọc vải sợi. Riêng những tấm ván vách là giống những tấm
ván trong gian phòng trước ở nhà nhưng khác là các bức vách ở đây treo đầy
những hình chụp người và phong cảnh mà Laura không hề biết. Một số hình được
đóng trong những khuôn lớn mạ vàng, nặng chịch. Dĩ nhiên cửa hàng đồ gỗ này là
của riêng ông Tinkham.
Chị gái của Cap Garland là Florence có mặt
cùng với mẹ. Có cả bà Beardsley và bà Bradley, vợ của ông chủ cửa hàng tạp
phẩm. Các bà đều ngồi thẳng người lặng lẽ. Mary Power và Laura cũng không nói
tiếng nào. Các cô đâu biết nói gì.
Có tiếng gõ cửa. Bà Tinkham vội tới mở và
mục sư Brown cùng bà Brown tới. Giọng nói oang oang của ông vang khắp gian
phòng với những lời chào hỏi mọi người rồi ông nói với bà Tinkham về ngôi nhà
mà bà bỏ lại ở Massachusetts. Ông nói:
- Ở đây không giống được. Nhưng ở đây tất
cả đều khác lạ.
Ông tán tụng Laura, nhưng cô không thích
ông. Bố đã nói ông ta khai là một người thuộc dòng dõi John Brown ở Ossawatomie
là kẻ đã tàn sát nhiều người ở Kansas và cuối cùng thành công trong việc thúc
đẩy cuộc Nội Chiến. Mục sư Brown rất giống bức hình chân dung John Brown trong
cuốn sử của Laura.
Ông có khuôn mặt lớn và xương xẩu. Mắt ông
ta hõm sâu dưới cặp lông mày trắng bờm xờm với ánh nhìn nóng bỏng và kiêu ngạo
ngay cả khi ông ta tươi cười. Áo choàng của ông thả lỏng trên thân hình đồ sộ,
những bàn tay hộ pháp thô nháp với những lóng tay kếch xù thò ra dưới các ống
tay áo. Ông ta không được sạch sẽ. Quanh miệng ông ta, bộ râu bạc dài thượt lốm
đốm vàng tựa hồ nhuốm nước miếng pha khói thuốc lá.
Ông ta nói liên miên và sau khi ông tới
những người khác chỉ nói rất ít, ngoại trừ Mary Power và Laura. Các cô cố ngồi
im một cách lễ phép nhưng thỉnh thoảng vẫn phải cựa quậy. Thời gian
dài lê thê trước khi bà Tinkham mang các món ăn từ nhà bếp ra. Trên mỗi đĩa ăn
là một chén nhỏ kem bột bắp và một miếng bánh ngọt. Khi Laura ăn dứt phần của
mình, cô nói thầm với Mary Power:
- Về thôi!
Và Mary đáp lại:
- Đi liền, mình xong rồi.
Các cô đặt những chiếc đĩa đã ăn xong trên
chiếc bàn nhỏ ở gần đó, choàng áo mũ và tới chào bà Tinkham. Bước xuống tới
đường phố, Laura trút ra một hơi thở dài.
- Hùù! Họp mặt thân hữu mà như thế này thì
mình không ham.
Mary Power tán thành:
- Mình cũng vậy! Mình mong là mình đã không
đi. Thà rằng còn một dime lại hay hơn.
Bố Mẹ ngạc nhiên nhìn lên khi Laura bước
vào. Carrie nôn nóng hỏi:
- Vui chứ, Laura?
Laura thú thực:
- Ô, chẳng vui gì. Lẽ ra Mẹ nên đi thay vì
là con. Mary Power và con là những cô gái duy nhất ở đó. Chẳng có ai cho tụi
con trò chuyện cả.
Mẹ nói như xin lỗi:
- Đây mới là lần họp mặt đầu tiên. Chắc
chắn khi mọi người ở đây đã quen nhau hơn thì những cuộc họp mặt sẽ thú vị hơn.
Mẹ mới đọc thấy trong tờ The Advance nói rằng những cuộc họp mặt thân hữu của
nhà thờ hết sức vui vẻ.
Chương 18
SINH HOẠT VĂN HỌC
Giáng sinh
đã gần kề nhưng vẫn chưa có tuyết. Không có cả một trận bão tuyết lẻ loi. Buổi
sáng, trên mặt đất khô cóng phủ trắng một lớp sương muối, nhưng tan biến ngay
khi nắng lên. Chỉ ở phía dưới các lối đi và khuất trong bóng che của các căn
nhà là còn sương đọng khi Laura và Carrie hối hả tới trường. Gió thốc vào mũi,
thấm buốt những bàn tay nằm kín trong găng và các cô không cố trò chuyện qua
những tấm khăn choàng.
Tiếng gió
tạo thành một âm vang buồn nản. Mặt trời nhỏ hẳn lại và trên trời không một
bóng chim. Trên đồng cỏ mờ mịt vô tận, những đám cỏ nằm rạp héo úa. Trường học
cũng có vẻ già nua, xám xịt và mệt mỏi.
Hình
như mùa đông không bao giờ bắt đầu và không bao giờ chấm dứt. Không có
điều gì xảy ra khác với việc đến trường rồi về nhà, học bài ở trường rồi học
bài ở nhà. Ngày mai cũng sẽ như hôm nay và suốt trọn cuộc đời, Laura cảm
thấy, sẽ chẳng bao giờ có gì ngoài việc học và dạy học. Ngay cả ngày Giáng Sinh
cũng không phải là thực khi vắng Mary.
Laura đoán
rằng tập thơ chắc vẫn được giấu kín trong ngăn kéo bàn của Mẹ. Mỗi lần Laura đi
ngang chiếc bàn ở đầu cầu thang trong phòng Mẹ, cô đều nghĩ đến tập thơ và bài
thơ mà cô chưa đọc hết. “Can đảm lên! Chàng chỉ về hướng đất”. “Sóng
vươn cao đưa ta tới bờ kia”. Cô đã lặp lại mãi một ý nghĩ đến trở thành
nhàm chán và ngay cả việc trông ngóng cuốn sách ngày Giáng Sinh cũng không còn
lôi cuốn nhiều nữa.
Đêm Thứ Sáu
lại đến. Laura và Carrie rửa chén đĩa như thường lệ. Như thường lệ,
các cô mang sách vở tới dưới ánh đèn sáng trên bàn. Bố đang ngồi trên ghế, đọc
báo. Mẹ khẽ đung đưa chiếc ghế đu và những chiếc kim đan của Mẹ đang khua lách
cách. Như thường lệ, Laura mở cuốn sách lịch sử. Đột nhiên, cô không còn
chịu nổi nữa. Cô tựa lưng vào ghế, gấp mạnh sách lại và đập xuống bàn. Bố Mẹ
giật mình, ngạc nhiên nhìn cô. Cô hét lên:
- Khỏi cần
nữa! Tôi không muốn học! Tôi không muốn học! Tôi không muốn dạy học, mãi mãi!
Mẹ nhìn bằng
cái nhìn nghiêm khắc cùng cực. Mẹ nói:
- Laura. Mẹ
biết là con không chửi rủa nhưng nổi điên và khua đập đồ đạc cũng tệ hại
như chửi rủa. Hãy để cho Bố Mẹ khỏi phải nghe thêm lời chửi rủa nào của gỗ
nữa.
Laura không
lên tiếng. Bố hỏi:
- Có chuyện
gì, Laura? Tại sao con lại không muốn học và đi dạy học?
Laura nói
một cách tuyệt vọng:
- Ôi, con
không biết! Con quá mệt với mọi thứ. Con muốn… con muốn có một điều gì xảy ra.
Con muốn về miền Tây. Con cho rằng con chỉ muốn chơi nhưng con biết rằng con đã
lớn quá rồi.
Cô gần
như nức nở, một điều mà cô chưa từng làm. Mẹ kêu lên:
- Sao vậy,
Laura!
Bố nói bình
thản:
- Đừng nghĩ
ngợi nữa. Tất cả chỉ do con đã học hành quá sức.
Mẹ nói:
- Thôi, tối
nay hãy cất sách vở đi. Trong bó báo Youth Companions vừa nhận còn mấy truyện
mình chưa đọc. Con có thể chọn đọc một chuyện cho cả nhà nghe, Laura, con thích
vậy không?
Laura trả
lời một cách thiểu não:
- Dạ, thưa
Mẹ.
Ngay cả việc
đọc truyện cũng thành việc cô không muốn làm. Cô không biết cô muốn điều gì,
nhưng cô biết dù thế nào cô cũng không thể có được điều đó. Cô cầm lấy tờ báo
Youth Companions kéo ghế vào gần bàn trở lại. Cô nói:
- Carrie, em
chọn truyện nào em thích đi.
Một cách
kiên nhẫn, cô đọc lớn tiếng trong lúc Carrie cùng Grace tròn mắt lắng nghe,
chiếc ghế đu của Mẹ đung đưa và những cây kim đan trong tay Mẹ lại khẽ khua
lách tách. Bố đã ra phố kiếm bạn bè trò chuyện quanh lò sưởi trong cửa hàng đồ
sắt Fuller. Đột nhiên cánh cửa bật mở và Bố chạy ào vào, nói:
- Caroline,
đội nón vào, cả các con nữa! Có một cuộc mít-tinh ở trường học!
Mẹ hỏi:
- Có chuyện
gì…
Bố nói:
- Mọi người
đang kéo đi! Mình đang khởi sự sinh hoạt về văn học.
Mẹ đặt món
đồ đang đan xuống bên cạnh:
- Laura,
Carrie! Các con hãy thay đồ trong lúc Mẹ lo cho Grace.
Rất nhanh,
tất cả đã sẵn sàng đi theo ngọn đèn bão của Bố. Lúc Mẹ thổi tắt cây đèn trong
nhà, Bố xách lên luôn. Bố giải thích:
- Tốt hơn là
mang nó theo. Mình cần thêm ánh sáng cho trường học.
Những ngọn
đèn bão khác đang đi dọc phố Main và lập lòe trong khoảng tối của phố Second ở
phía trước. Bố ghé gọi thầy Clewett ở đó, nhắc mang theo khóa cửa trường học.
Những chiếc
bàn khác lạ hẳn dưới ánh sáng của những ngọn đèn bão. Nhiều ngọn đèn khác cũng
được mang tới. Thầy Clewett thắp sáng một chiếc đèn lớn nhất đặt trên bàn giấy
của thầy và ông Gerald Fuller đóng một cây đinh vào vách để treo lên chiếc đèn
có chụp phản chiếu bằng thiếc. Ông ấy đã đóng cửa tiệm để tới dự cuộc họp mặt.
Hết thảy các chủ tiệm cũng đang lo đóng cửa tiệm để kéo tới. Gần như mọi người
trong thị trấn đều đang dồn về. Cây đèn của Bố phụ thêm cho những chiếc đèn bão
chiếu sáng rực ngôi trường. Các chỗ ngồi đều đầy người và các ông đứng dàn hàng
phía sau, khi thầy Clewett kêu gọi toàn phòng giữ trật tự. Thầy nói rằng mục
đích buổi họp mặt là để tổ chức một câu lạc bộ văn học. Thầy nói:
- Việc thứ
nhất theo trình tự là nêu một danh sách hội viên. Rồi tôi sẽ theo dõi cuộc đề
cử chủ tọa lâm thời. Chủ tọa lâm thời sẽ đảm nhận nhiệm vụ và lúc đó chúng ta
sẽ tiến hành đề cử và bỏ phiếu bầu các thành viên thường trực.
Mọi người
hơi thụt lui lại và cảm thấy kém vui một chút nhưng cũng có một điều hấp dẫn là
ai có thể đắc cử vào chức chủ tịch. Lúc đó, Bố đứng lên khỏi ghế của mình và
nói:
- Thưa ông
Clewett và quí vị trong thị trấn, chúng ta tới đây là để tìm một cái gì làm cho
mình phấn chấn, hăng hái thêm lên. Như thế có lẽ không cần thiết phải tổ
chức một thứ gì.
Bố nói tiếp:
- Theo những
gì tôi nhìn thấy thì điều xáo trộn khi có một tổ chức là không bao lâu người ta
sẽ lưu tâm nhiều tới tổ chức hơn là lưu tâm tới việc mà tổ chức cần làm. Tôi
tin rằng chúng ta sẽ đồng ý ngay bây giờ về những điều mà chúng ta muốn. Nếu
chúng ta bắt đầu tổ chức thì đã gặp ngay nguy cơ là khó đồng ý với nhau về
người được tuyển chọn vào ban thường trực. Cho nên, tôi đề nghị cứ nhấn thẳng
tới, làm ngay những điều chúng ta muốn làm không cần có các thành viên thường
trực. Chúng ta hãy chọn ông Clewett, giáo viên ở trường coi như người hướng
dẫn. Ông ấy được trao trọn quyền đề ra chương trình trong mọi cuộc họp mặt kể
từ lần họp mặt sau. Ai có ý kiến gì hay có thể nêu lên và ai cũng phải hăng hái
góp phần vào các chương trình cho trở thành tốt nhất để đem lại cho mọi người
những giây phút thoải mái.
- Thế là đẹp
rồi, Ingalls!
Ông Clancy
hô lớn và khi Bố ngồi xuống, nhiều tiếng vỗ tay tán thưởng vang lên. Thầy
Clewett nói:
- Ai tán
thành hãy nói “Đồng ý!”
Một loạt
tiếng “Đồng ý” rộ lớn lên và cuộc bầu phiếu đã xong. Sau đó không ai biết
nên làm gì tiếp theo. Thầy Clewett nói:
- Chúng ta
không có chương trình gì cho cuộc họp mặt này.
Một số người
lên tiếng:
- Chà! Chúng
tôi chưa chịu về đâu!
Người có râu
đề nghị cùng hát và một người nói:
- Thầy có
thể gom một số học sinh lại và diễn kịch được chứ? Chuyện đó thế nào, thầy
Clewett?
Lúc đó một
giọng nói cất lên:
- Nghĩ sao
về một cuộc thi đánh vần?
Nhiều người
chen vào:
- Ý nghĩ kỳ
quặc!
- Đó là một
ý nghĩ hay! Hãy thi đánh vần đi!
Ông Clewett
chọn Bố và ông Gerald Fuller là những người hướng dẫn. Có ngay hàng loạt trò
đùa giỡn khi mọi người xúm lại mấy góc trước của gian phòng và bắt đầu gọi tên.
Laura ngồi
nhấp nhổm chờ coi. Dĩ nhiên những người lớn tuổi được chọn trước hết. Lần lượt
từng người bước lên và khi hai hàng người đã dài hơn, Laura bỗng sợ là ông
Gerald Fuller sẽ gọi tên cô trước khi Bố gọi. Cuối cùng, sự lo sợ nhất tạm
ngưng. Đến phiên Bố lựa và mặc dù Bố nói giỡn để chọc mọi người cười, Laura vẫn
có thể thấy Bố đang do dự. Rồi Bố quyết định và gọi:
- Laura
Ingalls!
Cô lật đật
bước tới chỗ kế tiếp trong hàng. Mẹ đã có mặt ngay phía trên cô. Rồi ông Gerald
Fuller gọi:
- Foster!
Ông Foster là
người cuối cùng trong đám người lớn đứng đối diện với Laura. Có lẽ Bố đã tính
chọn ông ta vì ông ta là người lớn nhưng Bố muốn có Laura. Laura nghĩ là chưa
hẳn ông Foster là người biết đánh vần khá. Ông ta chỉ là một chủ trại chuyên
chăm nuôi bò, mùa đông vừa qua đã khờ khạo ngã khỏi con ngựa Lady của Almanzo
Wilder khiến nó vùng chạy và bắn đại về phía bày linh dương khi chưa bước vào
tầm bắn.
Lúc này đám
học trò được chọn rất nhanh kể cả nhữngngười nhỏ nhất. Hai hàng người đứng dài
từ bàn giấy của thầy giáo bọc dài theo vách tới cửa ra vào. Lúc đó thầy Clewett
khởi sự trò đánh vần.
Đầu tiên
thầy đưa ra những từ đơn giản. “U, hu, ung, hung, hùng” và thầy chỉ ông
Barclay! Ông Barclay lúng túng đ ánh vần:
- Hùng,
hờung…hung, huyền…hùng!
Tiếng cười
rộ lên khiến ông ngạc nhiên. Ông cười theo khi đi tới một chiếc ghế và người
đầu tiên đã xong. Các từ càng lúc càng dài hơn và càng có thêm nhiều người đánh
vần bị đánh bại. Trước tiên là phía ông Gerald Fuller giảm dần rồi đến phía Bố,
rồi lại tới phía ông Gerald Fuller. Tất cả đều nóng người lên vì cười và căng
thẳng. Laura đang ở đúng trong môi trường của mình. Cô rất thích đánh vần. Dí
ngón chân trên các kẽ sàn ván, tay chắp sau lưng, cô đánh vần mọi từ đến với
mình. Phía đối thủ có bốn người bị loại và phía Bố có ba người thì lại đến
phiên Laura. Hít vào thật sâu, cô đánh vần một hơi dài trơn tru:
- Biến
chuyển: Biến, i-ê-nờ, iên -Bờ-iên, biên-sắc: Biến! Chuyển, u-y-ê-nờ, uyên- Chờ-uyên,
chuyên-hỏi: Chuyển! Biến chuyển!
Dần dần gần
như tất cả những chiếc ghế đều đầy người bị thua cuộc ngồi cười muốn hụt
hơi. Bên phía ông Gerald Fuller còn lại sáu người và bên phía Bố chỉ còn năm là
Bố, Mẹ, Florence Garland, Ben Woodworth và Laura.
Thầy Clewett
lại xướng lên:
- Quẩn
quanh!
Một người
bên phía đối thủ rời hàng vì không đánh vần trúng và giọng Mẹ cất lên nhẹ
nhàng. Thầy Clewett tiếp:
- Cẩm
chướng!
Ông Gerald
Fuller lẩm nhẩm đánh vần. Ông ấp úng, nhìn thầy Clewett rồi bắt đầu đánh vần trở
lại. Bỗng ông lên tiếng:
- Tôi chịu
thua.
Ông buông
người ngồi xuống và Florence Garland bất chợt khựng giữa chừng. Cô đã từng là
giáo viên! Người ngồi kế ông Gerald Fuller lại chịu thua, rồi Ben khẽ lắc đầu
rời chỗ không có một cố gắng nào. Laura đứng thẳng chờ đợi. Lúc này đứng đầu
hàng phía bên kia là ông Foster và ông bắt đầu đánh vần:
- Cẩm
chướng! Cẩm: Â-mờ, âm-hỏi, ẩm; Cờ ẩm, Cẩm!
Chướng: Ươ-ngờ, ương-sắc, ướng; Chờ ướng, Chướ ng!
Tiếng hoan
hô bùng lên và nhiều người hét lớn:
- Chúc mừng
ông, Foster!
Ông Foster
trút chiếc áo khoác dày ra, đứng thẳng trong chiếc sơ-mi ca-rô mỉm cười một
cách bẽn lẽn. Nhưng trong mắt ông lấp lóa một tia sáng. Không ai nghĩ rằng ông
là người đánh vần xuất sắc.
Những từ ào
xô tới, dồn dập và hiểm hóc, gồm cả những từ chứa ngầm mẹo gạt ở cuối sách đánh
vần. Phía bên kia chỉ còn lại mình ông Foster. Phía bên này, Mẹ đã chịu thua,
chỉ còn Bố và Laura đối đầu với ông Foster.
Không ai vấp
một sơ sót. Trong sự nín hơi im lặng, Bố đánh vần, ông Foster tiếp nối, Laura
theo sau rồi lại tới ông Foster. Một mình ông chống chọi với hai người nhưng
hình như không thể đánh bại ông nổi.
Lúc đó, thầy
Clewett xướng lớn:
- Thốc thếch
loạng quạng!
Đã tới phiên
Laura.
- Thốc thếch
lạng quạng!
Cô lập lại
và kinh hãi thấy mình bất ngờ bối rối. Cô khẽ nhắm mắt. Cô gần như nhìn rõ
từ đó nằm ở trang cuối sách đánh vần, nhưng cô không thể nghĩ ra. Giống
như cô đã đứng rất lâu trong sự chết lặng kinh hoàng trước những ánh mắt
chờ đợi.
- Thốc thếch
loạng quạng! Cô lập lại thêm một lần nữa trong sự tuyệt vọng và cuống quýt đánh
vần thật nhanh:
- Thốc: Oãc,
thờ ốc, thốc; thếch: Eãch, thờếch, thếch!...
Cô chỉ nghĩ
đến cần chấm dứt thật nhanh. Thầy Clewett lắc đầu. Laura run run ngồi xuống.
Lúc này chỉ còn lại một mình Bố. Ông Foster hắng giọng.
- Thốc thếch
loạng quạng!
Ông bắt đầu
đánh vần một cách suôn sẻ. Laura muốn nghẹn thở. Mọi người cũng nín hơi. Chợt
ông Foster đọc:
- Quạng: Cờ
ạng…
Thầy Clewett
đang chờ. Ông Foster khựng lại. Hình như thời khắc không chịu nhúc nhích.
Cuối cùng, ông Foster lên tiếng:
- Vậy là tôi
thua rồi!
Và ông ngồi
xuống. Đám đông khắp các phía vỗ tay vang dội hoan hô ông. Ông đã giành được sự
nể nang trong đêm đó. Bố vào cuộc. Hình như khó có ai tránh khỏi vấp váp
khi đánh vần mấy từ kinh khủng đó, nhưng Laura nghĩ:
- Bố có thể tránh
khỏi, Bố phải tránh khỏi! Giọng Bố như mỗi lúc một chậm hơn và Bố đã đi
tới từ cuối:
- Quạng:
A-ngờ, ang-nặng, ạng; quờ ạng, quạng!
Thầy Clewett
vỗ tay tán thưởng người đánh vần thoát bẫy. Tiếng vỗ tay tán thưởng dành cho Bố
vang lên như sấm rền. Bố đã chiến thắng toàn thị trấn về đánh vần. Rồi mọi
người chưa hết hừng hừng vì khuấy động ùa tới thu gom quần áo ấm. Bà Bradley
nói với Mẹ:
- Không biết
từ khi nào mới lại có một dịp vui thích như vầy!
Cô Garland
nói:
- Thú vị
nhất là được nghĩ mình còn có buổi họp mặt tiếp theo vào Thứ Sáu tới!
Đám đông
tiếp tục trò chuyện trong lúc tuôn đi như dòng suối và những chiếc đèn bão
chập chờn tiến về phía phố Main. Bố hỏi:
- Thế nào,
con có thấy dễ chịu hơn không, Laura?
Cô đáp:
- Dạ có! Ôi,
mình không từng có một dịp vui như thế!